Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 24

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10562)
Phần 24

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 24)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Thứ tư, “Khẩu hòa vô tranh”

Phật biết những hiểu lầm kết oán của chúng sanh phần lớn đều do lời nói tạo thành, nên gọi là “nói nhiều ắt sai”. Không nên nói quá nhiều, nói nhiều sẽ có sai lầm, dễ dàng dẫn đến nghi hoặc hiểu lầm của người khác, thế là liền kết oán với người. Sau khi kết oán thì oan oan tương báo không hề ngừng dứt. Ngay trong hữu ý vô ý tạo thành chướng nạn trên đạo Bồ Đề. Cho nên người xưa dạy “nói ít một câu chuyện, niệm nhiều một câu Phật”, ngay khi chúng ta muốn nói chuyện, lời nói vừa đến cửa miệng thì “A Di Đà Phật”. Cách này rất tuyệt, chân thật làm đến được “khẩu hoà vô tranh”. Một ngày từ sớm đến tối nhìn thấy người hoan hỉ vui vẻA Di Đà Phật”. Dù người ta nói chuyện gì, chúng ta đều nói “A Di Đà Phật”, tâm bình khí hòa. Một câu A Di Đà Phậtchân ngôn, ngoài câu A Di Đà Phật, còn lại toàn là vọng ngữ. Đọc kinh cũng không thể, chỉ niệm Phật mới vãng sanh, có thể thành Phật. Đọc kinh vẫn còn có thể khởi vọng tưởng. Vọng tưởng xen tạp ngay trong kinh văn thì kinh đó có đọc cũng không hiệu quả, không có tác dụng.

Người xưa nói “đọc kinh không bằng niệm chú, niệm chú không bằng niệm Phật”, vì sao? Phật hiệu rất đơn giản, vọng tưởng khó mà xen tạp. Đọc kinh càng dài càng dễ xen tạp. Bạn tưởng tượng xem, bạn đọc chú Lăng Nghiêm nhất địnhvọng tưởng xen tạp trong đó, vì thời gian quá dài, sức mạnh nhiếp thọ của chúng ta không đủ. Niệm một chú vãng sanh tương đối ngắn, tinh thần tập trung từ đầu đến cuối một biến đại khái không đến nỗi xen tạp. Nhưng nếu bạn đọc một lúc ba mươi biến, hay năm mươi biến, nhất định sẽ có vọng niệm xen tạp trong đó. Phật hiệu thì đơn giản hơn nhiều.

Ngày trước tôi truyền dạy cho mọi người niệm Phật hiệu “Nam mô A Di Đà Phật” sáu chữ, một hơi niệm mười lần. Trong mười câu Phật hiệu không xen tạp vọng niệm nào. Một phút lực nhiếp thọ của chúng ta có thể làm được, nhưng năm phút thì không thể làm được. Cho nên mỗi ngày thời khóa này của bạn phải là một phút mười câu Phật hiệu. Mười câu Phật hiệu này tương ưng với nguyên tắc niệm Phật của Bồ tát Đại Thế Chí, “tịnh niệm tương tục”, tịnh niệm không hoài nghi, không xen tạp; tương tục là mười câu Phật hiệu liên tục. Mỗi ngày niệm ít nhất chín lần, đương nhiên càng nhiều càng tốt. Cứ như thế tạo thành thói quen, chân thật một lòng chuyên niệm, lại có nguyện vọng khẩn thiết cầu sanh tịnh độ thì làm gì không được vãng sanh.

Đừng xem thường một ngày chín niệm, nó chân thậthiệu quả và thuộc về tịnh niệm liên tục. Cho nên nhất định phải làm được “khẩu hoà vô tranh”. Tất cả pháp thế gian đều là giả, không phải thật, có gì đáng để tranh luận. Người khác tán thán ta là giả, đừng ưa thích; người khác hủy báng ta, nhục mạ ta cũng là giả, hà tất sân hận. Họ mắng người khác, vì sao bạn không tức giận? Vì đó không phải là mắng ta. Mắng người khác bạn không tiếp nhận, nhưng khi họ mắng bạn, bạn lại tiếp nhận, về nhà tức giận bực dọc. Bạn hãy đem chính mình xem thành người khác, họ mắng người khác không liên quan gì với ta, như thế bạn sẽ không tức giận. “Ta” là giả, danh là giả, tướng cũng là giả. Người ta mắng, người ta làm nhục, thực tế mà nói cùng với cái danh này, cái tướng này, gió thổi qua tai không hề liên quan. Đây là chân tướng sự thật. Hiểu rõ chân tướng sự thật, chúng ta lại đi học Phật, hiểu được một chút đạo lý thì khi họ mắng, ta hãy “A Di Đà Phật” cám ơn đã tiêu tai giải nạn. Họ là đại thiện tri thức, đại ân nhân của chúng ta. Mỗi câu của họ đều tiêu tai giải nạn thay ta. Nghiệp chướng của chúng ta sẽ được tiêu hết. Cho nên bạn có thể hoan hỉ tiếp nhận, như như bất động.

Còn nếu bạn khởi tâm sân hận, vậy thì bạn tạo nghiệp chướng. Chỉ ở ngay trong một niệm, khi chuyển đổi lại không những không tạo nghiệp chướng trái lại còn tiêu nghiệp chướng. Phật thật có trí tuệ, ngài dạy chúng ta tuyệt chiêu này. Cho nên đối với tất cả oan gia trái chủ, mỗi ngày chúng ta đem công đức tu tích được hồi hướng cho họ, báo đại ân của họ. Những oan gia trái chủ này ngày ngày giúp ta tiêu nghiệp chướng vô lượng vô biên tích lũy từ vô thỉ kiếp.

Các vị phải biết, người mỗi ngày tán thán bạn, tâng bốc bạn, họ không thể tiêu được nghiệp cho bạn. Tán thán nhiều thì cống cao ngã mạn càng sanh, lại sanh ra nghiệp chướng. Do đó “khẩu hòa vô tranh”, phải biết nên làm thế nào.

Thứ năm, “Ý hòa đồng duyệt”

Chân thật tu học tương ưng như pháp, bạn nhất định được pháp hỉ sung mãn, đời sống của bạn chân thậtlìa khổ được vui”. Các bạn phải ghi nhớ, sự an vui này không phải do được tiền của, cũng không phải được công danh phú quý. Thực ra, an vui và công danh phú quý, tiền của hoàn toàn chẳng có liên quan. Nếu không tin tưởng, bạn có thể hỏi thử những người đạt địa vị rất cao, có nhiều tiền của xem họ có an vui không. Họ không vui, họ không dám đi một mình trên phố vì sợ bị ám sát, cướp giật. Ngày ngày họ đề cao cảnh giác, sống trong lo sợ. Ra cửa phải nhờ vệ sĩ. Bạn nói xem có đáng thương không?, làm sao được như người nghèo không có thứ gì, muốn đi đâu thì đi, rất tự tại, có thể hoan hỉ với bất cứ người nào. Cho nên an vui không có quan hệ gì với những thứ này.

Sự an vui chân thậtpháp lạc. Thông hiểu đối với chân tướng của vũ trụ nhân sanh, đó mới là thật an vui. Khởi tâm động niệm lời nói việc làm đều tương ưng với lý, tương ưng với chân tướng sự thật.

Ý hòa đồng duyệt, mỗi người chúng ta đều y theo phương pháp lý luận cảnh giới của kinh Vô Lượng Thọtu học, đều học tập Phật A Di Đà thì thật an vui. Thế xuất thế gian không có bất cứ thứ an vui nào có thể so sánh được với an vui của người niệm Phật. Tu học bất cứ pháp môn nào cũng không thể sánh được với sự an vui của pháp môn niệm Phật. Nếu bạn nói: “tôi niệm Phật nhiều năm đến nay, niệm rất khổ sở, không có một chút an vui nào, đó là do nguyên nhân gì?” Vì bạn vẫn chưa vào được cửa. Bạn niệm không được tương ưng; ngày ngày đọc kinh, đạo lý trong kinh nói không hiểu, không rõ ràng, không tường tận, không thể đem những đạo lý này dùng ngay trong cuộc sống của chính mình. Có học mà không thể dùng, cái khổ của bạn không lìa khỏi. Nếu như cái bạn đã học thảy đều áp dụng ngay trong cuộc sống thường ngày; từng li từng tí đều có thể tương ưng với cảnh giới phương pháp lý luận của kinh điển thì làm gì có chuyện không an vui. Tây Phương gọi là thế giới cực lạc, hiện tại chúng ta tuy chưa đến, nhưng không khí của thế giới cực lạc chúng ta đã có; an vui của thế giới cực lạc có rồi. Như vậy hiện tạihoa báo, chứng thật quả báo thù thắng.

Thứ sáu, “Lợi hòa đồng huân”

Điều này rất quan trọng. Phật nói pháp, điều quan trọng nhất là câu thứ nhất và câu sau cùng. Lợi là phước báu cá nhân của chúng ta. “Lợi hòa đồng huân”, tức có phước cùng hưởng. Ta có phước báu phải cùng hưởng với tất cả mọi người. Họ có phước báu thì ta không cần hưởng của họ. Chúng ta chỉ bỏ ra, không hề cầu lấy, tâm của bạn mới thanh tịnh, mới tương ưng. Ta có phước báu cung cấp cho người cùng hưởng, người khác có phước báu ta cũng hưởng, như vậy liền biến thànhcó báo có thưởng”, là có qua có lại, thành ra làm ăn buôn bán, vậy là chưa giác ngộ. Người chân thật giác ngộ chỉ có phụng hiến không có cầu lấy, tâm thanh tịnh tự tại.

Xin nói với các vị, nếu chân thật làm được như vậy, phước báu của bạn ngày càng nhiều, vì sao? Đức năng vốn đủ trong tự tánh hiện tiền, chướng ngại trong tự tánh được thanh trừ. Còn ta có một ý niệm muốn hưởng phước người khác, đó là chướng ngại, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Khi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước thảy đều không còn thì phước đức của tánh hiện tiền. Chúng ta xem thế giới Tây Phương Cực Lạc trong kinh điển, thế giới Hoa Tạng của Tỳ Lô Giá Na Phật trên kinh Hoa Nghiêm, loại thù thắng trang nghiêm đó không những nhân gian không có mà đại phạm thiên cũng không có.

Các vị nên biết, phước báu này không phải do tu được mà từ trong tự tánh biến hiện ra. Trong tự tánh vốn sẵn đầy đủ, chỉ cần chúng ta nỗ lực làm, lợi hòa đồng tu, tánh đức liền có thể hiện tiền. Giả như vọng tưởng, phân biệt, chấp trước của bạn chưa đoạn, bạn tu bố thí, tu cúng dường, thì có thể được phước. Bạn có là do tu đức cả đời, đó không phải là phước đức trong tự tánh vốn có. Phước đức của bạn đã tu có thể báo được hết, cũng chính là có thể dùng được hết. Nếu không tiếp tục tu, phước báu dùng hết rồi thì không còn nữa. Việc này chúng ta rất dễ dàng nhìn thấy trong xã hội.

Tài bố thí

Trong kinh luận Phật nói với chúng ta, phước báu của người thế gian, tiền của là do tu tài bố thí mà được. Bạn bố thí càng nhiều thì tiền của mà bạn có được càng nhiều. Ngày nay chúng ta xem thấy trên thế giới, có rất nhiều thương nghiệp qui mô, xí nghiệp to lớn, họ có nhiều tiền của, do đâu mà có? Do đời trước tu được, họ có rất nhiều là do rất nhiều đời tu tích, đến đời này duyên chín muồi, nên phát tài nhiều như vậy, được quả báo thù thắng đến như vậy.

Thế nhưng hưởng phước là một việc phiền não, vừa hưởng phước thì liền hồ đồ, liền bị phước báu mê. Sau khi mê, họ không chịu tiếp tục tu phước nữa. Không có trí tuệ, cho dù muốn tu phước, làm chút việc tốt, một số việc từ thiện phúc lợi xã hội, phước báu có được rất nhỏ. Họ không hiểu việc tu tích phước báu lớn thù thắng, cụ thể như thông minh trí tuệquả báo của tu pháp bố thí. Thế gian có người thông minh trí tuệ nhất đẳng, siêu vượt người bình thường, do đời quá khứ, người này đã tu pháp bố thí. Khỏe mạnh sống lâu là trong đời quá khứ tu tích vô úy bố thí. Do đây có thể biết đạo lý của nhân duyên quả báo cùng với chân tướng sự thậtchân thật bất hư, tu nhân thế nào thì được quả báo thế đó.

Xã hội ngày nay, nhất là vào những năm 1998 này, nếu các vị bình lặng quan sát sẽ thấy xã hội tràn đầy nguy cơ, cả thế giới không tìm ra một nơi an toàn. Không luận địa vị của bạn, tiền của, quyến thuộc của bạn, liệu bạn có giữ được hay không? Không ai dám chắc. Người đầu óc sáng suốt, hiểu rõ qua được một ngày tính một ngày, ai biết được ngày mai sẽ như thế nào. Nhất là hiện tại nói đến kinh tế bấp bênh. Kinh tế bấp bênh chính là “mộng huyễn bào ảnh” mà kinh Kim Cang nói. Họ chưa đọc kinh Kim Cang nhưng cũng biết “bào ảnh”, biết những thứ này không tồn tại, cho nên chúng ta nhất định phải cảnh giác cao độ. Làm thế nào để giữ gìn? Cần tu bố thí.

Bố thí nếu không trước tướng, công đức không thể suy lường. Còn chấp tướng bố thí chỉ đem đến phước báu có lượng. Trên kinh luận Phật thường nói, chúng ta ngay trong giảng giải cũng thường hay nghe đến. Nếu chân thật giác ngộ thì phải mau làm, không làm e rằng tương lai ngay đến cơ hội tu phước cũng không có. Bạn xem khu vực Đông Nam Á hiện tại có rất nhiều quốc gia, giá trị tiền tệ đang mất dần, cho nên hành thiện bố thí phải mau làm. Ngày nay bạn tu công đức một trăm vạn, qua vài ngày thì biến thành năm mươi vạn, mất đi phân nửa, phước báu của bạn liền rơi xuống thấp. Do đó nắm lấy cơ hội phải mau làm mới là người thông minh, là người chân thậttrí tuệ. Tiền tài không nên để bên mình, không nên để trong nhà, ở ngân hàng, ngay cả ở quầy bảo hiểm cũng đều không đáng tin. Chỉ có đem bố thí ra để tất cả chúng sanh cùng hưởng, phước báu đó vĩnh viễn không hư. Thế thì vì sao chúng ta lại không đem những thứ bọt nước bấp bênh này biến nó thành kim cang? Đem nó vĩnh viễn không hư hoại?

Pháp bố thí

Những đồng tu ngồi đây, có mấy người giác ngộ, mấy người chân thật chịu phát tâm? Tôi nói lời thật, tôi không cần các vị bố thí cho tôi, một xu tiền tôi cũng không dùng đến, quyết không lừa gạt các vị. Nếu muốn có trí tuệ, muốn được thông minh thì nhất định phải tu pháp bố thí. Hiện tại nơi đây chúng ta tu pháp bố thí ngày càng thuận tiện. Ở Cư Sĩ Lâm giảng kinh, mỗi tuần bảy ngày từ đầu năm đến cuối năm không gián đoạn. Bạn có thể giới thiệu bạn bè thân thích đến nghe kinh, đó là pháp bố thí. Mỗi lần chúng ta giảng kinh nơi đây đều có thu âm thu hình. Bạn đem tặng cho bạn bè thân thích cũng là thuộc về pháp bố thí. Chưa kể bên ngoài giảng đường, kinh sách kết duyên rất nhiều. Mỗi ngày bạn đến, thấy chính mình đã có rồi nên không muốn xem nữa. Thử nghĩ xem còn có những người quen biết nào vẫn chưa tiếp xúc được, ta có thể tặng cho họ, khuyên bảo mọi người tận dụng cơ duyên tiếp xúc Phật pháp, đọc kinh Phật, đó đều thuộc về pháp bố thí. Quả báo của pháp bố thí là khai trí tuệ.

Vô úy bố thí

Trong vô úy bố thí, điều thứ nhất là ăn chay, không sát hại chúng sanh, không kết oán thù với tất cả chúng sanh. Thứ hai là hộ sanh, bảo hộ xã hội an định, bảo hộ an toàn sinh mạng cho tất cả chúng sanh, đây thuộc về bố thí vô úy. Trong bố thí vô úy không có sát sanh, không trộm cắp, trong ngữ nghiệp bao gồm: không nói hai chiều, khiêu khích phải quấy, khuấy động đôi bên. Tội lỗi này rất nặng, vì làm cho xã hội an định bị tổn hại. Tội nghiệp này phải nhận lấy rất nhiều khổ báo.

Cho nên chúng ta phải ghi nhớ sáu phép hòa kính, phải rõ ràng tường tận ý nghĩa trong sáu phép này, hiểu lý luận biết phương pháp, đem nó thực tiễn ngay trong cuộc sống. Trong một nhà của bạn tu sáu phép hòa kính, mỗi người đều y theo lời giáo huấn của Phật, gia đình của bạn liền được gọi là tăng đoàn. Tăng đoàn không phải chỉ đoàn thể người xuất gia mà chỉ nhóm từ bốn người trở lên cùng ở chung với nhau, y theo sáu phép hòa kính mà tu hành. Tăng là ý nghĩa của thanh tịnh, hòa thuận. Cái đoàn thể nhỏ, đôi bên thân tâm thanh tịnh, hòa thuận cùng chung sống, không phân tại gia xuất gia, không phân nam nữ già trẻ cũng không phân bất cứ nghề nghiệp nào. Bốn người cùng ở với nhau y theo phương pháp này mà tu thì gọi là tăng đoàn. Tăng đoàn xuất hiện, nhất định sẽ được chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần bảo hộ, vì đáng được người tôn kính.

Bạn xem chúng ta đọc lời phát nguyện Tam quy yQui y tăng chúng trung tôn”. “Chúng” là đoàn thể. Đoàn thể được người tôn kính chính là tăng đoàn, đó cũng là loại đoàn thể tu sáu phép hòa kính. Thế Tôn dạy chúng ta cùng sống chung với mọi người phải nên có tâm trạng như thế nào, phải hành trì như thế nào, đều là dạy chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật, chưa nói đến Phật pháp. Nói cách khác, trước khi học Phật thì phải học làm người cho tốt. Tam Phước, Lục Hòa đều là căn bản để làm người. Từ nền tảng này mà nâng lên cao, đó là học Phật.

Tam học

Học Phật phải bắt đầu từ đâu? Phật đem tất cả cương lĩnh của Phật pháp dạy bảo chúng ta. Tất cả pháp mà Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói suốt bốn mươi chín năm quy nạp lại không ngoài giới định huệ. Nói cách khác, việc này giống như bạn đến cửa Phật cầu học, Phật bèn đem khóa trình giáo học của ngài bày ra cho bạn xem, ngày nay chúng ta gọi là tam tạng kinh điển, cụ thểkinh luật luận. Kinh là định học, luật là giới học, luận là huệ học.

Mỗi lần Phật nói pháp, không luận cạn sâu, dài ngắn nhất định không rời khỏi ba nguyên tắc này. Rời ba nguyên tắc này thì không phải Phật pháp. Người đời sau biên tập đại tạng kinh, nếu đem những kinh điển này phân thành ba loại thì khó. Trong mỗi kinh đều đầy đủ tam học, vậy phải phân thế nào? Người xưa chỉ còn cách xem trong từng bộ kinh, tam học này được nói nhiều ở bộ nào, tam học kia được nói sâu ở kinh nào. Thí dụ kinh Vô Lượng Thọ chứa đầy đủ tam học giới định huệ, nói định tương đối sâu, số lượng chiếm nhiều, có thể đem phân vào tạng kinh. Thế nhưng tỉ mỉ mà xem, bộ kinh này, từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy chính là giới luật hay giới học nên cũng có thể xếp nó vào tạng luật, việc này chúng ta cần thấu hiểu. Bất cứ bộ kinh nào cũng đều đầy đủ tam học, cho nên tam học là tổng cương lĩnh tu học của chúng ta.

Ngay trong cuộc sống thường ngày, khởi tâm động niệm lời nói việc làm nhất định phải tương ưng với tam học. Khởi tâm động niệm tương ưng với trí tuệ, định học; lời nói việc làm của chúng ta tương ưng với giới học, vậy thì bạn chân thật học Phật. Phật Bồ tát mỗi niệm đều tương ưng tam học, hạnh hạnh đều viên mãn tam học, đó là tổng cương lĩnh, không thể không nắm lấy. Đem cái cương lĩnh này áp dụng trong đời sống tu học, đây gọi là lục độ của Bồ tát, tức sáu nguyên tắc của đời sống Bồ tátchúng ta cần tuân thủ.

Lục độ

Thứ nhất, “Bố thí”

Ý nghĩa của bố thí rất rộng. Bố thí dạy chúng ta buông bỏ, buông bỏ cái gì? Chúng taphiền não vì sao lại không đem phiền não buông bỏ, chúng tangu si phải đem ngu si buông bỏ, có ác nghiệp thì đem ác nghiệp buông bỏ, và có sanh tử cũng phải đem sanh tử buông bỏ, thảy đều bố thí hết. Phàm phu nói có thể buông bỏ mọi thứ nhưng thân thể thì không thể buông, vậy vẫn phiền não. Thân là thân nghiệp báo, sau khi buông bỏ, thân này liền biến thành thân tự tại.

Tương lai ở Hoa Nghiêm, chúng ta sẽ nói đến mười loại thân. Phật có, chúng ta cũng có, nhưng bởi vì chúng ta không buông bỏ được cái thân nghiệp báo này, nên trí thân, pháp thân, Bồ Đề thân, ý sanh thân của chúng ta thảy đều không thể xuất hiện. Bạn nói xem có đáng tiếc không? Quả nhiên nếu đem thân nghiệp báo này xả đi, thì mười cái thân trên quả địa Như Lai của chúng ta cũng thấp thoáng mờ ảo xuất hiện, đó mới là hạnh phúc chân thật mỹ mãn. Tất cả pháp thế xuất thế gian bạn đều không chấp trước, buông bỏ, nhất quyết không chiếm làm của riêng. Chiếm làm của riêng liền biến thành nghiệp chướng, nhất định chướng đạo, chướng tánh. Người thông minh biết thân này không phải chính mình, huống hồ vật ở ngoài thân.

Bồ Tát trên kinh Hoa Nghiêm nói, “ta nói ta, ta không chấp trước ta, ta cũng không chấp trước cái của ta”. “Ta” biểu đạt ý kiến, một loại phương tiện câu thông với chúng sanh, đó là phương tiện khéo léo. Mi mắt có thể truyền đạt ý, đều thuộc về câu thông. Bạn có thể dùng nhưng không chấp trước, vừa chấp trước liền biến thành tạo nghiệp. Cho nên không chấp trước, không phân biệt mới là công đức. Bạn vận dụng phương tiện thiện xảo một cách tự tại, không dính mắc, biết được tất cả pháp nhưmộng huyễn bào ảnh”, không sở hữu, tất cả pháp không thể có được. Kinh Đại Bát Nhã nói “bất khả đắc, vô sở hữu”, sáu chữ này tôi đã nói hàng trăm lần, đó đều là thế tôn phương tiện khéo léo để nói pháp. Cho nên chúng ta phải hiểu được chân đế của bố thí, phải biết bố thí làm thế nào học tập ngay trong cuộc sống thường ngày.

Thứ hai, “Trì giới”

Trì giới là giữ phép, giữ qui củ. Nếu không tuân thủ pháp độ, không tuân thủ qui củ, thì không chỉ Phật phápthế pháp dù bạn muốn thành công cũng khó, gọi là “bất y qui củ bất thành phương viên”. Chúng ta muốn vẽ vòng tròn phải dùng compa, muốn vẽ hình vuông phải dùng thước cuộn, nên y qui củ mới có thể vẽ vòng tròn không bị sai. Ngay việc nhỏ của thế gian đều phải tuân thủ theo qui củ thì bạn mới thành tựu, huống hồ đại pháp xuất thế gian.

Người hiện tại học Phật, xuất gia tại gia tứ chúng đồng tu, tôi xem mọi người rất nỗ lực, rất phấn đấu, chuyên cần học Phật pháp, dũng mãnh tinh tấn, ngủ nghỉ đều không đủ, nhưng phấn đấu như vậy mà sao vẫn không nhận được hiệu quả? Do nguyên nhân không đúng pháp. Không đúng pháp chính là không hiểu qui củ, tuy phấn đấu mà vẫn không nhận hiệu quả, không nắm được trọng điểm, đây là nhân tố rất quan trọng. Nếu chúng ta không tiêu trừ nhân tố này thì mười năm, hai mươi năm, thậm chí cả đời vẫn không thành tựu.

Kỳ thật lý luận phương pháp đều ở ngay trong đó, tuy chúng ta mỗi ngày đọc tụng nghiên cứu, thậm chí giảng giải, kỳ thật chưa thể hội, chưa khế nhập được. Như “Hàm cộng tuân tu Phổ Hiền đại sĩ chi đức”, chúng ta đã làm hay chưa? “cụ túc vô lượng hạnh nguyện”, chúng tacụ túc hay không? Không cần nói đủ, chỉ cần được một phần hai phần cũng có lợi ích rồi. Nếu nói không có chút hạnh nguyện nào thì Phật pháp của bạn không có gốc, không có nền tảng. Phía trước đã trình bày qua, tam phước lục hòacăn bản. Chúng ta không tu học từ căn bản nên tam học lục độ Bồ Tát vạn hạnh thảy đều trống không, khởi tâm động niệm vẫn cứ là tâm luân hồi, mỗi ngày tạo tác vẫn là nghiệp luân hồi, như vậy làm sao có thể siêu thoát luân hồi? Không những bạn không thể siêu thoát luân hồi mà ngay đến cầu vãng sanh cũng có chướng ngại.

Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam cuối đời đã nói “Một vạn người niệm Phật chân thật vãng sanh chỉ có ba đến năm người mà thôi”, pháp môn này người xưa nói “vạn người tu vạn người đi”, vì sao một vạn người chỉ có năm ba người? Vì không đúng pháp, không giữ qui củ, tùy tiện. Tùy tiện chính là thả theo phiền não tập khí của chính mình, tùy theo phiền não tập khí của chính mình mà lưu chuyển, nên việc tu học nếu muốn thành tựu cũng rất khó.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11471)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10556)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10821)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9888)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9565)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12926)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13334)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13490)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19858)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12566)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13284)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13571)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13044)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12399)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18597)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10703)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12431)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11019)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11219)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14730)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22638)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11610)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10202)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34595)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17767)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32748)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22159)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11241)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17615)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17185)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10724)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10883)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9624)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10633)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10623)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10600)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12506)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12431)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 10008)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13253)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9749)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9137)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11848)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13501)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12088)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11313)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11622)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10358)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10279)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10928)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28254)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10836)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7429)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9351)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11796)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11691)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11123)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10338)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10286)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13834)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 15000)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10528)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11927)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10917)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10545)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10684)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9920)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10688)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9317)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10024)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10208)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10549)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10638)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10569)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10134)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9852)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13574)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16358)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13498)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11572)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11147)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11121)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12220)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15390)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10634)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11714)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10637)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11106)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10045)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10435)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11442)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11034)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12955)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24426)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12630)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10314)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28713)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19372)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10970)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23389)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant