Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phần 25

09 Tháng Giêng 201511:49(Xem: 10342)
Phần 25

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ (PHẦN 25)

 

Pháp Sư Tịnh Không

Thứ ba, “Nhẫn nhục”

Nhẫn nhục là nhẫn nại, phải có tâm nhẫn nại rất lớn. Pháp thế gian, việc càng lớn thì mức độ khó càng cao, không có tâm nhẫn nại sẽ không làm được viên mãn. Phật pháp đại sự xuất thế gian, đại nghiệp phổ độ chúng sanh, phải có tâm nhẫn nại như thế nào mới có thể làm thành công? Nhẫn nại không gì bằng, tâm nhẫn nại vĩnh hằng. Học Phật nếu chưa có tâm nhẫn nại thì quyết không thành tựu.

Kinh Phật đem những sự tướng của con người chúng ta quy nạp thành ba loại lớn nhằm tiện lợi cho giáo học. Việc thứ nhất, nhẫn người làm hại mình. Thế xuất thế pháp xưa nay trong và ngoài nước gần như đều có một định luật gọi là “việc tốt nhiều dày vò”. Không có việc tốt nào mà thuận buồm xuôi gió. Việc tốt càng lớn thì ma chướng càng nhiều. Nếu bạn không nhẫn nại thì bạn làm sao có thể thành công. Cho nên phải có tâm nhẫn nại cực lớn. Quan trọng nhất là phải khắc phục phiền não tập khí từ vô thỉ kiếp đến nay của chính mình. Việc này quan trọng hơn bất cứ thứ gì. Sự hãm hại, đố kỵ, hủy báng, nhục mạ, làm hại của người đều phải được nhẫn chịu, phải thấy như không có việc gì, phải tâm bình khí hòa, tiếp nhận những chướng nạn này.

Loại thứ hai là tai hại tự nhiên, thí dụ lạnh nhiều nóng nhiều. Đó là thay đổi khí hậu, bạn phải nhẫn nại. Trời quá nóng bức, bạn đâm ra giải đãi, không thể hành trì thời khóa, vậy không được. Phải nhẫn chịu tất cả những thứ tai hại của tự nhiên. Nhất định không thể cải biến, hoặc giảm sự tu học của chính mình. Nhất định phải dũng mãnh tinh tấn. Trong Văn Sao của đại sư Ấn Quang, lão pháp sư có một đoạn văn tự, một bức thư rất dài gửi cho cư sĩ Vệ Miên Châu. Vị cư sĩ này học dưới hội của lão pháp sư, tiếp nhận truyền thụ tam quy y. Ông ấy gặp tai nạn, nhà bên cạnh phát hỏa làm cho phòng ốc của nhà ông cháy rụi, tài sản trở thành một đống tro. Vì việc này mà người vợ ông qua đời. Nhà tan người mất, nên ông một ngày từ sớm đến tối như ngây như dại, ngu ngu khờ khờ. Có đồng tu đem việc này nói với đại sư Ấn Quang. Đại sư bèn viết một bức thư rất dài khai thị chỉ bảo cho ông.

Nếu người chân thật học Phật gặp tai nạn này phải nên nghĩ thật thông. Tất cả huyễn hoá vô thường thế gian, ngày trước có nhà, có tích lũy còn bận tâm, hiện tại lửa cháy sạch, không phải càng tốt hay sao? Không còn bất cứ thứ gì thì một lòng niệm Phật quyết vãng sanh. Khi ý niệm vừa chuyển thì đám lửa này liền trở thành tăng thượng duyên tốt. Có mấy ai trong tai nạn có thể chuyển tâm được. Nhất định phải tu nhẫn nhục Ba La Mật, trí tuệ cao độ. Tai nạn lớn là nghịch tăng thượng duyên không những đối với đạo nghiệp của chính mình, trái lại còn xúc tiến, nâng cao.

Trong nhẫn nhục còn vấn đề cách tu. Tu hành thời gian phải dài, bất cứ pháp môn nào đều có độ sâu và độ rộng của nó, thời gian ngắn không thể tu tập thành tựu. Ngoài ra phải thân cận thiện tri thức. Thân cận thiện tri thức không dễ dàng, thời xưa gọi là “hành cước”, hiện tại gọi là “bái sơn”. Người hiện tại gọi “bái sơn” là tham quan du lịch, hoàn toàn sai ý nghĩa. Bái sơn là tham phỏng thiện tri thức, là đi cầu học, thỉnh giáo.

Thời xưaTrung Quốc có một vị tham học nổi tiếng, làm tấm gương cho người đời sau, đó là hoà thượng Triệu Châu, tám mươi tuổi vẫn hành cước, vẫn đến khắp nơi tham phỏng. Vì sao ông không ngồi lại nghỉ ngơi cho khỏe? Vì chính mình vẫn còn nghi hoặc, vẫn chưa thể đoạn nghi sanh tín thì cần phải thân cận thiện tri thức, đem cái nghi hoặc khai mở, lúc đó tín tâm thanh tịnh kiên cố mới sanh khởi ra.

nghi vấn là có chướng ngại, mục đích tham học là đoạn nghi sanh tín, một việc làm rất khổ cực. Bạn phải đi lắng nghe xem nơi nào có thiện tri thức thì đến nơi đó thỉnh giáo, đó là gian khổ của tu học. Lại nói, đoạn phiền não, đoạn tập khí, khó xả mà có thể xả, khó làm mà có thể làm đều dựa vào nhẫn nhục. Không nhẫn nhục sẽ làm không được. Cho nên nhẫn nhục Ba La Mật trong lục độ là điều vô cùng quan trọng.

Thích Ca Mâu Ni Phật ở hội kinh Kim Cang nói Bồ tát lục độ, đặc biệt nói nhiều về bố thí nhẫn nhục, đó chính là nói với chúng ta rằng trong lục độ thì hai điều này là quan trọng nhất. Bố thí dạy bạn buông bỏ, khó xả cũng xả. Nhẫn nhụcthen chốt thành tựu của chính bạn. Bạn có thể nhẫn, sau đó mới có thể tinh tấn, thiền định, Bát nhã. Nếu không thể nhẫn thì những điều phía sau thảy đều không có. Bạn tu bố thí, trì giới là phước báu hữu lậu sáu cõi. Phước đức không phải công đức, nhưng nếu có nhẫn nhục thì phước đức biến thành công đức.

Thứ tư, “Tinh tấn”

Sau khi nhẫn nhục mới có tinh tấn. Tinh là thuần mà không tạp, tấn là tấn mà không thoái, đạo nghiệp của bạn làm sao không thành tựu. Đạo nghiệp thành tựu thì tất cả đều thành tựu, sự nghiệp trên thế gian của bạn cũng thành tựu viên mãn. Bồ tát kinh doanh sự nghiệp thế gian. Sự nghiệp kinh doanh của họ thảy đều là đạo nghiệp thành tựu Bồ Đề Niết Bàn, thành tựu chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui, tự tha hưởng lợi. Bồ tát thị hiện tại gia, thân phận nam nữ già trẻ, làm các ngành nghề. Bạn phải biết đều là đạo nghiệp, ý niệm đó vừa chuyển thì siêu phàm nhập thánh, còn gì bằng. Phàm phu mỗi ngày mặc áo ăn cơm trong phiền não, còn Bồ tát mỗi ngày mặc áo ăn cơm là tu hành, tinh tấn, sau mới có thiền định.

Thứ năm, “Thiền định”

Hiện tại chúng ta thấy nhiều người tu định, mỗi ngày ngồi thiền thời gian rất dài nhưng không hề thấy họ có định, do nguyên nhân gì? Thành thật mà nói, chưa có nhẫn nhục làm sao được định. Người ta tán thán mấy câu thì vui mừng, mắng vài câu thì tức giận mấy ngày không tiêu được, thì làm sao được định. Có xếp bằng ngồi quay mặt vào vách, dáng vẻ rất giống, nhưng chỉ để khởi vọng tưởng, không thật vào định. Làm sao ta biết họ khởi vọng tưởng? Vì mắng họ vài câu thì họ tức giận. Khởi tâm động niệm vẫn còn danh vọng lợi dưỡng, vẫn có phải quấy nhân ngã, đều rơi vào phiền não, không liên quan gì tới sự hành trì tu tập, cho nên họ không thể được định.

Người chân thật được định, tâm địa mát mẻ tự tại. Cái gì là định? Đề kinh này của chúng ta, tâm thanh tịnh là định, tâm bình đẳng là định. Tâm của họ thanh tịnh bình đẳng thì không có phiền não, ý niệm tham sân si không sanh. Bình đẳng là không có phải quấy nhân ngã. Cho nên công phu của thiền định hoàn toàn trừ bỏ phiền não bất bình. Khi sức định đạt đến mức độ nhất định thì trí tuệ liền khai. Giác chính là trí tuệ Bát Nhã. Bát Nhã hiện tiền thì công đức liền thành tựu. Công đức chính là phiền não vọng tưởng chấp trước đã chuyển đổi.

Thứ sáu, “Trí tuệ”

Các vị nên biết, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước cũng không phải là việc xấu. Ngày nay chúng ta phiền não nhiều, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước rất nặng, xin nói với các vị, đó là việc tốt không phải xấu. Ngay khi công phu thiền định của bạn sâu, chuyển phiền não thành bồ đề, vừa chuyển thì quay lại. Tướng tông nói:

“Chuyển đệ lục ý thức,

vi diệu quán sát trí.

Chuyển mạt na thức,

vi bình đẳng tánh trí.

Chuyển tiền ngũ thức,

vi thành sở tác trí.

Chuyển a lại da,

vi đại viên cảnh trí”

Sức định, thiền định mức độ sâu mới chuyển được. Cái chuyển này là trong định sanh trí tuệ. Xin thưa, nếu như khôngphiền não thì không có Bồ đề. Phiền não càng hướng bồ đề càng lớn, cho nên không cần sợ phiền não, cũng không cần phải lo. Đến lúc đó ta chỉ chuyển đổi lại thành Vô Thượng Bồ Đề. Lưu ý Phật pháp nói chuyển, tuyệt nhiên không nói “diệt”. Nếu đem phiền não đoạn diệt, phiền não diệt mất rồi thì bồ đề cũng diệt luôn, phiền phức sẽ to. Bồ Đề Niết Bàntự tánh Bát Nhã bị mê vọng chuyển biến thành phiền não. Vốn dĩ là Bồ Đề, bởi vì mê mất tự tánh mới biến thành phiền não. Hiện tại vừa giác ngộ thì lại đem nó chuyển đổi, không phải thật đã đoạn. Thật đã đoạn thì bồ đề không có, tự tánh cũng không còn, vậy thì luống không. Phật pháp không phải là đoạn diệt không. Ý nghĩa Phật pháp nói “không” rất sâu. “Không” không phải là vô, không phải đoạn diệt. Không là hữu vi. Hữu là không tự tánh, không có tự thể, cho nên pháp duyên sanh, duyên khởi tánh không, phàm hễ nhân duyên sanh ra đều không có tự tánh, không có tự thể, “đường thể giai không, liễu bất khả đắc”. Không phải không có tướng, không phải không có tác dụng. Tướng và tác dụng chúng ta có thể dùng nhưng quyết không chấp trước và chiếm hữu nó. Bạn muốn chiếm hữu, muốn chấp trước nó thì sai. Khác biệt phàm thánh chính ngay khoảng một niệm.

Tứ hoằng thệ nguyện

Không luận Phật pháp tiểu thừa đại thừa, từ đầu đến cuối đều chú trọng ở hành. Giải vẫn trước hành, chúng ta không thể không biết. Phía sau hành còn có nguyện, chữ này rất quan trọng. Trên kinh luận, nhất là chú sớ của cổ đức, gọi là “tương chất của hạnh nguyện như đôi cánh của chim, như hai bánh của xe”, nhằm nói rõ quan hệ của chúng rất mật thiết, “nguyện dĩ đạo hành”, nguyện là chỉ đạo; “hạnh dĩ tiễn nguyện”, ngay trong cuộc sống thường ngày phải thực tiễn cái nguyện của chúng ta.

Ngài Thanh Lương trên kinh Hoa Nghiêm giảng về phát nguyện. Trong nguyện quan trọng nhất là dùng tâm chân thành làm nền tảng của đại nguyện. Tất cả đại nguyện của Phật Bồ Tát trong nhân địa phát ra đều nương tâm bồ đề. Ngài Thanh Lương nói về tâm bồ đề tương đối tường tận “Hữu tâm chi lễ, hữu tâm chi tướng, hữu tâm chi đức”. Tâm chi lễ, trong kinh luận nói “trực tâm, thâm tâm, đại bi tâm”, đây là cái lễ của tâm. Pháp môn tịnh độ, tục thường gọi pháp môn phương tiện trong đại thừa, cũng phải nương vào tâm bồ đề. Ở quyển kinh này, chúng ta xem thấy điều kiện của ba bậc vãng sanh luôn là “phát tâm bồ đề một lòng chuyên niệm”, có thể thấy phát tâm rất quan trọng. Nhiều vị đồng tu xem thường việc này, cho rằng chỉ cần một lòng chuyên niệm Phật thì được, đến sau cùng khi lâm chung vẫn cứ bối rối chân tay, không được thọ dụng, nguyên nhân do kém khuyết tâm bồ đề. Tám chữ điều kiện vãng sanh, bạn chỉ làm bốn chữ thì chưa được. Bạn chỉ làm “một lòng chuyên niệm”, nhưng không “phát tâm bồ đề”, cho nên vẫn không thể vãng sanh.

Phát tâm rất quan trọng, thâm tâm trong phát tâm bồ đề chính là nguyện tâm, hiếu thiện hiếu đức. Thông thường nói, chư Phật Như Lai tứ hoằng thệ nguyện phát ra ở nhân địa, thực ra tất cả chư Phật trong nhân địa phát ra vô lượng đại nguyện, đem quy nạp lại không ngoài bốn điều này. Thậm chí bốn mươi tám nguyện của Phật A Di Đà cũng có thể quy nạp trong bốn nguyện này. Cho nên bốn nguyện này biến thành pháp môn đại thừa, chứa căn bản đại nguyện trong đó.

Nguyện thứ nhất, “Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”

Nhất định phải phát tâm nguyện độ chúng sanh. Bồ tát nếu không độ chúng sanh, không giáo hoá giúp đỡ chúng sanh, tâm bồ đề của họ không hiển lộ thì họ không thể viên mãn được công đức, đạo lý này tuyệt nhiên không khó hiểu. Người thế gian chúng ta thường nói “Giáo học tương trường, sư chất đạo hợp”, thầy giáo dạy học trò, học trò cũng thường khải phát thầy giáo. Thầy giáo do học trò chất vấn nghi tình, hoặc giả ngay trong cuộc sống thường ngày, thầy giáo xem thấy thường hay cảm ngộ. Cái cảm ứng này giúp họ khai ngộ. Nếu không tiếp xúc học trò thì làm sao có thể thành công. Cho nên tánh đức viên mãn nhất định phải dựa vào tiếp xúc rộng rãi quần chúng mới hiện khởi được. Đó chính là lý do vì sao Thiện Tài phải năm mươi ba lần tham học. Nếu ngài không tham học, trí tuệ của ngài sẽ không thể viên mãn. Ở thế gian này, bất cứ người nào, bất cứ phương thức đời sống nào, bất cứ nghề nghiệp nào, Thiện Tài đều phải tham học.

Do đây có thể biết tu hành không phải tự nhốt mình trong nhà mà tu. Nhốt trong nhà nhất định tu không thành, điểm này các vị đồng tu cần phải biết. Nhốt trong nhà hưởng phước, đã hưởng phước thì trí tuệ làm sao sanh khởi được. Chúng ta cũng từng nghe qua, nhà Phật tại gia xuất gia thường hay bế quan, lều tranh cấm túc, nhưng đó không phải là việc của người mới học, mà là việc của những người nào? Những người đã thông qua tham học, hai trí viên mãn thành tựu, chính là căn bản tríhậu đắc trí. Nói cách khác, họ tốt nghiệp rồi, không còn nơi để tham học nữa. Lúc này, phải nên phát nguyện giáo hoá chúng sanh. Thành tựu trí tuệ chính mình thì phải dạy người, đây là thường qui củ của chư Phật Như Lai.

Sau khi thành Phật không phải không có việc làm, không phải ngồi ở miếu để người ta cúng dường lễ bái. Sau khi thành Phật thì phải phổ độ chúng sanh, giáo hoá chúng sanh. Phật phápsư đạo, sư rất tôn quý, “tôn sư trọng đạo”. Vào thời xưa Phật pháp cùng thế pháp giống nhau, “chỉ văn lai học, dị văn vãng giáo”. Thầy giáo không thể nói “Ta đến dạy cho con”, làm gì có người cuồng vọng như vậy. Bạn có bao nhiêu bản lĩnh mà lại dám dạy người?

Cho nên khi Phật Bồ tát thành Phật cũng rất khiêm tốn, không dám xưng mình có học vấn, có đức hạnh, có thể làm thầy người. Thầy là do người khác tôn xưng, còn chính mình quyết không dám xưng thầy. Chính mình thật đã thành tựu lại rất ngại nói với người. Người ta cũng không quen biết họ, làm sao chịu theo học với họ? Cho nên phải treo bảng hiệu, bảng hiệu này là bế quan, lui vào cấm túc trong núi, ngầm tuyên bố với quần chúng rộng lớn rằng trí tuệ đức năng của tôi có thành tựu, không cần phải tham học bên ngoài nữa, những người tham học đều có thể đến, ý chính là như vậy. Cho nên bế quan là bởi vì không có pháp duyên, không có người mời họ giảng kinh nên họ dùng phương pháp chờ đợi pháp duyên, cũng là đợi người khác đến thỉnh pháp. Một mặt chờ đợi, một mặt chính mình tiến tu, “bách xích cần đầu, cánh tấn nhất bộ”.

Thời xưa cầu học phải thân cận thiện tri thức, ai là thiện tri thức? Người tên tuổi lớn, danh vọng cao. Hiện tại người danh tiếng cao chưa chắc là thiện tri thức. Thử đến khắp nơi tìm xem, nơi nào có người bế quan? Người bế quan chính là thiện tri thức chân thật, chúng ta có thể đến họ tham học, thỉnh giáo. Nếu bạn nêu ra những nghi vấn mà họ không thể giải quyết thì bạn có thể mở cửa bế quan mời họ ra cùng đi tham học với bạn. Họ chưa đủ tư cách bế quan, vẫn phải đi làm học trò. Bế quan chính là làm học trò đã viên mãn, có thể trở thành thầy giáo. Cho nên sư là đạo, rất tôn nghiêm, cần phải có người thỉnh pháp.

Năm xưa Thích Ca Mâu Ni Phật xuất hiệnthế gian, ngài ngồi dưới cội bồ đề nhìn sao sáng, đó là thị hiện chứng quả cũng chính là thành tựu trí tuệ đức năng cứu cánh viên mãn. Sau khi thành tựu thì phải hoằng pháp lợi sanh. Không có người quen biết ngài, không có người mời ngài, trong tình trạng này, ngài phải vào Niết Bàn, nếu như vậy thì thật đáng tiếc. Phật đến thế gian thật không dễ dàng. Nhân gian không có người quen biết ngài. Nhưng thiên nhânthần thông, họ biết được nên liền giáng hạ xuống thế gian, vì thế nhân chúng ta mà thỉnh pháp. Thiên nhân ở đâu? Tịnh Cư Thiên Nhân. Tịnh Cư ThiênTứ Thiền Ngũ Bất Hoàn Thiên, họ đều là người tu hành, không phải người thông thường. Ở thế gian này phàm thánh đồng cư, số lượng nhiều nhất có ba nơi. Thế gian này của chúng ta là một nơi, phàm thánh đồng cư độ, còn rất nhiều nơi sơn minh thủy tú. Chúng ta xem thấy sông núi có linh khí, người thế gian thông thường chuộng phong thủy tốt. Vì sao có linh khí? Vì sao phong thủy tốt như vậy? xin nói với các vị, có chư Phật Bồ Tát, có A La Hán tu hành nơi đó cho nên phong thuỷ mới tốt. Cảnh tùy tâm chuyển, nơi đó có Bồ Tát A La Hán, tâm của họ thanh tịnh chân thành từ bi, tràn đầy trí tuệ đức năng; họ ở đó nên hoàn cảnh nơi đó liền chuyển tốt, y báo tùy theo chánh báo chuyển. Nơi đây không có Phật Bồ Tát, không có người chân chính tu hành thì phong thuỷ đó làm sao chuyển tốt được.

Vào thời xưa, một số người không rõ đạo lý này, xem thấy xây dựng đạo tràng chùa miếu ở đại lục Trung Quốc đều là nơi phong thuỷ tốt, thấy người xuất gia còn biết xem phong thuỷ, biết chọn nơi phong thuỷ xây dựng chùa miếu, xây dựng đạo tràng. Kỳ thật sai rồi, người xuất gia làm gì có chuyện đi xem phong thuỷ. Người xuất gia vừa ở đó vài năm, phong thuỷ xấu cũng biến tốt, đó chính là đạo lý cảnh tuỳ tâm chuyển. Phàm phu thì tâm tuỳ cảnh chuyển, vậy rất khổ. Vốn dĩ phong thuỷ này không tệ, phàm phu đến ở nơi đó, ngày ngày sanh phiền não, ngày ngày khởi vọng tưởng, sau hai ba năm, phong thuỷ tốt cũng biến thành phong thuỷ xấu. Nếu các vị hiểu thì không cần phải mời người xem phong thuỷ, tốn tiền oan uổng. Chính mình phải có bản lĩnh chuyển phong thuỷ, không có chuyện phải dựa vào thầy địa lý đổi phong thuỷ cho mình. Nếu họ biết đổi, vì sao họ không tự đổi phong thuỷ cho chính họ. Ngay chính họ cũng không tự thay đổi còn nói giúp bạn đổi, bạn có thể tin tưởng không?

Người học Phật phải hiểu rõ đạo lý này, không nên bị người khác lừa gạt, dụ dỗ. Nhất định phải phát nguyện giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn, nguyện tâm phải lớn, phải lấy tâm bồ đề để nương theo. Trong tâm bồ đề không có vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cho nên tâm bồ đề tương ưng với hư không pháp giới, đó là chân tâm. Tâm chúng ta vốn dĩ lớn như vậy, mỗi niệm vì chúng sanh, không vì chính mình; chúng sanh chính là chính mình, vậy thì đúng, tương ưng với chân tướng sự thật. Chúng ta trong lúc giảng giải cũng thường hay nói, tận hư không khắp pháp giới đích thực là một thể chính mình.

Ngày nay thế giới phân tranh rất nghiêm trọng, ai cũng biết kết quả này là do bất thiện, thế nhưng đều không chịu buông bỏ sự tranh chấp, rốt cuộc vấn đề do đâu? chính ngay tâm lượng quá nhỏ, chỉ xem thấy lợi ích của mình, không thấy lợi ích của người khác, cho nên hành động tổn người mà không lợi mình. Người thế gian thường nói “tổn người lợi mình”, lời nói này sai, không hợp đạo lý. Tổn người nhất định không lợi mình, lợi người mới chân thật là lợi mình. Hại người thì làm gì có chuyện lợi mình. Xưa nay trong ngoài nước không hề có đạo lý này. Đây là tư tưởng sai lầm, mê muội điên đảo. Tư tưởng kiến giải lời nói việc làm của họ hoàn toàn trái ngược với chân tướng sự thật, đó gọi là phàm phu. Tư tưởng lời nói việc làm của Phật Bồ tát hoàn toàn trái ngược với phàm phu chúng ta. Việc này đáng được chúng ta tham khảo, nghiên cứu.

Chư Phật Bồ Tát dùng chân tâm, kinh đại thừa thường nói “chân tâm lìa niệm”, niệm này là vọng niệm, vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Trong chân tâm không có, lìa khỏi vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, cái chân tâm này liền gọi là chánh niệm, chánh tâm, chân như. Chân nhưchân tướng của vũ trụ nhân sanh, hoàn toàn tương ưng, đó là chân tâm hiển lộ. Nó không có chút ô nhiễm, không chút mê mờ, hiển lộ ra trí tuệ vô lượng, đức năng vô lượng. Giáo hoá chúng sanh, chúng sanh cũng phải có phước, có huệ mới có thể thân cận Phật đà. Nếu phước huệ không đủ, thì cơ hội luôn lỡ qua trước mắt. Thời kỳ mạt pháp cũng không ngoại lệ.

Ngày nay chúng ta có duyên đọc di giáo của Phật, hơn nữa được bản gốc tinh hoa nhất. Duyên này rất sâu, chúng ta tiếp xúc có thể sanh tâm hoan hỉ, có thể tín nguyện hành. Kinh Di Đà đã nói, chúng ta hiển thị ra vô lượng kiếp đến nay, đời đời kiếp kiếp đã tu thiện căn, phước đức. Hiện tại chín muồi, chúng ta gặp được nhân duyên thù thắng này không phải là việc dễ. Hiểu rõ mới biết trân trọng, mới biết đáng quý. Một đạo tràng thành tựu nhất định được hộ niệm gia trì của tất cả chư Phật Như Lai; thiên long thiện thần bảo hộ, hiệp trợ, cảm ứng tương thông không thể nghĩ bàn.

Tôi học Phật hơn bốn mươi năm, giảng kinh ba mươi chín năm, tôi đã đi qua rất nhiều khu vực, pháp duyên Phật pháp thù thắng không hề vượt qua nơi đây. Chúng sanh khu vực này, thiện căn phước đức nhân duyên chín muồi. Nếu không chín muồi thì không thể có cảm ứng như vậy. Phật Bồ Tát vì sao chọn lựa nơi đây để xây đạo tràng? Nhân duyên vô lượng. Nhân duyên không phải là phàm phu tiểu thừa có thể đoán biết mà là cảm ứng. Đặc biệt ba bốn năm nay cho chúng ta cảm xúc rất rõ ràng. Người tâm địa có chút thanh tịnh gần như đều thấy được cảm ứng này, chân thật không thể nghĩ bàn. Đương nhiên ở đây được nhờ vào sự lãnh đạo hộ trì của cư sĩ Lý Mộc Nguyên, mà cư sĩ Lý lại được tất cả chư Phật Bồ Tát gia trì. Không phải ngẫu nhiên mà người lãnh đạođạo tràng nào muốn làm đều được.

Cư sĩ Lý được Phật gia trì, đã chứng minh cho chúng ta. Mười năm trước ông bị bệnh ung thư nghiêm trọng, hết cứu chữa. Ông không đi bác sĩ, cũng không uống thuốc, chỉ một lòng niệm Phật đợi Phật A Di Đà tiếp dẫn. Phật A Di Đà không tiếp dẫn ông đến thế giới Cực Lạc, mà giao ông một sứ mạng xây dựng đạo tràng chánh pháp, tiếp dẫn chúng sanh căn tánh chín muồi. Thế nào gọi là chín muồi? Là những chúng sanh ngay đời này đáng phải đến thế giới Cực Lạc làm Phật.

Duyên của kinh Vô Lượng Thọ không thể nghĩ bàn. Cả đời tôi giảng kinh không hề rời khỏi giảng đài, pháp duyên giảng bất cứ kinh luận nào đều không bằng giảng kinh Vô Lượng Thọ. Duyên của quyển kinh này thù thắng, chính tôi cảm xúc rất sâu sắc. Giảng các kinh điển khác, thính chúng đến dự khoảng vài trăm người. Nhưng giảng bộ kinh này, tôi thấy chỗ ngồi chật kín. Có người nói với tôi, “ngài chưa thấy lầu bốn cũng ngồi đầy chật”. Đây không phải là tôi biết giảng. Mỗi bộ kinh, tôi đều có thể giảng thông, nhưng vì sao giảng kinh khác không có người nghe, trong khi giảng kinh này thì thính chúng nhiều đến vậy? Kinh Vô Lượng Thọ cũng có rất nhiều quyển, giảng quyển khác thì thính chúng không nhiều, nhưng giảng quyển này thì thính chúng đặc biệt đông, đây không phải là minh chứng tường tận hay sao?

Chúng ta chọn lựa pháp môn này là đúng, tất cả chư Phật hoan hỉ, long thiên thiện thần cổ vũ, để chúng ta chân thật đoạn nghi sanh tín, không xen tạp, không gián đoạn, ngay một đời quyết định thành tựu. Cư sĩ Lý phát đại tâm, cùng chúng tôi bàn bạc. Lần này vì kinh Hoa Nghiêmkinh Vô Lượng Thọ, ông đã xây hai tòa tháp đồng bậc nhất thế giới, không nơi nào cao to hơn nơi đây. Ông đặt cho nó tên “Hoa Nghiêm Song Tháp” để kỷ niệm giảng hai bộ kinh lớn này. Thực tế nó còn có ý nghĩa rất sâu, hai bảo tháp này là bảo tháp kim cang, trấn định nền tảng kiên cố của đạo tràng. Giống như kinh Hoa Nghiêm nói, đất này là kim cang thành tựu, chánh pháp được kiến lập nơi đây. Chúng ta phải nguyện báo đáp cư sĩ Mộc Nguyên, cũng là báo đáp chúng sanh khu vực duyên đã chín muồi này. Giảng đường ở đây giảng kinh mỗi ngày không gián đoạn. Ngày rằm, ba mươi chúng ta cũng giảng, mùng một tết cũng giảng. Nhà ăn lầu dưới phục vụ cơm chay miễn phí, hoàn toàn viên mãn.

Ngày nay đi khắp thế giới, không thấy có đạo tràng nào đều đặn giảng kinh mỗi ngày, cũng không hề nghe nói qua. Hai toà tháp lớn nhất thế giới, đạo tràng chúng ta giảng kinh cũng đứng đầu thế giới. Ngoài ra còn một niệm Phật đường ở lầu ba, mỗi ngày niệm hai mươi bốn tiếng không gián đoạn, việc đó cũng đứng đầu thế giới. Đạo tràng này, giải hành đều tiến, giải hành tương ưng. Hai tháp này có thể gọi là tháp Giải Hành.

Niệm Phật đường khích lệ các đồng tu đến niệm Phật. Chúng ta giảng bộ kinh Vô Lượng Thọ chính là khuyên mọi người niệm Phật. Niệm như thế nào? Bồ Tát Đại Thế Chí dạy một nguyên tắc “gom nhiếp sáu căn, tịnh niệm tương tục”. “Tịnh” là không hoài nghi, không xen tạp; “tương tục” là không gián đoạn. Niệm Phật như vậy, mọi người nói không thể làm được trong cuộc sống thường ngày. Thực tế không phải không làm được. Ý nghĩa của tương tục rất đa dạng. Ví dụ, bạn hành trì thời khoá sớm tối mỗi ngày, không cần làm nhiều, mỗi thời khóa chỉ khoảng mười phút, đều đặn không thiếu, gọi là tương tục. Trong mười phút, bạn không có hoài nghi, không xen tạp, tiếp nối từng câu từng câu, mỗi ngày tương tục.

Đối với người rất bận, không có thời gian hành trì sớm tối, kinh dạy, bạn có thể dùng những ngày nghỉ tương đối dài trong một năm để niệm Phật. Ví dụ bạn có mười ngày nghỉ phép, năm ngày bạn xử lý những công việc cá nhân, còn lại năm ngày bạn đến đây niệm Phật. Mỗi năm đều đến niệm năm ngày, cũng là tịnh niệm tương tục, không gián đoạn. Những gì Phật nói đều nguyên lý nguyên tắc, hợp tình, hợp pháp, người người đều có thể làm được. Nếu rảnh mỗi tháng có một kỳ nghỉ thì mỗi tháng ta đến niệm Phật một hai ngày. Nơi đây cũng như là đạo tràng Phật thất suốt năm. Chúng ta đem phương qui của Đại sư Ấn Quang ở núi Linh Nghiêm thực tiễn nơi đây.

Cư sĩ Lý còn phát đại tâm, hy vọng tương lai xây dựng một thôn Di Đà ngay cạnh để cúng dường người niệm Phật. Bạn đến nơi đây, được cúng dường tứ sự. Cơm áo ngủ nghỉ thảy đều do nơi đây phụ trách, bạn không cần mang theo bất cứ thứ gì. Bạn buông bỏ tất cả thân tâm thế giới, đến đây ngày ngày nghe kinh, ngày ngày niệm Phật. Không phải ông xây viện dưỡng lão mà là xây làng Di Đà, cúng dường chân thật phát tâm niệm Phật, muốn cầu sanh thế giới Cực Lạc. Người muốn đến thế giới Tây Phương Cực Lạc để làm Phật, ông cúng dường chân thành. Phước báu này của ông quá lớn, vì ông cúng dường Phật chứ không cúng dường người khác. Cho nên người đến làng Di Đà này ở là vị Phật sống, quyết bất thoái thành Phật.

Đạo tràng này nhất định phát triển đến giải hành tương ưng. Hai cái tháp có ý nghĩa rất sâu xa, là chư Phật Như Lai an định tín tâm của chúng ta. Xem thấy hoàn cảnh như vậy, tín tâm của chúng ta liền đầy đủ, không bị dao động, cho nên phải phát đại nguyện phổ độ chúng sanh. Phổ độ chúng sanh nhất định phải độ mình trước. Chính mình không được độ thì không thể độ được người khác. Thế nhưng có lẽ các đồng tu xem thấy trong kinh Phật thường nói “Chính mình chưa độ, trước độ người khác, phát tâm của Bồ Tát”, bạn có hiểu hay không? Đó là Bồ tát, bạn có phải Bồ tát không? Bạn không phải Bồ tát thì không được. Người ta chưa độ chính mình, chính mình chưa thành Phật, nhưng đã thành Bồ Tát rồi, thì họ có thể nói: “Ta chậm thành Phật một chút cũng không sao, ta cứ độ chúng sanh trước”. Họ có năng lực, có bản lĩnh nên dám nói câu này. Chúng taphàm phu không dám nói câu này, nên chúng ta nhất định phải độ chính mình trước. Nếu không độ chính mình trước mà độ người khác, thì chính mình vẫn đọa ba đường, không đáng lo sao?

Chính ta thành Bồ Tát thì không cần lo, có thể không cần gấp thành Phật. Giống như Bồ Tát Địa Tạng, học trò của Bồ Tát Địa Tạng là những người tiếp nhận giáo hoá của ngài, thành Phật không biết bao nhiêu mà kể, nhưng Bồ tát hiện tại vẫn là Bồ Tát. Ở địa vị ngài có thể nói chính mình chưa độ mà phải trước độ người khác, Bồ Tát phát tâm. Ngài là Bồ Tát, lời này ngài có nói cũng không hổ. Chúng ta phải phân biệt cho rõ ràng, đó là Bồ Tát không phải phàm phu. Phàm phu chúng ta nhất định phải độ chính mình trước, phải cầu sanh Thế Giới Tây Phương Cực Lạc. Nếu có được phước báu lớn, xin nói với các vị, nhân duyên hi hữu vô lượng kiếp.

Người nào ngay trong một đời không cần nói nhiều, một năm hai năm không làm việc gì, ngày ngày nghe kinh, ngày ngày niệm Phật, vậy còn gì bằng. Giải hành tương ưng thì làm gì đạo nghiệp không thành tựu. Đó là thế gian, huống hồ là nhân thế. Trong ba cõi, người có phước báu lớn như vậy, cũng hi hữu không dễ dàng. Cho nên khoan chưa độ chúng sanh, mà phải thành tựu chính mình.

(Còn tiếp ...)

KINH ĐẠI THỪA VÔ LƯỢNG THỌ TRANG NGHIÊM THANH TỊNH BÌNH ĐẲNG GIÁC

Pháp sư: HT. TỊNH KHÔNG

Biên dịch: Vọng Tây cư sĩ

Biên tập: PT. Giác Minh Duyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11471)
Thông Bạch Phật Đản 2016 - Phật Lịch 2560 của Chánh Văn Phòng HĐCM GHPGVNTN Hoa Kỳ
(Xem: 10555)
Phật Đản là ngày sinh của Đức Phật. Theo như trong kinh Phật đã dạy: “Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh”,
(Xem: 10821)
‘Tào khê thuỷ’ (曹溪水) hay ‘Tào Khê’ là đại từ chỉ định về Lục tổ Huệ Năng, cũng chỉ cho dòng suối trí tuệ Phật giáo.
(Xem: 9885)
Chúng ta có hai cách giao lưu với thế giới nội tâm và với thế giới bên ngoài. Một: Tâm cảm thọ (Sensing mind) trực tiếp qua giác quan như ...
(Xem: 9565)
“Thị hiện Đản sanh”, là cụm từ được chỉ chung cho tất cả các bậc Thánh nhân, chư Phật, Bồ Tát khởi lên ý niệm tự phát nguyện...
(Xem: 12925)
Dòng đời cứ cuồn cuộn hay lặng lẽ mãi miết trôi, và mọi cảm nhận tiếp thụ của con người vẫn cứ lan chảy bất tận theo thời gian.
(Xem: 13333)
Phương cách tốt nhất giúp ta tỉnh giác khi hành Thiền là ta biết giữ hơi thở trong tâm.
(Xem: 13490)
Hãy tụng kinh Kim cương nhiều lần. Thầy cũng sẽ cầu nguyện, trì tụng và hồi hướng cho con ngay bây giờ.
(Xem: 19858)
Thân thị Bồ đề thọ, Tâm như minh cảnh đài, Thời thời cần phất thức, Vật sử nhá trần ai.
(Xem: 12565)
Theo giáo lý Tịnh Độ Phật A Di Đà là vị Phật ánh sáng luôn soi chiếu thông suốt mọi cảnh giới, tiếp dẫn chúng sanh vãng sanh.
(Xem: 13284)
Chánh niệm tỉnh giác (Satisampajanna) là một thuật ngữ Phật học ngụ ý một nếp sống thanh thản an lạc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 13571)
Không biết tự bao giờ, mùa xuân được lấy làm biểu tượng của tâm hồn an lạcthanh tịnh.
(Xem: 13043)
Ngày xuân năm nay, chúng tôi sẽ đem đạo lý khuyến khích nhắc nhở tất cả Phật tử tinh tấn tu hành.
(Xem: 12396)
Nhân Tết con khỉ - Bính Thân, nên xin nói tản mạn về con khỉ, có liên hệ đến những ý tưởngquan niệm trong đạo Phật.
(Xem: 18597)
Hai bài kệ dưới đây trích trong Lục Tổ đàn kinh rất nổi tiếng trong giới Thiền học, được phổ biến, giảng luận không biết bao nhiêu là giấy mực...
(Xem: 10703)
Thiền Tôngpháp môn nguyên thủy và cốt tủy do Đức Phật dạy.
(Xem: 12431)
Không gì tuyệt đẹp hơn hình ảnh của mùa xuân, khi hoa đào hoa mai hé nở, khi những mầm xanh đang e ấp chờ đợi...
(Xem: 11019)
Năm cũ đã hết với bao đổi thay của đất trời và con người, để đón nhận một mùa xuân mới tràn đầy hạnh phúc.
(Xem: 11218)
Cảm ơn Xin cảm ơn Trời đất bốn mùa thay nhau chuyển đổi Xuân sinh, hạ trưởng Thu liễm, đông tàn
(Xem: 14730)
Vào thuở thịnh Đường, Lục tổ Huệ Năng ( 慧 能 638-713 ) sau khi đắc pháp với Ngũ tổ Hoằng Nhẫn ( 弘忍) và được truyền Y bát,
(Xem: 22636)
Bài này được viết vào khoảng tháng 11 năm 1991, có trong tác phẩm “Sân Trước Cành Mai,” xuất bản năm 1994.
(Xem: 11607)
Tết đã gần kề. Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam có cái chung nhưng cũng có những nét khác nhau tùy theo phong tục tập quán của từng vùng, miền.
(Xem: 10202)
Trong mùa xuân, thiên nhiên tự làm mới lại, con người cũng tự làm mới lại thân tâm mình, mọi vật đều cố gắng chuyển hóa thành mới, trong sạch, thanh tịnh.
(Xem: 34594)
Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ.
(Xem: 17767)
Ngày hết Tết đến nhìn thấy còn những người đau khổ chung quanh thì lòng mình không thể dửng dưng...
(Xem: 32747)
Niệm Phật tức là tham thiền không phải hai pháp, ngay lúc niệm Phật, trước tiên phải buông bỏ hết thảy các thứ vọng niệm, tạp loạn phiền não, tham, sân, si...
(Xem: 22159)
Thân của ta hôm nay thật là mong manh như bọt nước, niệm niệm sanh diệt không dừng. Lại sống trong ngôi nhà lửa không an ổn, sao mà cứ tỉnh bơ không chịu quán sát cho kỹ...
(Xem: 11240)
Ngoài kia, từng cánh én đang tung tăng chao lượn, dòng người thì tấp nập ngược xuôi trong tà áo mới, trên gương mặt ai nấy hân hoan rạng ngời
(Xem: 17614)
Tình yêu như bát bún riêu. Bao nhiêu sợi bún bấy nhiêu sợi tình.
(Xem: 17185)
Khách thập phương rảo bước quanh sân chùa, ngắm nhìn cảnh vật, cội mai già, nụ mai còn hàm tiếu.
(Xem: 10720)
Cụm từ trên không biết có tự bao giờ…? Thế nhưng từ lâu cho đến tận ngày hôm nay, thật sự đã đi sâu thẳm vào
(Xem: 10881)
Khi cây mai vàng chưa kịp đưa hương Và bờ cỏ đương đổi màu hoang tái Bóng chiều nghiêng cánh én còn ái ngại Vẫn nghe lòng vời vợi bước xuân phương
(Xem: 9622)
Vẫn mang chiếc áo lỳ năm tháng cũ Vẫn chiều nay, Bên khung cửa hôm nào Ta nhấp nháp chung trà hương viễn xứ
(Xem: 10633)
Cành mai năm trước, cành đào bây giờ vẫn một sắc hương, cội mai già nỉ non bung ra từng hé nụ, hoa đào đón gió tưng bừng khoe sắc hương.
(Xem: 10622)
Hãy nhìn lại thật gần, thật kỹ, những gì đang có trong lòng bàn tay. Mùa xuân không ở đâu xa. Mùa xuân ở nơi ấy.
(Xem: 10600)
Tâm giống như con khỉ (kapicitta) là một thuật ngữ, đôi khi Đức Phật dùng để diễn tả các hành-vi lo-lắng, khuấy-động,
(Xem: 12506)
Chư Thiện nhân! Trên đời có muôn ngàn đường lối, tại sao lại chỉ khuyên người niệm Phật?
(Xem: 12430)
Tôi không có tham vọng viết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882)
(Xem: 10008)
Năm mới, chúng ta đón chào một mùa xuân mới được nhiều phước lộc, và học thay đổi cách sống mới để làm đời mình thêm tươi vui, hạnh phúc.
(Xem: 13253)
Hiện nay, ở một số chùa có trưng bày tượng ba con khỉ trong sân chùa. Nhưng không phải ai cũng biết về nguồn gốc cũng như...
(Xem: 9749)
Thay đổi cuộc đời trong Năm mới chính là Làm mới chính mình, nuôi dưỡng suối nguồn hạnh phúc.
(Xem: 9137)
Thành đạo còn gọi là Đắc Đạo, chứng đạo, đạt đạo, thành tựu đạo quả.
(Xem: 11848)
Phật pháp thường nói “ mạng người vô thường, cõi nước rủi ro”, “ thân người khó được Phật pháp khó nghe”;
(Xem: 13500)
Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác. Bất cứ làm điều gì, các ông phải làm với chánh niệm.
(Xem: 12088)
Trước khi tìm hiểu kỹ về Thiền tông, chúng ta nên có một quan niệm tổng quát về tông phái này thì khi đi sâu vào chi tiết sẽ bớt bỡ ngỡ.
(Xem: 11313)
Khi chúng ta có ước muốn theo đuổi con đường tâm linh, ta phải hiểu thấu vì sao lại chọn đi con đường này.
(Xem: 11622)
Lòng bi mẫnsự thiền định hay thực hành quan trọng nhất mà bạn có thể làm. Mặc dù những giáo lý của Đức Phật nói về...
(Xem: 10356)
Tịnh Độ là một pháp môn rất thù diệu, dễ tu dễ chứng và phù hợp với mọi trình độ căn cơ chúng sanh. Chỉ cần người có lòng tin vào nguyện lực của Phật A di đà...
(Xem: 10279)
“Từ Thị Di Lặc” nghĩa là : người mang chủng tánh Từ Bi, rộng đức bao dung, hòa ái, êm dịu, luôn đem lại sự an lành hạnh phúc cho mọi người và cho cả cuộc đời.
(Xem: 10928)
Nguyên tác: Making Space with Bodhicitta; Tác giả: Lama Yeshe; Chuyển ngữ: Hoa Chí
(Xem: 28254)
Tiết Vu Lan bâng khuân nhớ Cha công dưỡng dục, mùa Báo hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 10835)
Con người không biết Phật cũng chẳng sao, không biết Nho giáo cũng chẳng sao, thậm chí không tín ngưỡng tôn giáo cũng chẳng sao, chỉ cần họ biết đạo lýsự thật của Nhân Quả Báo Ứng thì được rồi.
(Xem: 7429)
Lúc gần đây, khi tôi vào trang mạng của Dzogchen Ponlop Rinpoche đọc một bài viết có tựa đề là "Đạo Phật Là Một Tôn Giáo, Có Đúng Không?", tôi đã ngạc nhiên vì một số ý-kiến của người-đọc ở phần bên dưới bài viết
(Xem: 9350)
Tư tưởng thuần khiết nhất này là nguyện ước và ý chí đưa tất cả chúng sanh đến sự thực chứng năng lực Giác Ngộ vô thượng.
(Xem: 11796)
Người tu thiền chẳng những tâm được yên, trí sáng mà cơ thể lại tốt nữa. Cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, không buồn không khổ.
(Xem: 11690)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 11123)
Thiền là gì? Để trả lời câu hỏi này, ngôn từ không phải bao giờ cũng cần thiết hay hoàn toàn thích đáng.
(Xem: 10338)
Thiền quán là nhìn một cách tĩnh lặng. Nhìn sự vật “như nó là”, không suy luận, không biện giải, không phê phán…
(Xem: 10284)
Ba viên ngọc quý Phật, Pháp, Tăng mà ai cũng có đầy đủ đều không ngoài Bản Tâm Tự Tánh mình.
(Xem: 13834)
Bậc giảng giải vô song, đỉnh cao của dòng họ Thích Ca, Người dìu dắt chúng sanh bằng giáo huấn duyên khởi...
(Xem: 14999)
Trên đây là bài dịch từ trang 18-20 trong quyển ’Kindness, Clarity,and Insight’ của Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 Tenzin Gyatso, với sự đồng ý của Snow Lion Publications
(Xem: 10527)
Thiền không phải là một tôn giáo, một học thuyết hay một quan niệm thuộc về tri thức.
(Xem: 11926)
Phải chăng trường đời là nơi tranh danh đoạt lợi, hay chính là do mầm tham ái ở tại lòng mình mới là động cơ sinh ra mọi sự?
(Xem: 10917)
Tịnh Độ hay Quốc Độ của Chư Phật là từ dùng để chỉ Thế Giới đẹp đẽ, thanh tịnh, tôn nghiêm, là nơi các Đức Phật cùng hàng Thánh Giả và các Tín Chúng cư ngụ.
(Xem: 10545)
Truyền thừa Sakya là một trong bốn truyền thống tâm linh vĩ đại tại Tây Tạng.
(Xem: 10684)
Có những phẩm hạnh mà bậc Thượng sư cần phải có và những phẩm chất mà người đệ tử cần có.
(Xem: 9920)
Đức Dalai Lama từng nhiều lần dạy rằng, Phật giáo Kim cương thừa không phải là Lạt-ma giáo.
(Xem: 10687)
Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng
(Xem: 9317)
Hãy nghe ĐỨC PHẬT định nghĩa về thiền : « Ở đây nầy các Tỳ Kheo, vị tỳ kheo đi đến khu rừng dưới một gốc cây hay đi đến chỗ nhà trống và ngồi kiết già lưng thẳng...
(Xem: 10022)
Bằng nguyện lực của Tam Bảo Tối Thượng đáng tin cậy Và chân lý của tinh thần trách nhiệm toàn cầu của chúng con, Nguyện cho Phật pháp quý báu lan rộng và hưng thịnh Ở mọi vùng đất, theo chiều dài và chiều rộng của phương Tây.
(Xem: 10208)
Một trong những mục đích chính của việc tranh luân trong khi tu học Phật pháp là để giúp bạn phát triển nhận thức quả quyết (nges-shes).
(Xem: 10548)
Trong Hiện Quán Trang Nghiêm Luận (mNgon-rtogs rgyan, tiếng Phạn, Abhisamayalamkara), Đức Di Lặc đã liệt kê bốn mươi sáu lỗi lầm ảnh hưởng đến việc phát triển trí tuệ tương ứng với căn cơ của chư Bồ tát (sbyor-ba’i skyon).
(Xem: 10638)
Của cải không trường tồn hay thường còn mãi mãi. Lòng tham của cải giống như uống nước muối, ta sẽ chẳng bao giờ có đủ.
(Xem: 10569)
Nền tảng của mọi phẩm chất tốt đẹpvị bổn sư tử tế, hoàn hảothanh tịnh; Sùng mộ ngài một cách đúng đắn là cội nguồn của đường tu.
(Xem: 10134)
Tâm là một sự chuyển động, bản tánh của nó là sự di động. Thực thể cơ bản của nó là sự trong sángtrong suốt.
(Xem: 9852)
Đường tu được tất cả chư Bồ tát thiện hảo tán thán, Cửa ngõ cho những người may mắn mong cầu giải thoát.
(Xem: 13573)
Cả Đức Thích Ca Mâu Ni Phật và Guru Rinpoche đều tiên tri sự ra đời và thành tựu tâm linh của Tông Khách Ba.
(Xem: 16357)
Long Thọ (Nagarjuna, Klu-grub), cùng với Vô Trước (Asanga, Thogs-med), là hai đại hành giả tiên phong của truyền thống Đại thừa.
(Xem: 13498)
Con xin sám hối nghiệp xấu ác của tự thân cùng tha nhân, và hoan hỷ với công đức của tất cả chúng sanh.
(Xem: 11572)
Tôi đã nhận được một món quà tặng quan trọng nhất từ bố tôi: đó là niềm tin về tôn giáo. Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ ơn bố tôi. Vì, bố là vị Bồ Tát của tôi.
(Xem: 11147)
Năm nay, Vu Lan khởi sắc một cách khác thường. Từ ngày 14 âm lịch đến rằm, lượng số người đi lễ như trẩy hội. Một số con đường chính đều bị tắt nghẽn giao thông.
(Xem: 11120)
Đạo Phật dạy về tầm quan trọng của sự kính trọng bố mẹ, và sự báo đáp công ơn bố mẹ.
(Xem: 12220)
Vu lan lại đến.Hiếu hạnh của con trẻ lại được nhắc đến. Nhưng đâu đó cũng thấy hiện lên các tiêu đề nói về việc con giết cha, hãm hiếp mẹ, những nghịch hạnh không ai có thể chấp nhận.
(Xem: 15390)
Tôi thấy tôi mất mẹ, mất cả môt bầu trời…
(Xem: 10634)
"Mẹ, Mẹ là giòng suối dịu hiền. Mẹ, Mẹ là bài hát thần tiên…Là bóng mát trên cao, là mắt sáng trăng sao, là ánh đuốc trong đêm khi lạc lối…"
(Xem: 11714)
Mẹ ơi tháng Bảy về rồi Là mùa hiếu hạnh tuyệt vời lên ngôi Nhớ ơn mẹ đã một đời Tảo tần mưa nắng tô bồi đời con
(Xem: 10637)
Mùa thu với tháng bảy mưa ngâu, với trăng thu diệu vợi, quê hương Việt nam chúng ta với biết bao vẻ đẹp êm đềm qua ánh trăng rằm tháng bảy Vu lan.
(Xem: 11105)
Sau khi đắc quả A-La-Hán, Tôn giả Mục Kiền Liên vận thần thông đi khắp các cõi tìm người mẹ đã khuất.
(Xem: 10043)
Lễ hội Vu lan bồn hay còn được gọi một cách phổ biếnlễ hội Cô hồn là một sự kiện quan trọng ở Trung Quốc vì nó được nối kết với việc thờ cúng tổ tiên.
(Xem: 10435)
Từ hơn mười năm qua, cũng có thể là xa hơn chút nữa, ngày lễ Vu Lan Báo Hiếu hằng năm, đặc biệt là lễ cài hoa hồng, đã có sức lan tỏa mạnh mẻ ra ngoài khỏi khuôn viên những mái chùa Phật giáo
(Xem: 11440)
Theo truyền thuyết nhà Phật, Bà mẹ Mục Kiền Liên Là người không mộ đạo Báng bổ cả người hiền.
(Xem: 11033)
Tháng bảy mùa Vu Lan trời buồn âm u mưa sùi sụt trắng xóa con đê quê mẹ. Tháng bảy mùa Vu Lan mây buồn giăng giăng kín lối con về quê mẹ…
(Xem: 12952)
Rằm tháng 7 - đại lễ Vu Lan, tưởng niệm gương đại hiếu của tôn giả Moggallāna (Mục Kiền Liên) đối với mẹ trong cảnh khổ ngạ quỷ;
(Xem: 24426)
Lòng thương của cha mẹ sẽ pha thêm màu xanh cho bầu trời, tô thêm màu biếc cho đại dương; và gia đình này, trái đất này, với bàn tay chăm sóc của cha mẹ, sẽ là hành tinh xanh, mỹ miều, tươi mát hơn bao giờ.
(Xem: 12630)
Ta còn một dòng sông, dòng sông xưa uốn khúc những nỗi niềm cay cực với bóng mẹ lênh đênh tất tả chuyến đò đời.
(Xem: 10314)
Kinh Vu Lan hiện được dịch ra tiếng Việt và được phổ thơ để các Phật tử dễ đọc tụng và dễ nhớ
(Xem: 28711)
Mùa Vu Lan lại về với người con Phật, mang nhiều ý nghĩa thâm diệu, vừa siêu nhiên của lãnh vực tâm linh, vừa hiện thực với văn hóa nhân gian...
(Xem: 19371)
Cách đây hơn 10 năm tại trụ sở Liên Hiệp Quốc ở New York, Hoa Kỳ, các thành viên của Liên Hiệp Quốc đã đồng thuận mỗi năm lấy ngày Vesak của Đức Phật làm ngày Phật Đản của thế giới.
(Xem: 10970)
Cách đây hơn 26 thế kỷ, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni thị hiện tại xứ Ấn Độ cổ xưa, cội nguồn của nền văn minh sông Hằng. Sự kiện trọng đại Đức Thế Tôn thị hiện vào cõi đời này thật là hy hữu.
(Xem: 23388)
Gần hai trăm nghìn người không phân biệt Tôn giáo, Quốc tịch, Chính đảng, ngày 10/05/2015 tại Đài Bắc Quốc tế Phật Quang hội tổ chức thiên Tăng, vạn Chúng Khánh chúc Phật đản, nhất tâm Thập nguyện báo Mẫu ân,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant