Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 43

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10069)
Phần 43


GIẢNG KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 43)

Pháp Sư Tịnh Không

“CÚNG DƯỜNG CHƯ PHẬT, KHAI ĐẠO QUẦN SANH”

Cũng như “thượng cúng chư Phật, hạ hóa chúng sanh”. Nếu chính mình không có tam học Giới Định Huệ thì bạn không thể cúng Phật, cũng không thể lợi sanh. Bốn chúng đồng tu chúng ta, không luận tại gia xuất gia, nhất định phải chân tu tam học. Giới Định Huệ vừa triển khai chính là từng việc nhỏ nhất ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.

Ví dụ, giặt quần áo, nấu cơm là việc hàng ngày của người phụ nữ. Giặt quần áo là tu Giới Định Huệ, nấu cơm cũng vậy. Nếu bạn thông đạt tường tận, từ sớm đến tối khởi tâm động niệm không hề rời khỏi Bồ tát hạnh thì bạn đang tu Bồ tát đạo. Còn không hiểu rõ, không thông đạt, tâm luân hồi tạo nghiệp luân hồi thì khác biệt sẽ lớn. Truy cứu căn nguyên của khác biệt ở ngay một niệm, giác hay mê. Một niệm giác, chúng ta giặt quần áo theo trình tự, có phương pháp. Đó là trì giới. Giặt quần áo phải có một khoảng thời gian mấy mươi phút nhẫn nại chờ. Đó là tu định. Quần áo giặt sạch sẽ, ủi thẳng đẹp. Đó là trí tuệ.

Tất cả việc lớn việc nhỏ đều luôn tương ưng với tam vô lậu học. Tương ưng với tam vô lậu học thì tương ưng với lục độ, tương ưng với mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền. Nếu triển khai ra liền viên mãn tương ưng với Bồ tát lục độ vạn hạnh. Cho nên Bồ tát đạo tu ở ngay cuộc sống thường ngày. Mọi nơi mọi chỗ đều viên mãn Bồ tát hạnh. Chúng ta dùng loại tâm tình này cúng dường chư Phật, phải thực tiễn bổn phận của mình vào hiện tiền.

Làm thế nào “cúng dường chư Phật”? Niệm Phật chính là cúng dường. Phải biết niệm, phải “phát tâm bồ đề, một lòng chuyên niệm”. Tám chữ này cúng dường chư Phật, cũng đồng thời tự độ. Cho nên khi phát nguyện vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc thì không chỉ Phật Thích Ca Mâu Ni hoan hỉ tán thán, Phật A Di Đà hoan hỉ tiếp dẫnmười phương ba đời tất cả chư Như Lai đều đồng âm đến khuyên bảo chúng ta. Trên kinh A Di Đà, vì sao chư Phật Như Lai lại tán thán? Vì các ngài chỉ có một nguyện, một tâm “phổ độ chúng sanh, sớm ngày thành Phật”. Phật Bồ tát sẽ không hài lòng khi thấy chúng ta trễ một ngày. Pháp môn niệm Phật vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc chính là pháp môn ngay đời này thành Phật, là pháp môn đệ nhất tất cả chư Phật tiếp dẫn chúng sanh, không hề quanh co uyển chuyển, dạy bạn ngay một đời chứng được cứu cánh viên mãn. Bạn nghĩ xem pháp môn này thù thắng dường nào.

Tuy nhiên pháp môn này nhất định chỉ độ chúng sanh căn tánh chín muồi. Làm sao biết chúng sanh căn tánh chín muồi? Sau khi nghe dạy, họ tin tưởng, tuyệt nhiên không hoài nghi, liền có thể phát nguyện không thoái chuyển. Họ dõng mãnh tinh tấn thành thật niệm Phật, không hoài nghi, không xen tạp, không gián đoạn. Bổn tông gọi họ là chúng sanh căn tánh chín muồi, nói cách khác, duyên của họ làm Phật hiện tại đã chín muồi. Rất không dễ dàng. Họ không làm Bồ tát, A La Hánlàm Phật. Kinh Di Đà nói “không thể thiếu thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh nước kia”. Họ là thiện căn, phước đức, nhân duyên, ba điều kiện chủ yếu đồng thời đầy đủ nên nhất định được sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc bất thoái thành Phật. Cứ hễ sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc liền làm Phật, dù hạ hạ phẩm vãng sanh. Trong 48 nguyện của kinh này, Phật A Di Đà cho biết, người vãng sanh đến thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là A Duy Việt Trí Bồ tát. Thực ra A Duy Việt Trí chính là Phật, không phải Bồ tát thông thường.

Cho nên chư Phật Như Lai nói pháp môn này khó tin. Đương nhiên khó tin vì duyên làm Phật chưa chín muồi nên họ không tin tưởng. Chỉ có người làm Phật tin tưởng, còn không phải người làm Phật thì không tin tưởng. Đạo lý là như vậy. Người căn tánh Bồ tát không tin tưởng, người căn tánh Thanh Văn, Duyên giác đương nhiên càng không tin tưởng. Chỉ người căn tánh nhất Phật thừa mới tin sâu không hoài nghi. Họ cúng dường chư Phật qua việc xưng niệm một danh hiệu này, “một niệm tương ưng một niệm Phật”. Niệm này cúng dường hư không pháp giới mười phương ba đời tất cả chư Phật, gọi là pháp môn bình đẳng phổ cúng tất cả chư Phật Như Lai.

Ngày mai là quốc khánh của Singapore. Tối nay, các vị phát tâm cần ở đây niệm hai ngày hai đêm thì phước báu cúng dường không cần phải nói. Chúng ta cũng không cách gì tính được. Bạn cúng dường chư Phật có hiệu quả chân thật hay không? Bạn niệm Phật thành tâm hay không? Bạn niệm được tương ưng hay không? Nếu dùng tâm chân thành mà tương ưng thì công đức đó không thể nghĩ bàn. Niệm Phật là nhân trí tuệ, thành Phật là quả.

Khai đạo quần sanh” là độ người. Chúng ta có thể đem pháp môn thù thắng như vậy, dùng phương tiện khéo léo rộng vì tất cả đại chúnggiới thiệu. “Khai” là khai mở bế tắc cho họ bằng ngôn giáo. Trong “đạo” thì dùng thân giáo, làm gương cho họ xem. Thân giáo thù thắng hơn nhiều so với ngôn giáo. Chúng ta khuyên người niệm Phật, nói đến lở da miệng, họ vẫn không hoàn toàn tin tưởng, vẫn khó tiếp nhận, bán tín bán nghi. Hôm nay niệm Phật đường xây dựng, chúng ta bảo họ đích thân đến đây niệm Phật một ngày thì họ sẽ liền tường tận, vì chính mình được thể nghiệm.

Niệm Phật đường này hoàn toàn khác với các niệm Phật đường khác. Đạo tràng này thanh tịnh trang nghiêm, không làm pháp hội, không làm kinh sám Phật sự. Ngoài điển tích của tịnh tông ra, không xen tạp bất cứ kinh điển nào. Có nhiều pháp sư dẫn chúng, bạn đến đâu cũng không tìm được. Nhóm tỳ kheo thanh tịnh. Ngày trước họ thanh tịnh hay không không liên quan, chỉ cần đến Singapore hai tháng liền được thanh tịnh. Thanh tịnh tỳ kheo nơi đây không cần danh vọng lợi dưỡng, không cần bạn cung kính cúng dường, không cần bất cứ thứ gì. Họ đều phát khởi được tâm thanh tịnh nhất. Mọi người cùng nhau niệm Phật, cảm ứng không thể nghĩ bàn. Tôi tin các vị đồng tu, đầu óc thanh tịnh, bình lặng một chút cũng có thể biết đạo tràng này đang có Phật Bồ tát niệm Phật. Chúng ta ở trong đạo tràng cùng niệm với Phật Bồ tát. Thử nghĩ xem thù thắng dường nào. Vậy ai là Phật Bồ tát? Bạn cố tìm cũng không thể tìm ra. Nếu bạn tìm thì Phật hiệu của bạn niệm sẽ không tương ưng vì xen tạp, phá hư mất công phu. Niệm Phật nhất định không được xen tạp. Người xưa ghi chép rất nhiều về việc xen tạp.

Chẳng hạn triều nhà Minh, Thích Kế Quang là một vị tướng quân cũng là Phật giáo đồ kiền thành. Bình thường ông tụng kinh Kim Cang rất có lực. Một hôm ông mộng thấy một binh sĩ trận vong là thuộc hạ của ông, xin ông đọc quyển kinh Kim Cang để siêu độ cho anh ấy. Khi tỉnh dậy, ông liền cung kính đọc kinh, hồi hướng cho vị binh sĩ này. Tối hôm sau, ông lại mộng thấy binh sĩ này đến cảm tạ và nói rằng: “Cảm tạ tướng quân, nhưng tôi chỉ nhận nửa bộ kinh Kim Cang”. Ông hỏi vì sao. Binh sĩ trả lời: “Vì khi ngài đọc kinh Kim Cang ngay giữa xen tạp hai chữ ‘không dùng’, cho nên hiệu quả chỉ được phân nửa”. Ông nhớ mình không nói “không dùng” khi đọc kinh. Lát sau, bỗng nhiên ông nghĩ ra. Khi ông đọc kinh, người hầu của ông bưng đến một tách trà. Ông tuy không nói, chỉ xua tay, nhưng trong lòng đã khởi lên ý niệmkhông dùng”. Vậy mà hiệu quả liền mất đi phân nửa. Có thể thấy xen tạp là việc hư hại. Hôm sau, Thích tướng quân cung kính tụng lại một bộ nữa. Buổi tối lại mộng thấy người binh sĩ đến cảm tạ ông. Anh ấy đã nhận toàn bộ thọ dụng và siêu sanh.

Do đó niệm Phật tụng kinh không nên xen tạp. Nếu bạn nghe tôi nói Phật đường này có Phật đang ở, bạn liền tìm kiếm, như vậy bạn xen tạp và phá hư toàn bộ công phu niệm Phật của chính mình. Phải làm thế nào quán tưởng, ngoài mình ra, mỗi người đều là Phật, người người đều là chư Phật Như Lai hoá thân, thì công phu của bạn không thể nghĩ bàn, vì tâm bạn rất chân thành. Niệm Phật với nhiều Phật, không khí càng thịnh. Hai mươi bốn giờ nhất định sẽ không mệt mỏi, càng niệm càng hoan hỉ, vì ở chung với nhiều chư Phật Như Lai. Thông thường, người gặp việc vui tinh thần thoải mái, cùng ở với một vị Phật đã thấy vinh dự rồi, còn ở chung với nhiều Phật càng thù thắng hơn. Phải xem mỗi mỗi là Phật thật, không phải Phật giả. Nhất định không tưởng tượng họ là Phật mà họ chính là Phật thật. Những vị Phật này đến giúp ta niệm Phật.

Niệm Phật đường này rất thù thắng, công đức niệm Phật vô hạn. Ở đây còn có một tầng ý nghĩa sâu, chính là những vị Bồ tát đã chứng “pháp tánh không”, “pháp tướng vô sở hữu”, vì sao phải cầu vãng sanh? Vì sao còn khuyến hoá chúng sanh? Có phải vì họ nhiều chuyện? Không phải. Sau khi chứng được pháp không, tường tận thông đạt tất cả pháp thế xuất thế gian; sau khi bất khả đắc vô sở hữu, lòng từ bi trong tự tánh tự nhiên sanh khởi. Phát tâm đó không phải miễn cưỡng, không do người khác khuyên mà trong tự nhiên sanh khởi ra. Pháp vốn như vậy.

Kinh Duy Ma nói, những vị Bồ tát này “tuy chí chư Phật quốc, tức chúng sanh không”, họ thông đạt tường tận tất cả pháp thế xuất thế gian, pháp giới nhất chân cùng mười pháp giới, “mộng huyễn bào ảnh, như lộ như điện”, thế nhưng họ vẫn thường tu tịnh độ, giáo hoá chúng sanh, niệm Phật cầu sanh A Di Đà Phật quốc độ. Họ làm như vậy vì muốn thị hiện tấm gương cho những người chưa được độ thấy. Đó là từ bi chân thật. Tại sao phải độ những chúng sanh này? Mình và người không hai. Xin nói với các vị, chúng sanh chưa độ hết thì tự giác không thể viên mãn. Cũng như thân thể này của chúng ta có rất nhiều tế bào. Chỗ nào trên thân nổi lên u nhọt, tế bào ở chỗ đó có bệnh. Nếu ta không chữa hết thì thân thể chúng ta sẽ không khoẻ mạnh tròn đầy. Mười phương thế giới còn những chúng sanh mê hoặc điên đảo, còn những chúng sanh luân hồi sáu cõi, thì cũng giống u nhọt nổi trên thân vậy. Trong cái nhìn của chư Phật Bồ tát, tình dữ vô tình đồng một pháp thân, đồng một lý thể, đồng một tâm tánh, gọi là “đồng thể đại bi, vô duyên đại từ”.

Ngày nay thế giớitai nạn, người thông thường nhận nỗi thống khổ. Còn người chân thật thông đạt chân tướng sự thật liền biết đó là một bộ phận trên toàn thân thể chúng ta. Chúng ta sẽ không nề hà giúp họ. Hiện tại có cấp nạn trước phải cứu cấp. Cứu cấp đương nhiên thuộc về tài bố thí. Đầu tiên phải lấy tài bố thí làm nhân duyên, cùng kết duyên với những chúng sanh này. Sau khi có duyên với họ, chúng ta dùng pháp bố thí khuyến hoá họ vĩnh trừ ác nghiệp, đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, liền cải thiện hoàn cảnh đời sống, vĩnh viễn không bị tai hại. Đến đây nhất định dựa vào chỉ đạo của Phật pháp.

“HÓA HIỆN KỲ THÂN, DO NHƯ ĐIỆN QUANG”

Câu này hoàn toàn chiếu ứng với câu trước “chư Phật sát trung, giai năng thị hiện”. “Hoá hiện kỳ thân” chính là thị hiện, tùy loại hoá thân, tùy cơ nói pháp. Tuy hóa hiện kỳ thân nhưng chính mình rõ ràng tường tận, thông suốt thấu đáo. “Do như điện quang”, biết tất cả những hoá hiện đều là mộng huyễn bào ảnh. Bạn thấy họ thành tựu Phật pháp, thành tựu sự nghiệp độ chúng sanh, vô lượng vô biên công đức, nhưng chính mình tâm địa thanh tịnh, không nhiễm một trần. Điểm này rất then chốt.

Điện quang” ý nói sanh diệt đồng thời, hiển thị chân tướng sự thật hóa hiện. Sanh diệt đồng thời chính là “không sanh không diệt” trong Phật pháp.

“LIỆT MA KIẾN VÕNG, GIẢI CHƯ TRIỀN PHƯỢC”

Đoạn phía trước là tự thọ dụng của Bồ tát, “hoá hiện kỳ thân, do như điện quang” là trí tuệ chân thật. Không có trí tuệ chân thật thì không thể giúp đỡ chúng sanh. Còn có trí tuệ, giúp đỡ chúng sanh thì không những chính mình không mệt mỏi, trái lại còn tăng thêm định huệ. Rất nhiều trường hợp không vào được cảnh giới này để giáo hoá chúng sanh nên bị chúng sanh dẫn đi mất. Thậm chí từ thời Thích Ca Mâu Ni Phật, nhiều người không hiểu rõ chân tướng sự thật, không thấu triệt tường tận. Họ “ngã pháp” hai chấp không buông bỏ, nói cách khác trong lòng họ vẫn phải quấy nhân ngã, phiền não tập khí rất nồng hậu chưa đoạn; gặp duyên bên ngoài, họ liền khởi hiện hành, sanh phiền não, rồi tạo ác nghiệp, và đọa lạc luân hồi. Nguyên nhân do họ chưa triệt để tường tận.

Nếu mang theo một ít tập khí vẫn không hề gì, đó là A La Hán Bồ tát, luôn có loại thị hiện này. Theo kinh Phật, Xá Lợi Phất là vị đệ tử trí tuệ trong hàng đệ tử của Phật Thích Ca Mâu Ni nhưng vẫn còn tập khí sân hận. Ca Diếp tôn giả là vị có sức định rất sâu, truyền nhân của thiền tông. Năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật đem thiền tông truyền cho Ca Diếp. Ca Diếp trở thành tổ thứ nhất của thiền. Mặc dù thiền định sâu nhưng khi nghe thiên nhân tấu lên loại âm nhạc mỹ miều, Ca Diếp bất tri bất giác liền từ chỗ ngồi đứng dậy, nhảy múa khiêu vũ theo. Bản thân ông cũng không kìm chế nổi. Việc này cho thấy tập khí sâu nặng, nhưng họ nhờ công phu vẫn không đến nỗi rơi vào sáu cõi luân hồi.

Kinh Phật nêu lên một số câu chuyện của A La Hán, Bồ tát Quyền Giáo để chúng ta cảnh giác. Họ giác ngộ quay đầu rất nhanh nên không chướng ngại, còn phàm phu chúng ta ở trong mê hoặc không biết quay đầu thì phiền phức to. Không biết quay đầu, ác nghiệp càng tạo càng nặng.

Họ quay đầu nhanh, giác ngộ mau, độ hoá chúng sanh là “liệt ma kiến võng, giải chư triền phược”. Phía trước chúng ta đã từng đọc qua, dùng sức định huệ phá sở tri chướngphiền não chướng. “Ma kiến” chính là sở tri chướng, “triền phược” là phiền não chướng. Chính mình phải có định huệ, phải có phương tiện khéo léo thuộc về giới sở nhiếp. Do đây mà biết không được rời khỏi tam học. Tự độ, độ người đều phải tương ưng với tam học. Chúng ta ở trong sáu cõi ba đường, Phật pháp thường gọi là hiểm đạo, biết giữ lấy tự thân không ô nhiễm, không bị đọa lạc. Được cái bản lĩnh này, có công phu thì chính mình vĩnh viễn ở nơi chánh định, không luận cảnh duyên thế nào, trong lòng vĩnh viễn thanh tịnh, tường tận, không mê hoặc, bạn mới có năng lực giúp người khác phá tà tri tà kiến.

Kiến” ví dụ cho cái lưới, “ma kiến” chính là tri kiến sai lầm, tư tưởng sai lầm, kiến giải sai lầm. Phật pháp dạy chánh tri chánh kiến, hoàn toàn tương phản với ma kiến. Làm thế nào điều chỉnh quan niệm sai lầm của họ? Đối với thế gian chúng ta, biện pháp tốt nhất là giảng kinh nói pháp. Sự việc này không chỉ bằng thời gian ngắn mà là thời gian dài. Mục đích giảng kinh nói pháp phải giúp người khai ngộ. Nếu họ không khai ngộ thì dù nghe một trăm năm cũng uổng công, thậm chí còn đem kinh điển của Phật biến thành ma kiến. Chỗ này chúng ta thường nói “không hiểu Như Lai chân thật nghĩa”. Hoặc hiểu lầm, hiểu sai ý nghĩa của Như Lai, người xưa gọi là “Y kinh giải nghĩa, tam thế Phật oan”, đem Phật kinh biến thành tư tưởngkiến giải sai lầm. Cho nên kinh Hoa Nghiêm, Đại Trí độ luận thường nói “Phật pháp vô nhân thuyết, tùy trí mạc năng giải”. Người thế gian thông minh trí thức liệu có thể xem hiểu được Phật kinh không? Không hiểu, vì kinh điển Phật, ý nghĩa từng câu từng chữ ở ngoài lời, đó là chỗ khó của Phật pháp. Nếu bạn ở trong văn tự, trong thanh âm mà cầu, thì nhất định không cầu được Phật pháp. Phải hiểu tường tận định nghĩa hai chữ Phật pháp.

Phật pháp là pháp giác ngộ, nếu bạn ở trong văn tự âm thanh mà cầu thì quyết không thể khai ngộ, vì chấp tướng. Lìa tướng mới có thể khai ngộ. Còn chấp tướng bạn chưa lìa khỏi phân biệt chấp trước. Phải buông bỏ phân biệt chấp trước mới có thể khai ngộ. Phật trên kinh thường tán thánngười khéo nói, nói mà không nói, không nói mà nói. Người khéo nghe, nghe mà không nghe, không nghe mà nghe”, họ có chỗ ngộ. Kinh Kim Cang, Phật nói rất hay, Phật không có định pháp để nói. Phật đã không có pháp có thể nói, thì Phật pháp còn có ý nghĩa gì? Nếu chúng ta cứ muốn nghĩ trong kinh có đạo lý gì, ý nghĩa gì, thì chúng ta sai. Kinh điển của Phật bốn mươi chín năm không có ý nghĩa. Nếu có ý nghĩa, thì Phật thật có nói pháp. Bốn mươi chín năm, Phật không hề xen tạp một chút ý kiến của mình. Cho nên Ngài tự nhận, Ngài không hề nói gì. Không nói nhưng vì sao lại nói suốt bốn mươi chín năm? Sự việc này như thế nào? Thực ra những gì Phật nói đều không phải chính mình, không hề có chút ý kiến của chính mình. Những gì Ngài nói đều là của cổ Phật. Thái độ của Ngài giống y Khổng lão phu tử “thuật nhi bất tác”, đều thuật lại từ người khác, không hề có chút ý kiến của chính mình.

Lại nói với các vị, người khác là ai? Là tất cả chư Phật Như Lai. Tất cả chư Phật Như Lai là một vị nào? Đó chân thậtchân như bổn tánh. Tự tánh cảm ứng tương thông với tất cả chúng sanh, trong tự nhiên lưu xuất ra, pháp vốn như vậy. Kinh Hoa Nghiêm mới nói “trần thuyết sát thuyết, vô gián đoạn thuyết”. Chúng ta đem những đại kinh này hợp lại liền thể hội được ý nghĩa, đó mới là chân thật nói pháp, mới đem hết thảy những tri kiến sai lầm của chúng ta chân thật phá trừ. Do đó nói pháp phải chú trọng “thiện xảo”. “Xảo” là phương pháp xảo diệu, “thiện” là khiến cho người nghe ngộ nhập. Xảo mà không thiện thì người nghe không thể ngộ nhập.

Vậy làm thế nào mới có thể ngộ nhập? Có cần phải tìm một người chân thật cao minh để nói pháp? Ngày xưa rất nhiều tình huống, người nói pháp chưa khai ngộ, người nghe pháp đã khai ngộ rồi. Đúng như câu nói “biết nói không bằng biết nghe”. Các vị đồng tu nghe kinh đã nhiều năm, tại sao không thể ngộ nhập? Vì bạn không biết nghe. Tại sao không biết nghe? Vì tâm của bạn không định.

Hiện tại chúng taphương tiện khéo léo, chúng ta niệm trong niệm Phật đường thêm vài ngày thì tâm liền được định. Khi nghe lại kinh sẽ không như nhau, sẽ có chỗ ngộ. Từ chỗ này, tôi nghĩ một số đồng tu ắt có chút thể ngộ. Tại sao người thời xưa xem kinh nghe giảng lại rất dễ dàng thể hội, vòn người hiện đại dường như thông minh hơn, nhưng nghe kinh mấy mươi năm, vẫn cả đờimơ hồ hồ không thể khai ngộ? Điểm này chúng ta phải hiểu. Người xưa học Phật không luận tại gia xuất gia đều qua quá trình năm năm học giáo. Năm năm không phải học giới luật, mà chỉ tuân thủ lời răn dạy của thầy. Ngày trước nếu muốn học Phật, năm năm đầu đến đạo tràng làm tạp vụ. Hàng ngày bị sai bảo việc nặng nhọc, mục đích tạo điều kiện cho bạn tu phước. Không có phước không được.

Năm năm tu phước tu huệ. Huệ tu như thế nào? Huệ tu căn bản trí, dạy bạn vô tri, làm cho tâm bạn hoàn toàn định lại. Ở thiền tông thì tham cứu, làm vắng bặt vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong thiền đường, mỗi ngày bạn phải ngồi thiền. Đường chủ cầm trên tay một cây hương bản để đánh những ai ngồi vọng động, vọng tưởng. Thậm chí thấy bạn không vọng tưởng cũng đánh, vì không có vọng tưởng thì bạn hôn trầm.

Thầy ở thiền đường rất khéo. Ngày ngày đánh hương bản thực tế cũng không dễ dàng. Bạn phải đánh cho họ khai ngộ mới được. Dùng hương bản đó đánh chết người mà không khai ngộ được thì họ có tội. Cho nên khi đánh tức là giúp bạn khai ngộ. Nếu đánh mà không khai ngộ thì không đánh. Cái đánh đó coi như sai.

Giáo hạ là dạy bạn đọc kinh. Mỗi tông phái, mỗi đạo tràng có cách học không như nhau. Giống như Thiên Thai trong năm năm phải thuộc ba bộ kinh lớn. Thứ nhất, kinh Pháp Hoa văn cú, trước tác của đại sư Trí Giả, ngay đến chú giải theo kinh cũng phải thuộc. Thứ hai, kinh Pháp Hoa huyền nghĩa thích sám, ba cuốn đóng bìa cứng rất dày; ngoài ra còn có phương pháp tu hành của ngài “Ma Ha Chỉ Quán”. Đó là ba bộ kinh lớn của Thiên Thai, trong năm năm phải thuộc nhuần nhuyễn. Ngày ngày làm việc, làm việc xong thì phải mau học thuộc kinh. Bạn không có chỗ ngồi trong giảng đường để nghe kinh, trong thiền đường cũng không có chỗ. Suốt năm năm chỉ phục vụ đại chúng. Đó là khoảng thời gian tu phước tu huệ. Chăm sóc đi lại sinh hoạt của đại chúngtu phước. Học thuộc kinh điểntu huệ.

Tam học giới định huệ hoàn thành, tâm bạn liền định lại, bạn sẽ không vọng tưởng. Nếu có vọng tưởng thì không thể thuộc được. Dùng phương pháp này để tu căn bản trí. Sau năm năm nền tảng như vậy, tiếp tục năm năm vào giảng đường nghe giảng kinh thì làm sao không khai ngộ. Nhiều ít cũng sẽ có chỗ ngộ. Tiểu nghi tiểu ngộ, đại nghi đại ngộ, luôn có chỗ ngộ, nên đối với tu học của họ pháp hỉ sung mãn, rất có đạo lý. Còn người hiện tại chúng ta thường bỏ mất đi nền tảng. Hơn nữa vừa tiếp xúc Phật pháp, xem qua rất nhiều tư liệu, nghe rất nhiều người giảng, nhưng đầu óc bị rối tung, hồ đồ, mê hoặc. Cho nên hiện tại không có người khai ngộ. Tuy chúng ta không phải là “liệt ma kiến võng”, nhưng đã đọa vào lưới của ma không thể ra khỏi.

Thế nên niệm Phật đường này có công đức hy hữu. Mọi người đến niệm Phật mỗi ngày, từ ba đến năm năm, lại nghe tôi giảng kinh, có chỗ ngộ, đem tất cả phiền não tri kiến thảy đều niệm tiêu, chỉ có một niệm “A Di Đà Phật”. Niệm Phật đường của chúng ta hoàn toàn khác với các niệm Phật đường khác. Bốn bề đều là Phật tượng của Phật A Di Đà. Tôi từng nói, nhiều tượng Phật đến như vậy thì các vị chính là đại chúng trong Hải hội Liên Trì. Sẽ có một vị Phật chính là bạn. Bạn hiện thân nơi tượng Phật, giống y Phật A Di Đà. Cái niệm Phật đường này rất thân thiết, đó là hoàn cảnh y báo tu học thù thắng của chúng ta, cũng là tăng thượng duyên tốt nhất. Chúng ta hoan nghênh đồng tu niệm Phật các nơi trên toàn thế giới đến niệm Phật đường này. Chính các vị sẽ cảm thấy mà không cần tôi nói, bạn ở đây một tuần thì ngay trong đời, không luận tham gia bất cứ đạo tràng nào, dự Phật thất niệm Phật sẽ thấy không thù thắng như ở đây. Bạn ở đây một tuần, cảm thụ nhất định không giống các nơi khác. Niệm Phật đường này đã niệm được mấy năm, kết hợp nghe giảng kinh, đó là phương pháp ép bất đắc dĩ. Nếu mỗi ngày niệm Phật, còn có hai giờ ngồi nói chuyện xen tạp thì mọi người thoái tâm, cho nên hiện tại mỗi ngày giảng kinh hai giờ đồng hồ, mục đích bơm hơi cho bạn, phòng bạn thoái tâm. Mỗi ngày giảng kinh nhằm giúp bạn phá sở tri chướng, phiền não chướng, đưa bạn khế nhập cảnh giới minh tâm kiến tánh.

Cụ thể làm thế nào? Trước tiên niệm Phật đường cố gắng niệm tốt ba năm, sau đó mới nghe giảng kinh. Đó là ta chiếu theo qui củ mà làm. Tuy nhiên, sau ba năm niệm, e rằng mọi người đều chạy hết, nên chúng ta lại ngày ngày khuyên nhủ, đem công đức lợi ích thù thắng giải thích tường tận, khiến mọi người hoan hỉ niệm Phật. Thực tế chỉ cần niệm trên nửa năm, bạn liền sanh tâm hoan hỉ, liền dần dần khế nhập cảnh giới, kinh này có nghe hay không cũng không hề gì, bạn chân thật được thọ dụng. Cho nên ở giai đoạn mở đầu, giảng kinh rất cần thiết.

Hết quyển 2 (Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11463)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10545)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10818)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9882)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9562)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12922)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13329)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13480)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19857)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12557)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13274)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13567)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13037)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12390)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18594)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10701)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12425)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11013)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11213)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14723)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22629)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11605)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10199)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34581)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17762)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32739)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22142)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11233)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17608)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17183)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10716)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10873)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9614)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10627)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10618)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10590)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12499)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12425)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 10003)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13251)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9744)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9135)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11844)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13496)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12085)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11308)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11620)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10350)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10273)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10922)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28251)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10829)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7423)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9348)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11785)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11686)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11116)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10330)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10281)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13825)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14990)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10524)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11916)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10908)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10539)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10679)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9917)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10683)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9315)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10019)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10202)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10542)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10634)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10566)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10129)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9849)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13564)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16352)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13496)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11571)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11146)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11114)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12216)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15386)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10631)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11714)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10637)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11101)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10040)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10429)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11438)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11029)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12945)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24418)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12627)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10310)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28705)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19369)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10965)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23381)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant