Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiên Thân Tịnh Độ Luận

19 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 29147)
Thiên Thân Tịnh Độ Luận

THIÊN THÂN TỊNH ĐỘ LUẬN
Nguyên tác: Vasubandhu's discourse On The Pure Land
Tác giả: Thiên Thân Tôn Giả 
Dịch từ Hoa Ngữ: Hisao Inagaki
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển- 04/12/2010

Thi Kệ Ngưỡng Vọng Vãng Sinh: Luận Theo Kinh Vô Lượng Thọ

blankÔ Đức Thế Tôn, với lòng nhất tâm,
Con xin quy y với Đấng Vô Lượng Quang
Chiếu soi khắp cả mười phương,
Và ngưỡng vọng vãng sinh về Tịnh Độ Hòa Bình và An Lạc] (1)

Nương theo sự diễn giải của kinh
Của sự biểu hiện công đức chân thật,
Con viết những vần kệ ngưỡng mộ này trong hình thức dõng mãnh,
Do thế y theo Phật Pháp. (2)

Khi con quán chiếu về tính tự nhiên của Quốc Độ ấy,
Con thấy rằng nó vượt hơn tất cả những cõi nước hiện hữu trong ba cõi.
căn bản như hư không,
Rộng rãi bao la và không cương giới. (3)

Hiển hiện Đại Từ Bi tự nhiên trong Chính Đạo
Và từ gốc rể của phẩm hạnh trần gian tuyệt vời trước đây khởi sinh
Rực rở hoàn toàn với ánh sáng trong lành
Như tấm gương hay mặt trời hay mặt trăng. (4)

bao gồm những trân bảo hiếm hoi,
Và được phú cho với những sự trang hoàng tuyệt diệu.
Ánh sáng trong lành rực rở chói lòa
Và tĩnh lặng, bừng sáng toàn thế giới. (5)

Châu bảo trang hoàng, mềm mại và mượt mà như cỏ
Uốn bên phải và rẻ bên trái.
Chúng phát sinh cảm giác hoan hỉ trong những ai chạm phải,
Vượt hơn những cảm nhận sinh ra khi cỏ ca chiên lân đà [1] vuốt ve (6)

Vô vàn trạng thái khác nhau của châu báu rộ nở
Rãi rác vô số dọc theo hồ nước, dòng suối, dòng sông.
Khi một làn gió nhẹ thổi qua bông hoa và cây lá,
Ánh sáng phản chiếu xen lẩn và chiếu sáng khắp mọi phương. (7)

Cung điện và những tháp báo đủ loại
Bao quát những phong cảnh không chướng ngại khắp mười phương
Có những cây cối phô bày nhiều màu sắc,
Tất cả bao quanh với những hàng rào bằng trân bảo quý giá. (8)

Những màn lưới treo vô số châu báu
Giăng ngang bầu trời.
Khi chuông linh đủ loại rung lên,
Chúng tuyên dương những pháp bảo tuyệt vời. (9)

Bông hoa và y cà sa tuyệt đẹp rơi xuống,
vô biên hương báu đủ loại tỏa mùi thơm khắp mọi nơi.
Tuệ trí của Đức Phật tinh khiết và bừng sáng như mặt trời;
Xua tan bóng tối của thế giới si mê. (10)

Danh xưng thánh thiện giác ngộ con người xa thẩm và sâu rộng;
Vi tế và diệu kỳ và được nghe mọi nơi trong khắp mười phương.
Vùng đất được thủ hộ vững vàng bởi A Di Đà,
Đấng Giác Ngộ, Đấng Pháp Vương. (11)

Những bậc hiền nhân tham dự giống như những đóa hoa tinh khiết vây quanh Đức Như Lai
Được sinh ra ở đấy, hóa sinh từ trong những Đóa Hoa Giác Ngộ.
Tất cả thụ hưởng hương vị của Phật Pháp,
Và lấy thiền và định làm thực phẩm. (12)

Vĩnh viễn xa lìa những phiền não của thân thểtinh thần,
Tất cả hưởng thụ niềm an lạc, mà không bị trở ngại.
Trong thế giới diệu kỳ này của Đại Thừa
Tất cả chúng sinhbình đẳng và ngay cả những tên gọi của những chúng sinh không xứng đáng cũng không nghe đến ở đấy. (13)

Đàn bà, những người xấu xí và khiếm khuyết và
Những ai có hạt giống của Nhị thừa không sinh ra ở đây,
Bất cứ điều gì chúng sinh có thể khát ngưỡng
Họ đều được đầy đủ tất cả. (14)

lý do này con ngưỡng vọng được sinh
quốc độ của Đức Phật Di Đà.
Ngài ngự tọa trên tòa hoa sen thanh khiết diệu kỳ
Trang hoàng với vô số châu báu tuyệt hảo. (15)

Thân thể của Ngài hiển lộ ánh sáng diệu kỳ một sải tay;
Hình tướng của Ngài tuyệt diệu không thể sánh lường đến những chúng sinh khác.
Âm thinh phi thường của Thế Tôn như Phạm Thiên
Được nghe khắp mười phương.(16)

Giống như đất, nước, lửa, gió
không gian, Ngài không có những tư tưởng phân biệt.
Chư thiêncon người, không lay động trong sự thành tựu tâm linh của họ,
Được sinh ra từ đại dương của tuệ trí. (17)

Giống như núi Tu Di, vua của các ngọn núi,
Đức Phật A Di Đàtối thượng, diệu kỳ, và không thể so sánh.
Chư thiên và những bậc hiền nhân cao quý
Tôn kính, đi nhiễu chung quanh Ngài và ngước nhìn Ngài một cách trìu mến. (18)

Khi con quán chiếu Nguyện Lực Nguyên Sơ của Ngài,
Con thấy rằng những ai gặp được sẽ không trôi qua trong tuyệt vọng.
Người ta có thể đạt đến một cách nhanh chóng
Biển lớn của kho tàng công đức. (19)

Vùng đất của hòa bình, an lạcthanh tịnh và tĩnh lặng;
Đức Phật luôn luôn chuyển bánh xe pháp vô nhiễm.
Được chuyển hóa, chư Phật và Bồ Tát sáng rực toàn thế giới như mặt trời,
Trong khi duy trì sự bất động như núi Tu Di. (20)

Ánh sáng thanh tịnh, huy hoàng của chư Bồ Tát,
Trong sự bừng sáng đồng thời của một niệm,
Chiếu soi rực rở mỗi một chúng hội của Đức Phật
Và đem lợi ích cho vô lượng chúng sinh. (21)

Họ trổi âm nhạc, bông hoa, và y áo cõi trời,
Hương báu, và v.v…, và cúng dường chư Phật;
Tất cả ca ngợi và ngưỡng mộ công đức của chư Phật
Mà không có một tâm niệm phân biệt. (22)

Nếu bất cứ thế giới nào của vũ trụ
Không có kho tàng công đức của Phật Pháp,
Con quyết tâm được sinh ra ở đấy.
thuyết giảng Giáo Pháp như một Đức Phật . (23)

Con đã viết luận văn này và sáng tác những vần kệ
Với nguyện ước được thấy Đức Phật Di Đà
Và cùng với tất cả chúng sinh,
Được sinh ra trong vùng đất của Hòa Bình và Tịnh Lạc. (24)

Tôi đã trình bày chi tiết, bằng kệ văn, những thông điệp từ Kinh Đại Bổn Di Đà (Kinh Vô Lượng Thọ).

LUẬN GIẢI

I. Ba Thực Tập Chính Niệm Đầu Tiên

Những vần kệ Ngưỡng Vọng Vãng Sinh này biểu lộ điều gì? Chúng cho thấy rằng chúng ta quán chiếu về cõi Tịnh Độ, vùng đất của Hòa Bình và An Lạc, thấy Đức Thế Tôn Di Đà và ngưỡng vọng được sinh về Cực Lạc.

Làm thế nào chúng ta quán chiếuđánh thức niềm tin? Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc, cùng thấy Đức Thế Tôn Di Đà.

Những gì là Năm Cánh Cửa Thực Hành Chính Niệm? Đấy là: phụng thờ, ca ngợi, ngưỡng mộ, quán chiếuhồi hướng công đức.

1- Thế nào là Phụng thờ? – Đấy là hành động thân thể để phụng thờ [lễ lạy] Đức A Di Đà Như Lai, Ứng Cúng, Bậc Giác Ngộ hoàn toànChúng ta thực hiện hành động này vì chúng ta ngưỡng vọng được sinh về cõi Phật Di Đà.

2- Làm thế nào để Ca ngợitán dương Đức Phật Di Đà? - Chúng ta ca ngợitán dương Ngài bằng phương tiện của ngôn ngữChúng ta xưng Danh Hiệu của Đức Thế Tôn ấy mà danh hiệu ấy diễn tả Hào quanghóa thân của Tuệ Trí của Ngài, nguyện ước thực hành phù hợp với Giáo Pháp, tương ứng với ý nghĩa của Danh Hiệu.

3- Ngưỡng mộ đến cõi Tịnh Độ như thế nào? - Chúng ta liên tục phân tích; sửa đổi tư tưởng của chúng ta đối với việc cuối cùng đạt đến sự vãng sinh về vùng đất Hòa Bình và An Lạc, chúng ta nguyện ước việc thực hành thiền định một cách đúng đắn.

4- Quán chiếu có ba loại:

a- Quán chiếu về sự biểu hiện công đức huy hoàng của Cõi Phật.

b- Quán chiếu về công đức huy hoàng của Đức Phật Di Đà.

c- Quán chiếu về công đức huy hoàng đủ loại Bồ Tát.

5- Hồi hướng công đức của sự thực hành là như thế nào? - Chúng ta không quay lưng lại với những chúng sinh khổ đau, mà liên tục quyết tâm trong tâm thức chúng ta để hoàn hảo lòng Đại Từ Bi bằng việc hồi hướng công đức ở bên trên tất cả mọi thứ khác.

I- Quán chiếu về cõi Tịnh Độ

Chúng ta quán chiếu về những khía cạnh rực rở huy hoàng kỳ diệu của Cõi Phật như thế nào? Những phương diện diệu kỳ của Cõi Phật được cung ứng với năng lực không thể nghĩ bàn, và tính tự nhiên của những phương diện này giống như ngọc ước Ma ni.

Về sự quán chiếu những công đức diệu kỳ của Cõi Phật, có mười bảy phương diện. Những gì là mười bảy? Đấy là những công đức toàn hảo huy hoàng: 1- Thanh tịnh, 2- Rộng lớn, 3- Tự nhiên căn bản, 4- Hiện tướng rực rở, 5- Nhiều vẻ quý báu trang nghiêm, 6- Bừng sáng diệu kỳ, 7- Cảm giác siêu việt, 8- Ba nhân tố, 9- Mưa, 10- Ánh sáng, 11- Danh xưng tuyệt diệu, 12- Đức Phật Thế Tôn, 13- Thân quyến, 14- Nuôi dưỡng, 15- Tự do khỏi phiền não, 16- Đại nguyên lý môn, 17- Đầy đủ tất cả mọi nguyện vọng.

Chi tiết mười bảy phương diện:

1.- Hoàn thành công đức kỳ diệu thanh tịnh được diễn tả trong những dòng kệ: 

Khi con quán chiếu về tính tự nhiên của Quốc Độ ấy,

Con thấy rằng nó vượt hơn tất cả những cõi nước hiện hữu trong ba cõi.

( 3 ab)

2.- Hoàn thành công đức kỳ diệu rộng lớn được diễn tả trong những dòng kệ:

Căn bản như hư không,

Rộng rãi bao la và không cương giới (3cd)

3.- Hoàn thành công đức tự nhiên căn bản được diễn tả trong dòng kệ:

Hiển hiện Đại Từ Bi tự nhiên trong Chính Đạo

Và từ gốc rể của phẩm hạnh trần gian tuyệt vời trước đây khởi sinh

(4 ab)

4.- Hoàn thành công đức kỳ diệu trang nghiêm đủ loại trân bảo được diễn tả trong những dòng kệ sau:

bao gồm những trân bảo hiếm hoi,

Và được phú cho với những sự trang hoàng tuyệt diệu.

(5 ab)

5.- Hoàn thành công đức kỳ diệu bừng sáng rực rở được diễn tả trong những dòng kệ:

Ánh sáng trong lành rực rở chói lòa

Và tĩnh lặng, bừng sáng toàn thế giới. (5 cd)

6.- Hoàn thành công đức kỷ diệu cảm nhận được diễn tả trong những dòng kệ sau:

Châu bảo trang hoàng, mềm mại và mượt mà như cỏ

Uốn bên phải và rẻ bên trái.

Chúng phát sinh cảm giác hoan hỉ trong những ai chạm phải,

Vượt hơn những cảm nhận sinh ra khi cỏ ca chiên lân đà vuốt ve. (kệ 6)

Quan tâm đến việc hoàn thành công đức kỳ diệu của ba nhân tố, chúng ta phải biết rằng có ba nhân tố. Đấy là nước, đất, và bầu trời.

7.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của nước được diễn tả trong những dòng kệ:

Vô vàn trạng thái khác nhau của châu báu rộ nở

Rãi rác vô số dọc theo hồ nước, dòng suối, dòng sông.

Khi một làn gió nhẹ thổi qua bông hoa và cây lá,

Ánh sáng phản chiếu xen lẩn và chiếu sáng khắp mọi phương. (7)

8.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của đất được diễn tả trong những dòng kệ:

Cung điện và những tháp báo đủ loại

Bao quát những phong cảnh không chướng ngại khắp mười phương

Có những cây cối phô bày nhiều màu sắc,

Tất cả bao quanh với những hàng rào bằng trân bảo quý giá. (8)

9.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của bầu trời được diễn tả trong những dòng kệ:

Những màn lưới treo vô số châu báu

Giăng ngang bầu trời.

Khi chuông linh đủ loại rung lên,

Chúng tuyên dương những pháp bảo tuyệt vời. (9)

10.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của mưa được diễn tả bằng những dòng kệ:

Bông hoa và y cà sa tuyệt đẹp rơi xuống,

vô biên hương báu đủ loại tỏa mùi thơm khắp mọi nơi.(10 ab)

11.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của ánh sáng được diễn tả trong những dòng kệ:

 Tuệ trí của Đức Phật tinh khiết và bừng sáng như mặt trời;

Xua tan bóng tối của thế giới si mê. (10 cd)

12.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của danh hiệu được diễn tả bằng những dòng kệ:

Danh xưng thánh thiện giác ngộ con người xa thẩm và sâu rộng;

Vi tế và diệu kỳ và được nghe mọi nơi trong khắp mười phương.(11 ab)

13.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của Đức Thế Tôn được diễn tả bằng những dòng kệ:

Vùng đất được thủ hộ vững vàng bởi A Di Đà,

Đấng Giác Ngộ, Đấng Pháp Vương. (11cd)

14.- Hoàn thành công đức diệu kỳ của thân quyến được diễn tả trong những dòng kệ:

Những bậc hiền nhân tham dự giống như những đóa hoa tinh khiết vây quanh Đức Như Lai

Được sinh ra ở đấy, hóa sinh từ trong những Đóa Hoa Giác Ngộ. (12 ab)

15.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của thực phẩm được diễn tả trong những dòng kệ:

Tất cả thụ hưởng hương vị của Phật Pháp,

Và lấy thiền [quán] và định[chỉ] làm thực phẩm. (12cd)

16.- Hoàn thành công đức kỳ diệu trong sự tự do chắc chắn khỏi phiền não trong những dòng kệ:

Vĩnh viễn xa lìa những phiền não của thân thểtinh thần,

Tất cả hưởng thụ niềm an lạc, mà không bị trở ngại.(13 ab)

17.- Hoàn thành công đức kỳ diệu trong việc cung cấp cánh cửa của Đại nguyên tắc được diễn tả trong những dòng kệ:

Tất cả chúng sinhbình đẳng và ngay cả những tên gọi của những chúng sinh không xứng đáng cũng không nghe đến ở đấy. (13cd)

Đàn bà, những người xấu xí và khiếm khuyết và

Những ai có hạt giống của Nhị thừa không sinh ra ở đây,(14ab)

Chúng ta phải biết rằng phần thưởng của Tịnh Độgiải thoát khỏi hai loại chúng sinh không xứng đáng: (1) là chính họ và (2) danh xưng của họ. Chúng sinh có ba loại: (1) thành viên của nhị thừa ,(2) đàn bà và (3) những người xấu xí và khiếm khuyết. Bởi vì sự vắng mặt của ba loại không toàn hảo, ở đấy nói rằng ‘tự những chúng sinh không xứng đáng không tìm thấy ở đấy.’ Danh xưng cũng là ba loại. Không chỉ ba loại chúng ta như vậy tự không hiện hữu, mà ngay cả tên gọi của “nhị thừa”, ‘đàn bà’, và ‘những người xấu xí và khiếm khuyết’ cũng không nghe đến. Do vậy, nói rằng ‘ngay cả danh xưng không xứng đáng cũng không nghe thấy ở đấy.’ ‘Bình đẳng’ có nghĩa là thể hiện bình đẳng và có cùng đặc trưng.

Hoàn thành công đức kỳ diệu trong việc đầy đủ tất cả những nguyện vọng được diễn tả trong những dòng kệ:

Bất cứ điều gì chúng sinh có thể khát ngưỡng

Họ đều được đầy đủ tất cả. (14cd)

II- Tự LợiLợi Tha Toàn Hảo

Tôi đã giải thích một cách ngắn gọn mười bảy loại công đức kỳ diệu của cõi Phật Di Đà, mà đấy là biểu hiện sự toàn hảo của Đức Như Lai của cả năng lực công đức lớn cho lợi ích của riêng Ngài và công đức vì lợi ích cho những người khác.

III- Cõi Tịnh Độ Hướng Đến Thực Tại Tối Hậu

Những trang nghiêm của cõi Phật Vô Lượng Thọ là những khía cạnh hiện tượng của một thế giới kỳ diệu phát sinh từ thực tại tối hậu. Tôi đã giải thích theo thứ tự qua mười sáu đối tượng toàn hảo các trang nghiêm (từ thứ hai đến thứ mười bảy) và điều này (trang nghiêm thứ nhất). Điều này chúng ta phải biết.

IV- Quán Tưởng Đức Phật Di Đà

Quán tưởng hoàn thành công đức kỳ diệu về Đức Phật là gì? Chúng ta phải biết rằng có tám khía cạnh. Tám khía cạnh ấy là gì? Chúng là: 

  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của pháp tòa.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của thân thể.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của lời nói.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu hành vi tinh thần.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của chúng hội.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của năng lực tối thượng.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của giáo chủ.
  • Hoàn thành công đức kỳ diệu của phương tiện chắc chắn.

1.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của pháp tòa là gì? Nó được nói trong:

Ngài ngự tọa trên tòa hoa sen thanh khiết diệu kỳ

Trang hoàng với vô số châu báu tuyệt hảo. (15)

2.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của thân thể là gì? Nó được nói trong:

Thân thể của Ngài hiển lộ ánh sáng diệu kỳ một sải tay;

Hình tướng của Ngài tuyệt diệu không thể sánh lường đến những chúng sinh khác.(16 ab)

3.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của lời nói là gì? Nó được nói trong:

Âm thinh phi thường của Thế Tôn như Phạm Thiên

Được nghe khắp mười phương.(16 cd)

4.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của hành vi tinh thần là gì? Nó được nói trong:

Giống như đất, nước, lửa, gió

không gian, Ngài không có những tư tưởng phân biệt.(17ab)

Đức Phật Di Đà không có những tư tưởng phân biệt bởi vì Ngài không có tâm phân biệt.

5.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của chúng hội là gì? Nó được nói trong:

Chư thiêncon người, không lay động trong sự thành tựu tâm linh của họ,

Được sinh ra từ đại dương của tuệ trí. (17)

6.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của năng lực tối thượng là gì? Nó được nói trong:

Giống như núi Tu Di, vua của các ngọn núi,

Đức Phật A Di Đàtối thượng, diệu kỳ, và không thể so sánh.(18 ab)

7.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của Giáo Chủ là gì? Nó được nói trong:

Chư thiên và những bậc hiền nhân cao quý

Tôn kính, đi nhiễu chung quanh Ngài và ngước nhìn Ngài một cách trìu mến. (18 cd)

8.- Hoàn thành công đức kỳ diệu của phương tiện chắc chắn là gì? Nó được nói trong :

Khi con quán chiếu Nguyện Lực Nguyên Sơ của Ngài,

Con thấy rằng những ai gặp được sẽ không trôi qua trong tuyệt vọng.

Người ta có thể đạt đến một cách nhanh chóng

Biển lớn của kho tàng công đức. (19)

Khi chư Bồ Tát chưa đạt đến tâm thanh tịnh để thấy Đức Phật, họ sẽ cuối cùng có thể thực chứng Pháp thân Bình Đẳng và sẽ bình đẳng với những Bồ Tát tâm thanh tịnh và những vị ở những tầng bậc cao hơn trong việc thân chứng tịch tĩnhbình đẳng.

Tôi đã giải thích ngắn gọn tám khía cạnh về hành vi của Đức Phật, minh chứng rằng những công đức kỳ diệu của Đức Thế Tôn vì lợi ích của riêng Ngài và cho những người khác đã được hoàn tất qua thứ tự. Quý vị phải thể nhận ngụ ý của điều này.

V- Quán Chiếu Về Những Bồ Tát

Quán chiếu về việc hoàn thành những công đức kỳ diệu của những Bồ Tát là gì? Đấy là quán chiếu về những vị Bồ Tát, mà trong những vị ấy chúng ta thấy sự hoàn thành những công đức của việc thể hiện bốn điều thực tập đúng đắn. Quý vị phải thể nhận ngụ ý của điều này.

Bốn điều thực tập đúng đắn là gì?

1- Thứ nhất, trong khi cư ngụ bất động trong cõi Phật, chư Bồ Tát thể hiện nhiều thân chuyển hóa khác nhau khắp mười phương, biểu lộ sự thực hiện những thực tập phù hợp với Giáo Pháp và dấn thân liên tục trong Phật sự. Kệ nói rằng:

Vùng đất của hòa bình, an lạcthanh tịnh và tĩnh lặng;

Đức Phật luôn luôn chuyển bánh xe pháp vô nhiễm.

Được chuyển hóa, chư Phật và Bồ Tát sáng rực toàn thế giới như mặt trời,

Trong khi duy trì sự bất động như núi Tu Di. (20)

Vì các ngài tìm cách để làm cho những chúng sinh có thể khai mở như những hoa sen trong đầm lầy.

2- Thứ hai, bất cứ lúc nào họ muốn, thân thể các ngài điều tiếtchuyển hóa phóng ra hào quang vĩ đại và chiếu đến đồng thời tất cả thế giới trong mười phương và trong một thoáng suy nghĩ nhằm để dạy dỗ và hướng dẫn chúng sinh; vì các ngài tìm cách để tiêu trừ khổ đau của chúng sinh bằng những phương tiện, thực hànhhoạt động thực tiển đa dạng. Kệ nói rằng:

Ánh sáng thanh tịnh, huy hoàng của chư Bồ Tát,

Trong sự bừng sáng đồng thời của môt niệm,

Chiếu soi rực rở mỗi một chúng hội của Đức Phật

Và đem lợi ích cho vô lượng chúng sinh. (21)

3- Thứ ba, đã chiếu soi tất cả thế giới không thiếu nơi nào, các ngài chiếu sáng mỗi một chúng hội của chư Phật. Trên một mức độ đo lường rộng rãi mênh mang, các ngài cúng dường đến chư Phật, chư Thế Tôn, đỉnh lễca ngợi đức độ của các Ngài. Kệ nói rằng:

Họ trổi âm nhạc, bông hoa, và y áo cõi trời,

Hương báu, và v.v…, và cúng dường chư Phật;

Tất cả ca ngợi và ngưỡng mộ công đức của chư Phật

Mà không có một tâm niệm phân biệt. (22)

4- Thứ tư, các ngài thăm viếng những vị trí trên tất cả mọi thế giới trong mười phương nơi Ba Ngôi Tôn Quý không hiện hữuThiết lập và vinh danh công đức như đại dương quý báu của Phật, Pháp, và Tăng, các ngài biểu lộgiải thích những sự thực hành đúng đắn cho tất cả. Kệ nói rằng:

Nếu bất cứ thế giới nào của vũ trụ

Không có kho tàng công đức của Phật Pháp,

Con quyết tâm được sinh ra ở đấy.

thuyết giảng Giáo Pháp như một Đức Phật . (23)

VI- Tất Cả Những Sự Biểu Hiện Kỳ Diệu Thâm Nhập Vào Trong Tâm –Nguyện

Tôi (Vasubadhu) đã giải thích trên sự quán chiếu việc hoàn thành những công đức kỳ diệu của cõi Phật, Đức Phật và chư Bồ Tát. Ba loại hoàn thành này được trang nghiêm với thệ nguyệnChúng ta phải thể nhận những hàm ý này.

VIIThâm Nhập vào trong Giáo Pháp Một Nguyên Lý

Trình bày tóm tắt, các ngài thâm nhập vào trong Giáo Pháp Một Nguyên Lý. Giáo Pháp Một Nguyên Lý là Nguyên Tắc Thanh Tịnh; Nguyên Tắc Thanh TịnhPháp ThânĐiều Kiện được thân chứng qua Tuệ Trí Chân Chính.

IX- Hai Loại Thanh Tịnh

Thanh tịnh được phân biệt thành hai loại. Chúng ta phải nhận ra điều này. Những gì là hai loại? Thứ nhất,Thanh tịnh của cõi Phật như nơi cư trú. Thứ hai, Thanh tịnh của những cư dân ở đấy.

1- Sự thanh tịnh của cõi Phật liên hệ đến việc hoàn thành mười bảy loại trang nghiêm của cõi Phật ấy; những điều này gọi là sự thanh tịnh của cõi Phật

2- Sự thanh tịnh của cư dân liên hệ đến tám loại trang nghiêm của Đức Phật và bốn loại trang nghiêm của Bồ Tát; những điều này được gọi là sự thanh tịnh của cư dân.

Vì thế Một Nguyên lý Giáo Pháp bao hàm hai loại thanh tịnh này. Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

X- Chuyển hóa chúng sinh với phương tiện thiện xảo

Vì thế, chư Bồ Tát thực hành thiền định (Shamatha) phô bày sâu đậm và thiền quán (vipashyana) hiển lộ rộng lớn, và vì thế đạt đến tâm nhu nhuyến. Các ngài thể chứng thật sự cả những biểu hiện rộng lớn và nguyên tắc bao quát tất cả. Vì thế các ngài hoàn thành chuyển hóa công đức bằng những phương tiện thiện xảo.

Sự chuyển hóa công đức của chư Bồ Tát bằng phương tiện thiện xảo là gì? Sự chuyển hóa công đức bằng phương tiện thiện xảo là biến tất cả những công đức và gốc rể của những sự tích tập thánh thiện bằng việc thể hiện năm loại thực hành, chẳng hạn như phụng thờ, đến tất cả chúng sinh, tiêu trừ khổ não của họ, và các ngài không tìm kiếm sự hưởng thụ những khoái lạc vì sự sống của chính các ngài, nhưng nguyện ước ôm ấp tất cả chúng sinh và hổ trợ họ đạt đến vãng sinh về cõi Phật hòa bình và an lạc cùng với chính các ngài. Điều này gọi là “sự hoàn thành chuyển hóa công đức của chư Bồ Tát bằng phương tiện thiện xảo.”

XI- Tiêu Trừ những Chướng Ngại đến Giác Ngộ

Đã chủ động phương pháp hoàn thành sự chuyển hóa công đức, bây giờ chư Bồ Tát có thể tiêu trừ ba loại chướng ngại đến Giác Ngộ. Những gì là ba?

1- Thứ nhất, bằng việc thâm nhập vào cánh cửa của tuệ trí, các ngài không tìm sự khoái lạc cho riêng mình, và vì thế các ngài diệt trừ bất cứ tư tưởng nào của chấp ngã.

2- Thứ hai, bằng việc thâm nhập vào cánh cửa của từ bi, các ngài giải thoát khổ đau của tất cả chúng sinhtiêu trừ sự miễn cưỡng do dự để ban hòa bình cho họ.

3- Thứ ba, bằng việc thâm nhập vào cánh cửa của phương tiện thực tiển, các ngài đạt đến từ bi cho tất cả chúng sinh và vì thế diệt trừ bất cứ tư tưởng nào tìm cầu sự ngưỡng mộ và tôn trọng của người khác.

Đây gọi là sự diệt trừ ba loại chướng ngại đến Giác Ngộ.

XII- Thành Tựu Phù Hợp với Giác Ngộ

Đã tiêu trừ ba loại chướng ngại đến Giác Ngộ, chư Bồ Tát bây giờ có thể hoàn toàn đạt đến ba loại tâm trong sự phù hợp Giác Ngộ. Những điều này là gì?

1- Thứ nhất, tâm thanh tịnh vô nhiễm: các ngài đạt đến tâm này vì các ngài không tìm cầu sự khoái lạc của riêng các ngài.

2- Thứ hai, tâm hòa bình thanh tịnh: chư Bồ Tát đạt đến tâm này vì các ngài tìm cách tiêu trừ khổ đau của tất cả chúng sinh.

3- Tâm thanh tịnh an lạc: chư Bồ Tát đạt đến tâm này vì các ngài có thể làm cho tất cả chúng sinh tiếp cận Đại Giác Ngộ và vì mục tiêu này các ngài tiếp đón và đưa chúng sinh đạt đến việc vãng sinh vào cõi Cực Lạc.

Những điều này được gọi là “hoàn toàn đạt đến ba tâm phù hợp với Giác Ngộ”. Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

XIII- Tóm Tắt Một Số Thuật Ngữ Chìa Khóa

Ba cánh cửa đã đề cập ở trên – tuệ trí, từ bi, và phương tiện thiện xảo – bao hàm Bát nhã; Bát nhã chứa đựng phương tiện thiện xảoChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Ba loại tiêu trừ kể trên – tiêu trừ bất cứ tư tưởng nào của ngã chấp, tiêu trừ sự miễn cưỡng do dự ban bố hòa bình cho tất cả chúng sinh, và tiêu trừ bất cứ tư tưởng nào tìm cầu sự ngưỡng mộ và tôn trọng bởi những người khác – là những cung cách của việc loại bỏ những chướng ngại đến Giác NgộChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Ba loại tâm đề cập ở trên – tâm thanh tịnh vô nhiễm, tâm hòa bình thanh tịnh, và tâm thanh tịnh an lạc – được phối hợp để hình thành “tâm tối thượng, an lạc, vô tỉchân thật.” Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

XIV- Hoàn Thành những Thệ Nguyện và Hành Động

Trong cách này, tâm tuệ trí, tâm thiết thực, tâm vô chướng ngại, tâm vô thượngchân thật của chư Bồ Tát đem đến sự vãng sinh trong cõi Tịnh Độ của PhậtChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Điều này được gọi là ‘sự hoàn thành những hành động của Bồ Tát, Ma Ha Tát, khi khao khát thâm nhập qua năm cánh cửa của Pháp Bảo.’ Những hành động của thân thể, lời nói, tâm ý, tuệ trítuệ trí của phương tiện thiện xảo như được đề cập ở trên là những cánh cửa của Pháp Bảo làm cho thích ứng đến con đường vãng sinh về cõi Tịnh Độ.

XV- Hoàn Thành Những Hành Động Lợi Ích

Một lần nữa, có năm cánh cửa, mà chúng nhằm để sản sinh năm loại công đứcChúng ta phải thể nhận hàm ý này. Những gì là năm cánh cửa? Chúng là:cánh cửa của tiếp cận, cánh cửa của chúng hội lớn, cánh cửa của nơi cư trú, cánh cửa của phòng nhà, và cánh cửa của nơi giải trí.

Trong năm cánh cửa, bốn cánh cửa đầu sản sinh công đức trong phương diện ‘đi vào’ và cánh cửa thứ năm sản sinh công đức trong phương diện ‘đi ra’.

1- Cánh cửa thứ nhất trong phương diện ‘đi vào’ là để phụng thờ lễ bái Đức Phật Di Đà nhằm để được vãng sinh trong cõi Phật; bằng điều này, chúng ta đạt đến việc vãng sinh vào cõi Hòa Bình và An Lạc, và vì thế nó được gọi là Cánh cửa thứ nhất trong phương diện ‘đi vào’[Tịnh Độ].

2- Cánh cửa thứ hai trong phương diện ‘đi vào’ là để ca ngợi Đức Phật Di Đà, trong khi trì danh hiệu Phật trong sự phù hợp với ý nghĩathực hành trong sự phù hợp với ánh sáng của tuệ trí; bằng điều này chúng ta tham dự chúng hội lớn. Điều này được gọi là cánh cửa thứ hai trong phương diện ‘đi vào’.

3- Cánh cửa thứ ba trong phương diện ‘đi vào’ là ngưỡng mộ một cách nhất tâmchân thành để được vãng sinhthể hiện sự thực hành thiền định (shamatha) tĩnh lặng; bằng điều này chúng ta có thể đến cõi Sen báu. Điều này được gọi là cánh cửa thứ ba của phương diện ‘đi vào.’

4- Cánh cửa thứ tư trong phương diện ‘đi vào’ là quán chiếu một cách nhiệt tình những trang nghiêm kỳ diệu và vì thế thực tập thiền quán (vipashyana); bằng điều này chúng ta có thể đến cõi Tịnh Độ, nơi mà chúng ta sẽ thụ hưởng những sự hấp dẫn đủ loại của Giáo Pháp. Điều này được gọi là cánh cửa thứ tư của “đi vào.”

5- Cánh của thứ năm của phương diện ‘đi ra’ là quán chiếu với lòng đại từ bi với tất cả chúng sinh đau khổ, biểu hiện thân thể thích hợpchuyển hóa, và thâm nhập vào khu vườn sinh tử và khu rừng đam mê tội lỗi, nơi những Bồ Tát diễn bày, những năng lực biểu hiện siêu việt, vì thế, các ngài cư trú trong tầng bậc giáo hóa chúng sinh khác qua sự chuyển hóa công đức của Đức Phật Di Đà bằng Năng Lực của Thệ Nguyện Nguyên Sơ của các ngài. Điều này được gọi là cánh cửa thứ năm trong phương diện ‘đi ra’ [hóa độ].

Chư Bồ Tát hoàn thành sự thực tập vì lợi ích của riêng các ngài với bốn cánh cửa trong phương diện ‘đi vào’. Chúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Qua cánh cửa thứ năm của ‘đi ra’ chư Bồ Tát hoàn thành sự thực tập về việc làm lợi ích cho người khác bằng việc chuyển hóa công đứcChúng ta phải thể nhận hàm ý này.

Do thế, bằng việc thể hiện năm sự thực hành chính niệm, Bồ Tát hoàn thành cả tự lợilợi tha, và vì vậy nhanh chóng đạt đến Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Kết thúc sự trình bày giản lược của tôi về căn bản của Những Vần Kệ Ngưỡng Vọng Vãng Sinh, Luận theo Kinh Vô Lượng Thọ (hay Kinh Đại Bổn Di Đà).

[1] Ca Thi Lân Ðà [kacilindika]là một thứ cỏ rất mềm mại, mịn màng ở Ấn Ðộ, người khi chạm vào cỏ ấy sanh lòng vui vẻ êm dịu

[Bibliography] H. Inagaki, Ojoronchu: T'an-luan's Commentary on Vasubandhu's Discourse on the Pure Land: A Study and Translation, Nagata Bunshodo, Kyoto, 1998, pp. 120-291.

Tuệ Uyển chuyển ngữ - 16/12/2010

http://www12.canvas.ne.jp/horai/jodoron.htm

 

GHI CHÚ THÊM CỦA BBT

Vasubandhu
(skt): Bà Tẩu Bàn Đầu—Bà Tu Bàn Đầu—Bạt Tu Bàn Độ—Thế Thân—Thiên Thân—Đại triết gia Bà Tẩu Bàn Đậu (Vasubandhu) hay Thế Thân sanh tại Bạch Sa Ngõa thuộc xứ Kiện Đà La, sanh 900 năm sau ngày Phật nhập Niết bàn. Ngài là con thứ hai trong số ba người con của một gia đình Bà La Môn. Cả ba người đều được gọi là Bà Tẩu Bàn Đầu và cả ba đều trở thành Tỳ Kheo Phật giáo. Thời niên thiếu, ngài đã gắn bó với giáo thuyết Tiểu Thừa, trường phái Kinh Lượng Bộ. xuất gia theo Hữu Bộ. Ngài âm thầm đến Ca Thấp Di La để học triết học A Tỳ Đàm. Khi trở về cố hương, ngài viết bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận, có lẽ đây là bộ luận nổi tiếng nhất trong các bộ A Tỳ Đạt Ma Luận, Nhưng sau đó không thỏa mãn với giáo lý chính của trường phái này, ngài đã được người anh là Vô Trước (Asanga) giúp chuyển tu từ Tiểu Thừa sang Đại Thừa. Vào ngày lễ đổi tông phái ấy, ông muốn cắt bỏ cái lưỡi đã phỉ báng Đại Thừa, nhưng ngài Vô Trước đã can ngăn và khuyên ông nên dùng chính cái lưỡi ấy chuộc lỗi. Ông đã viết bộ Duy Thức Học và những tác phẩm Đại Thừa khác. Ông là tổ thứ 21 của dòng Thiền Ấn Độ. Thế Thân Bồ tát là một trong những nhà triết học Phật giáo nổi tiếng người Ấn Độ. Cùng với người anh của ngài là Vô Trước (Asanga) đã sáng lập ra hai trường phái Sarvastivada và Yogachara. Ngài và người anh là Vô Trước được xem như là một trong hai nhân vật chính trong việc phát triển trường phái Du Già. Thế Thân (Vasubandhu) còn là tác giả của 30 ca khúc Trimshika, giải thích học thuyết Yogachara. Ngài còn trước tác những bộ luận nổi tiếng gồm các bộ “Nhị Thập Luận,” và bộ “Tam Thập Luận,” vân vân. Hiện nay bộ A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Luận vẫn còn lưu trữ với 60 quyển của bản Hán dịch. Bản văn Phạn ngữ đã bị thất lạc, nhưng may chúng ta có một bản chú giải do Yasomitra viết mệnh danh là A Tỳ Đạt Ma Câu Xá Thích Luận; nhờ tác phẩm nầy mà cố giáo sư Louis de la Vallée-Pousin ở Bỉ dễ dàng trong việc tái tạo bản văn thất lạc và được kiện toàn bởi Rahula Sankrityayana người Tích Lan. (Trích từ Tự điển Phật Học Thiện Phúc)

blank
Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11504)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10585)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10847)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9952)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9611)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12975)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13391)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13540)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19900)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12602)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13324)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13601)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13087)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12424)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18635)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10730)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12457)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11053)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11247)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14759)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22719)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11641)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10222)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34652)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17819)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32811)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22198)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11275)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17680)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17240)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10751)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10913)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9654)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10661)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10655)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10630)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12539)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12467)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 10035)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13296)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9778)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9167)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11892)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13544)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12110)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11356)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11663)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10408)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10316)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10965)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28306)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10898)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7474)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9389)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11833)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11740)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11161)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10378)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10320)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13880)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 15087)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10571)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11970)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10960)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10584)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10732)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9958)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10739)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9372)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10060)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10254)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10590)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10675)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10608)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10167)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9887)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13604)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16423)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13545)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11623)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11209)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11172)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12276)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15464)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10683)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11756)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10676)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11156)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10078)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10478)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11489)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11059)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12996)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24507)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12673)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10336)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28790)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19417)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 11016)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23470)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant