Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một nén tâm hương, lạm bàn chuyện “Ngày xuân - đi chùa - lễ Phật - dâng hương"

01 Tháng Hai 201508:51(Xem: 14843)
Một nén tâm hương, lạm bàn chuyện “Ngày xuân - đi chùa - lễ Phật - dâng hương"

Một nén tâm hương, lạm bàn chuyện
“Ngày xuân - đi chùa - lễ Phật - dâng hương"



Thap nhangTrầm hương đốt xông ngát mười phương…

Mùa hè tôi về thăm quê, nhân tiện ghé Viện Phật Học Vạn Hạnh để thăm và đảnh lễ Cố Đại Lão Hòa Thượng Minh Châu. Sau khi vào Tổ Đường Hòa Thượng Chơn Nguyên thắp hai cây hương và trao cho tôi. Hai cây hương rất lạ, dài gần gấp tư cở thường mua ở chợ bây giờ và tỏa mùi thơm ngào ngạt. Tôi vốn đã bị bệnh dị ứng nhiều năm nay, thường ngửi mùi hương là phải hách xì liên miên. Ở nhà, ngay cả những hộp hương thơm có người mang từ Nhật về biếu hay mua tại các cửa hàng bên Mỹ, loại hương cây ít khói, đựng trong hộp và không có que bên trong; thế mà khi thắp lên trong phòng lúc ngồi thiền, chỉ chừng hai phút sau khi khói hương tỏa quyện là tôi bắt đầu hắt hơi, nước mắt nước mũi chảy ra và phải đi ra ngoài. Dĩ nhiên không vì thế mà thôi bỏ thiền, thường tôi chỉ thắp một ngọn đèn cầy rất nhỏ, loại người Đức dùng để giữ nóng bình trà (Teelicht) đựng trong một chân đèn thủy tinh xinh xắn để cúng Phật. Đó là phương tiện để tôi "giao duyên“ với chư Phật chư Tổ khi ngồi thiền hay tụng kinh.

Quay lại chuyện hai cây hương ở Vạn Hạnh hôm ấy. Dù cầm trên tay hai cây hương to tướng, dễ chừng bằng gấp mười cây hương trong hộp ở nhà tôi, nhưng lạ thay tôi có cảm giác rất dễ chịu. Sau khi cắm một cây lên bát hương trên bàn thờcung kính lạy tôn tượng Ôn, Hòa Thượng Chơn Nguyên lại đưa tôi cây hương kia và hướng dẫn tôi đi đảnh lễ Tháp, cách đó chừng ba mươi mét. Cầm cây hương trên tay và thỉnh thoảng khói hương bay vào mặt vào mũi nhưng không thấy khó chịu. Sau đó hỏi lại tôi mới biết được đây là những cây hương trầm được làm tại Huế, không pha trộn bất cứ một loại hóa chất nào. Loại hương này ngày xưa lúc còn ở Việt Nam tôi thường quen thuộc lắm.

 

Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương,

Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.

(hay chữ Hán-Việt: Nguyện thử diệu hương vân,

biến mãn thập phương giới, cúng dường nhất thế Phật …)

Những bài niêm hương tán Phật ấy ai đi Chùa mà chưa từng có lần đã nghe, chưa từng quỳ cung kính chắp tay dõng tai theo tiếng khấn nguyện trầm ấm của vị chủ lễ (có khi là một vị tu sĩ hay cũng có khi là một cư sĩ) mắt đang lim dim với ba nén hương cung kính trên tay. Nghi thức tụng niệm thiền môn quy ước một trật tự thật tuyệt vời: người chủ lễ niêm hương, duyệt chúng khỏ mõ, duy na đánh chuông, đại chúng chỉ chắp hai tay và tụng theo. Ấy là lễ, ấy là nhạc.

Từ thời nào hương (hay nhang) vẫn là cái gạch nối giữa những lời khấn nguyện của chúng sanh với chư Phật, với chư Tổ, chư hiền Thánh Tăng, với thần linh và những đấng khuất mặt khuất mày, với những người thân đã qua đời. Người xưa cung kính gọi nó là nén tâm hương. Hương làm bằng một ít mạt cưa xay nhuyển, pha trộn với bột xay từ trầm và quế nên rất thơm, sau này người ta có sáng kiến xay những loại trái và vỏ cây khác hoàn tàn thiên nhiên để trộn thêm vào tạo thành những mùi khác nhau. Sau khi đã pha trộn với nước cho bột dẽo lại, người ta ngồi một tay cầm cây que hương bằng tre, tay kia cầm một miếng gỗ có tay cầm phía trên và lăn qua lăn lại nhuần nhuyễn để bột hương bám đều vào que tre. Lúc đó họ mới dựng đứng miếng gỗ và xắn đứt bột ở ngay đầu cây que, lại phủ một lớp bột khô bên ngoài rồi đem phơi khô. Một việc làm vô cùng tỉ mỉ và đòi hỏi khéo tay. Thông thường ở quê thì những cụ bà lớn tuổi hay có khi những cháu bé phụ vào, phải sạch sẽ và tinh khiết. Những phụ nữ đang có tháng không phụ được. Nhồi bột hương là việc rất nặng, nhưng phải dùng tay để nhồi chứ không dùng chân đạp, vì như thế thần linh sẽ quở. Thành ra, cây hương trong quá trình thành hình tự nó đã chuyên chở một nỗi niềm cung kính với thần linh, với kẻ khuất mặt khuất mày đang ở bên kia thế giới.

Bây giờ, thời hiện đại, mọi quy trình sản xuất đã khác, thì sản xuất hương cũng bị vạ lây theo. Dĩ nhiên vẫn còn một vài nơi vẫn còn „xe nhang“ theo lối thủ công nghệ quý hóa kia. Nhưng tiếc thay, số hương này quá hiếm, khó tìm mua được ở các của tiệm Á đông. Mua nhân sâm, tổ yến, hay cả vàng bạc kim cương còn dễ hơn. Hương bây giờ người ta sản xuất công nghiệp, khỏi phải làm tay chân. Bột cũng xay (có khi bằng cây nhưng rất thường là những gỗ tạp hay phế phẩm từ gỗ), pha trộn bằng máy. Ác hại thay, để có chút mùi (chứ không phải mùi thơm) người ta pha chế hóa chất vào. Mà hóa chất tạo mùi này là gì? Ai biết được? Trên bao hương không ghi gì để ta có thể truy tìm. Cũng có thể chính các nhà sản xuất cũng không biết được những kiện hóa chất mà họ đặt mua ấy làm bằng các nguyên liệu gì. Thông thường hiện nay, những mùi vị trong kỹ nghệ thực phẩm thường xử dụng chất Gelatine làm từ các bộ phận của động vật, ví dụ như để tạo mùi trái cây cho da-ua (Yoghurt) hay nước giải khát người ta dùng một phần da và mỡ heo, xương bò…. Tôi không rành về hóa học, chỉ có lần xem truyền hình thấy họ phân tích như thế. Ngoài ra cây chân hương cũng được tẩm màu và hóa chất để chống mốc hay con mọt nên rất độc hại nếu đem cắm vào thức ăn hay trái cây trên các mâm cúng.

Kỹ nghệ sản xuất đã thế, người khấn lễ cầu nguyện cũng hùa theo. Có thể do hương kỹ nghệ bây giờ quá rẻ tiền dễ mua nên khi cúng người ta không đốt ba „nén tâm hương“ mà đốt ba bó, mỗi bó chừng ba mươi cây! Họ làm như thần linh ở không ngồi đếm số gốc chân hương mà trả công khấn nguyện! Thêm vào đó, không phải chỉ một người chủ lễmọi người, từ nam đến nữ, từ người già đến em bé, ai cũng hai, ba bó… Ấy là một tai họa, ấy là đại nạn!

 
di_chua_2

Tai họa gì, đại nạn gì?

Tạp Chí Khoa Học Châu Á (Asian Scientist) đăng tải vào ngày 20.08.2014 bản công bố về kết quả một công trình của đoàn nghiên cứu thuộc Đại Học Y Khoa Duke-NUS tại Singapore do Giáo sư  Koh Woon-Puay cầm đầu. Nhóm nghiên cứu đã theo dõi khảo sát 63.257 người Hoa sống tại Syngapore trong lứa tuổi từ 45 đến 74 thường xử dụng hương mỗi ngày và đã thu thập dữ kiện về những đối tượng này trong suốt 20 năm. Kết quả cho thấy là những bệnh nhân này dễ bị các chứng bệnh ung thư về đường hô hấp và tim mạch, dễ bị các biến chứng đột quỵ (Schlaganfall). Ngoại trừ một số trường hợp người chết mà không khai báo (việc ấy rất thường ở Á Châu), con số chính thức ghi nhận là  12% chết vì đột quỵ, 8% chết vì bệnh tim. (1)

Đó là chuyện bên châu Á. Còn Âu châu thì sao?

Tờ báo Khoa Học Thời Sự (Wissenschaft Aktuell) viết là: khói hương có thể gây nên bệnh ung thư. Báo Sueddeutsche, ngày 22.05.2010 trích dẫn nhiều tài liệu và xác quyết rằng, trong hương có chất Benzol gây nên ung thư và chất Formaldehyd làm hại mắt và đường hô hấp. Như đã thưa ở trên, tôi không rành lắm về những công trình nghiên cứu y khoa hay sinh hóa. Tôi chỉ đọc thấy thế và ghi ra đây, may có vị nào chuyên môn trong lãnh vực này thì bổ sung giúp thêm.

Đề tài Hạt bụi vi tế (hay hạt bụi mịn - Đức: Feinstaub - Anh: fine particles) là một đề tài thảo luận rất nhiều ở Đức trong gần suốt mười lăm năm qua. Cơ quan Bảo Vệ Môi Trường (Umwelt Bundesamt) của Chính quyền Liên bang Đức đã quy định giới hạn cho hạt bụi vi tế, chủ yếu cho ngành giao thông như sau: Giới hạn là 50 µg/m3 trong một ngày và không được vượt quá 35 ngày trong một năm. Số bình quân cho suốt năm là 40 µg/m3. Từ tháng 1/2015 đến 2020 phải cố gắng đạt đến 20 µg/m3. Thông thường bụi này tạo ra từ động cơ xe hơi (nhất là xe chạy Diesel) và bộ phận thắng xe cũng như bánh xe là nhiều nhất. Sau đó mới kể đến các hệ thống lò sưởi cũng như một số máy móc trong nông nghiệp. Nhiều nghiên cứu trong năm 2003 cũng đã xác định rằng, những hạt bụi vi tế nhỏ dưới 10 µm (Mikrometer)  gây ra nhiều căn bệnh. Ở đây ta cần lưu ýso sánh thêm: Chính quyền Đức quy định giới hạn cho phép của bụi vi tế ở theo quy định ở Âu Châu là 50 µg/m3, đó là những bụi vi tế nói chung trong một mét khối không khí. Trong phòng thí nghiệm người ta đo được số lượng bụi khi thắp hương lên đến gấp ba lần giới hạn được cho phép ấy, và đây là những hạt bụi có chứa mùi hóa chất. Hạt bụi vi tế có thể gây ra các căn bệnh suyển, bệnh đường phổi và khí quản, bệnh dị ứng cũng như bệnh tim.

Không những chính quyền và giới truyền thông cảnh báo mà chính các Tổ chức Bác sĩ Y khoa ở Đức cũng đã lên tiếng. Xin trích dịch sau đây bài đăng trên tạp chí  "Bác Sĩ Nội Khoa Trên Mạng“ của Hiệp Hội Bác Sĩ Nội Khoa Đức Quốc (BDI - Bundesverband Deutscher Internisten e.V.).

Hương có thể gây ung thư.

Hương có thể gây hại đường hô hấp và có thể gây ra ung thư. Đặc biệt khói hương có thể tạo nên những thoái hóa cho các tế bào biểu mô (Epithelzellen) ở vào phần bên trên của đường hô hấp (tức khí quản). Hiệp Hội các Bác Sĩ  Nội khoa yêu cầu phải cảnh báo điều này cho những người đốt hương.

Dựa theo một công bố mới của một công trình nghiên cứu thì các khói hương, khói đèn… có thể tạo nguy cơ ung thư cho phần bên trên đường hô hấp (trích dẫn từ Cancer 2008, doi:10.1002/cncr.23788). Ngoài ra còn có nguy cơ về ung thư phổi nữa.  Theo các khám nghiệm thì nguy cơ xuất phát từ việc hít thở các khói và khói ấy bám vào các vách của bộ phận hô hấp. Hậu quả này tìm thấy ở những người thường xuyên và ở lâu trong những căn phòng có đốt hương, thường được gọi là ung thư tế bào biểu mô (Plattenepithelkarzinome). Khói hương có chứa chất gây ra bệnh ung thư.

Giáo sư Reiner Hartenstein của BDI cảnh báo: „Những công trình nghiên cứu này xác nhận rằng, những sản phẩm tạo khói từ Á đông có tác dụng tạo ra bệnh ung thư. Tương tự như người hút thuốc gián tiếp phải hít những khói thuốc trong vùng không khí chung quanh mình“. Khói có chứa nhiều chất gây ung thư, tuy nhiên tới thời điểm bây giờ người ta vẫn chưa liệt kê chính xác sản phẩm gây khói nào là sản phẩm gây hại sức khỏe.

Hương đốt từ Á Châu dần dần đã trở nên rất phổ biến ở Đức. Giáo sư Hartenstein còn nhấn mạnh thêm rằng: “Nếu bạn thỉnh thoảng chỉ đốt một nén hương thì điều này không đáng lo ngại lắm. Những người đốt hương liên tục ở nhà hay những người dùng những sản phẩm châu Á tạo khói trong khi làm việc, thì phải xem đây là nguồn  tạo ra nguy cơ bệnh ung thư. Cho đến nay trên bao bì những sản phẩm này vẫn chưa hề thấy ghi một lời cảnh báo là có thể tạo nên bệnh ung thư. Những nhà sản xuất phải có nghĩa vụ ghi ra đó cho người tiêu dùng biết, giống như trường hợp bao thuốc lá vậy.

 

Vậy bây giờ phải làm sao?

Bài học ta rút ra được về vấn nạn giao thông ở Đức là gì? Do phương tiện sinh sống, vận chuyển, người ta vẫn phải cứ xử dụng lò sưởi, vẫn phải lái xe hơi đi lại (xe diesel phải đặt bộ phận lọc bụi vi tế  gọi là partikelfilter) dù biết rằng những phương tiện này tạo ra bụi vi tế, nhưng phải biết những hạn chế, không vượt quá những giới hạn cho phép. Phật Tử chúng ta đi Chùa cũng nên như thế. Khi cúng lễ ta cũng có nhu cầu đốt hương để khấn vái cầu nguyện nhưng cũng nên biết đủ. Trong lãnh vực giao thông công cộng, nếu ta không tuân thủ theo những quy định thì bị phạt tiền hay truy tố ra tòa nên ai cũng sợ. Cửa Phật từ bi, Phật chỉ cười và Thầy cũng không dám nói, chỉ chịu đựng hít thở những khí độc hại ấy rồi yên lặng đi thu nhặt những bó hương khổng lồ để nhúng vào các xô nước tắt đi sau khi người cúng lễ rời khỏi chánh điện. Hết xô này lại đến xô khác. Khổ lắm!

Cho đến bây giờ các cơ quan trách nhiệm chưa nói gì đến các hoạt động tâm linh tôn giáo. Nhưng khi trao đổi với một vài vị có trách nhiệm ở nhà thờ Thiên Chúa Giáo, các vị ấy cũng nói rằng, đã có vài tổ chức bảo vệ môi trường và sức khỏe khuyên nhà thờ nên hạn chế việc xông hương (Weihrauch) trong các Thánh lễ. Trong thực tế thì chỉ có Thánh lễ lớn, gọi là lễ kínhlễ trọng họ mới xông hương. Tuy nhiên, số lượng khói tỏa ra trong một dung tích to lớn của các Thánh đường nếu đem so sánh tỉ lệ này với các Chánh điện Chùa của chúng ta vào các dịp Tết thì thật là không đáng kể. Ta thử tưởng tượng,  nếu tự chúng ta không biết hạn chế để bảo vệ môi trường, ngày nào đó chính quyền bắt chúng ta phải đặt các hệ thống lọc bụi vi tế (partikelfilter) tại các lư hương trong Chánh điện Chùa – giống như trong các cơ xưởng – thì còn gì là nét đẹp truyền thống của mình. Việc đáng để ta suy ngẫm lắm thay!

Trong những năm qua vào dịp Tết nguyên đán tôi hay cùng người thân hay lái xe đi một vòng lễ Phật bốn năm Chùa. Ở Việt Nam hay cả tại Mỹ, Úc bà con mình thường đi lễ thập tự. Ở Đức chúng tôi chỉ mong được phân nửa là mừng, là phải lái xe chạy vài ngàn cây số trong hai, ba ngày liền. Đến Chùa nào cũng nghe quý Thầy, Cô than phiền là khói hương nhiều quá, ai cũng bệnh phải thay phiên nhau mỗi người vài giờ lên Chánh điện  để phát lộc Xuân cho Phật tử. Gặp những Chùa ít tu sĩ thì những vị ấy phải chịu trận suốt, rồi sau Tết phải bệnh dài dài. Là Phật Tử, là khách viếng Chùa ta thử nghĩ lại xem. Viếng Chùa lễ Phật là để mong cầu thái bình cho thiên hạ, cầu phước đức cho mình và gia đình. Thái bình đâu không thấy chỉ thấy khói hương mịt mù như khói súng giữa trận mạc, phước đức đâu chưa thấy chỉ thấy mang bệnh tật cho chư tăng ni và mấy Phật Tử phải nhiều ngày công quả ở Chùa. Tội nghiệp lắm! Ấy là chưa nói: ta còn gây bệnh cho chính ta và gia đình ta, ta làm tường chùa ố, tượng Phật nám nữa chứ. Chỉ khi tôi ghé đến Chùa Tây Tạng thì thấy dễ thở hơn, họ chỉ thắp vài ngọn đèn cầy và cúng Phật bằng nhiều chén đựng nước trong thanh khiết là đủ.

Nhưng nói như thế không có nghĩa là ta không đốt hương, không có nghĩa là ta gạt bỏ một truyền thống lâu đời của ta, nhưng …  chỉ nên vừa phải thôi.

 

Thế nào là vừa phải?

Cuối năm 2011 tôi có dịp về quê và thăm Chùa Linh Ứng Bải Bụt nằm ngay trên bờ biển Đà Nẵng. Tình cờ thấy trong sân Chùa có một lư cắm hương bằng xi măng lớn, đường kính khoảng hai mét và đặt  trước các bậc cấp lên chánh điện (chứ chưa phải vào trong chánh điện). Ấy vậy mà dưới đất ngay trước lư hương có một tấm bảng cạc tông khoảng gần hai mét vuông viết sơ sài mấy câu thơ vè độc đáo nên tôi vội lấy máy ảnh ra chụp ngay:


Một nén hương thơm

thấu Cửu trùng

Đâu cần đốt nạm

cắm tứ tung

Tâm thành nhất nguyện

Trên chứng giám

Nên cắm vào Lư chỉ một cây ./.

(Xin cảm ơn)

nemtamhuong-dez2011

Tôi tâm đắc mấy câu ấy lắm.

Xét về mặt văn chương, câu thơ không có gì đặc sắc. Đó là bốn câu thể thất ngôn. Câu thứ nhất nghe rất bác học, câu thứ hai nghe ra có phần dân giả. Câu ba cố gắng nối kết hai câu trên lại, câu thứ tư hơi lạc vận nhưng nói thẳng thừng ngay việc muốn nói! Cuối cùng còn lich sự mở ngoặc ghi thêm: Xin cám ơn. Ấy vậy mà khi tôi chỉ tấm hình này cho một số thân hữu xem thì ai cũng gật gù đắc ý. Cấu trúc bốn câu thơ không văn hoa mà chính là cấu trúc thành thật của một câu ca dao, nghĩ sao nói vậy. Có thể một vị cưcông quả nào đó ở chùa lo việc quét dọn, hằng ngày cứ phải thu dọn hoài những que nhang cắm lung tung nên tức cảnh sanh tình viết ra như vậy chăng? Tôi chắc như thế, ngôn phong ấy là của một người có chất tu, chất từ bi. Ngoài đường phố Việt Nam bây giờ có ai ghi là "nên" đâu mà chỉ ghi là "cấm", nghe rất chướng tai. Ca dao tục ngữ là những câu nói xuất phát từ bình dân, từ những triết lý sống thông thường nhất, chỉ khuyên chứ không ép buộc. Văn chương ca dao không cần văn cú chương mục gì cả, không cần lý luận cao siêu, không cần xếp loại là thơ hay là vè. Người bình dân nghĩ như thế và nói ra như thế, miễn sao suông miệng thì thôi, chỉ mong hợp đạo lý. Tiếng nói của ca dao là tiếng nói của đa số, của những con người mong muốn xã hội, muốn cộng đồng tốt đẹp hơn. Biết đâu được vài mươi năm nữa bốn câu thơ trên không trở thành câu ca dao dạy về cách đốt hương khi đi lễ chùa, được ghi vào sưu tập ca dao Việt Nam. Nếu vậy thì bốn câu thơ ấy mang ý nghĩa gì? Thưa, đó là thông điệp xác định rằng: đa số Phật Tử đi chùa đều thích dâng cúng "một nén hương“ lên chư Phật, còn số người „thắp nạm cắm tứ tung“ chỉ là thiểu số chưa rành những phép tắc trong nhà chùa, và chưa hiểu nhiều về chuyện bảo vệ môi trường. Giờ biết rồi thì xin không nên tiếp tục nữa, làm phiền nhà chùa và khách hành hương khác lắm !

Đến giữa năm 2014 tôi quay lại viếng Chùa lần nữa. Tôi vội cố ý tìm ngay đến lư hương kia để xem có còn câu thơ vè trên không. Tôi ngạc nhiên thấy bản viết bây giờ được viết cẩn thận và nghiêm túc hơn bản phác thảo trước kia. Chắc bây giờ Thầy Trụ trì thấy hay và có hiệu quả nên cho viết thành bảng đàng hoàng hơn. Tôi cũng lại chụp ngay để giữ làm tài liệu:

nemtamhuong-sep2014

nemtamhuong2-sep2014
Ngay phía bên phải cạnh lư hương và tấm bảng trên còn có một câu giảng giải thêm

 

Ngay phía bên phải của bảng vẽ bằng sơn, có chân đứng hẵn hòi còn có một bảng trang trọng khác ghi bốn câu thơ:

Lên Chùa đốt một nén hương

Thành tâm lễ Phật mười phương hộ trì

Thắp nhiều vô ích làm chi

Khói đen ám tượng vậy thì phước đâu!


Tôi chợt thấm ý câu thơ. Ngoài sân chùa thoáng khí, chỗ lư hương này đâu thấy có tượng Phật nào đâu mà lại lo khói đen ám (hay nám?) tượng. Vậy thì tượng đó chính là tượng Phật trong tâm của ta. Ta thắp nhiều hương làm khói ra nhiều quá, Phật trong tâm ta cũng bị ám, bị mờ đi. Mình dâng hương cầu nguyện để cho tâm sáng ra chứ ai muốn mờ đi đâu, phải vậy không?

 

Lời kết

Truyền thống đốt hương cúng Phật, cúng vái thần linh hay ông bà cha mẹ đã có từ bao nhiêu đời, đã thấm vào tận xương tủy người Việt mình. Nhưng sự việc cầm cả hai ba bó hương mà lâm râm van vái xin trúng áp phe thì hơi xa với truyền thống, không thấy ghi trong nghi thức kinh kệ nào cả, xem ra giống như đang mặc cả gì đó với Phật, Tổ và Thần linh.

Ta lại cũng không thể chỉ cầm ngọn đèn trong tay như người Phật tử Tây Tạng mà xướng rằng: Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương … trong khi tay ta chẳng cầm cây hương nào cả. Nếu muốn thế thì phải xin Giáo Hội đổi lời câu kệ là: Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo ngọn tâm đăng (nghe sao lạ tai quá!). Hoặc là ở nhà lúc niêm hương ta chỉ cung kính chắp tay và xướng: Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo nén tâm hương thay vì mây hương - nhưng chuyện này là chuyện ngoài thẩm quyền cá nhân.

Nhưng suy nghĩ cho cùng, đây chỉ là câu hỏi vụng về của chúng ta, những Phật tử người chưa hiểu đạo rốt ráo. Các bậc cao tăng tu chứng có khi chỉ cần một ly nước lạnh, hay một ngọn đèn, hoặc có khi một cành hoa, một ngọn cỏ, cành tre… họ cũng có thể dâng cúng chư Phật chư Bồ Tát với cả lòng thành, họ vẫn có thể có những cách cảm ứng với những bậc linh thiêng mà không đòi hỏi nhiều phương tiện vật chất như người phàm phu chúng ta.

Thật thiên nan vạn nan, vậy biết làm sao đây?

May quá, tôi có cách - tôi có túi gấm mang theo, gặp khi cùng đường thì mở túi gấm ra.

Tôi gặp ngay bốn câu thơ tuyệt vời này của tác giả Sông Thu trong tập thơ Hạt Cát Mịn (chứ không phải hạt bụi mịn). Nhà thơ Sông Thu làm thơ dễ dàng như giảng Pháp, viết Pháp đơn giản đọc như kể chuyện(3), tu hành  ở trình độ bậc Thầy, bước đi tự tại trong giáo lý nhiệm mầu nhẹ ngàng như ta đi dạo mát. Vị ấy gần 60 năm tu tập hành đạo trong chốn thiền môn, công phu vào hàng đại tăng, chính là Hòa thượng Thích Bảo Lạc ở Úc. Bốn câu thơ ấy như sau:

 

 […]

Chư Bồ Tát rộng độ sanh chứng đạt

Pháp không môn ngào ngạt khắp mười phương

Không cõi nào chẳng quyện tỏa ngát hương

Nguyện dẫn dắt soi đường cho vạn loại.

(Sông Thu - Trầm Hương / Hạt Cát Mịn, tr.92, Úc, Pháp Bảo, 2014)

 

Bạn nghe ra đấy chứ! Sao vẫn cứ còn thắc mắc loanh quanh chuyện một nén (hay một bó) hương? Pháp không môn ngào ngạt khắp mười phương, Không cõi nào chẳng quyện tỏa ngát hương…

Trí tuệ lớn mới nhìn thấy được như thế.

Nếu chẳng may mình còn vô minh, vẫn không hay chưa thấy được vậy, thì chỉ nên dâng một nén hương thôi (hay nhiều nhất là ba), bạn nhé!

 

Nghinh Xuân Ất Mùi

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

www.vancong.com

 

---

Chú thích:

(1)       Bản tiếng Anh: http://www.asianscientist.com/2014/08/health/incense-linked-cardiovascular-disease-2014/).

(2)       Trích dịch từ: http://www.internisten-im-netz.de/de_news_6_0_424_r-ucherst-bchen-k-nnen-krebs-ausl-sen.html)

(3)       Tác phẩm: Kiến thức Căn Bản Phật Giáo của Hòa Thượng Thích Bảo Lạc viết năm 1981 là cuốn sách tra khảo về giáo lý căn bản Phật Giáo tôi vẫn xử dụng thường xuyên mấy chục năm nay. Có thể xem online ở đây: http://quangduc.com/a34053/kien-thuc-can-ban-phat-giao

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11559)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13559)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14128)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10313)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10791)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11340)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11286)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11443)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10178)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10718)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42233)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10494)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11866)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10024)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10467)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10640)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45792)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32131)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11338)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10708)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11335)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10638)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13462)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12383)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11047)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10628)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12332)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11177)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11852)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29290)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9221)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10555)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10247)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10600)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10912)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10812)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32163)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27411)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17814)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11883)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12293)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10448)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11704)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10439)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10795)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28096)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10292)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10659)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10775)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11236)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10404)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10697)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11481)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18272)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10530)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12859)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11757)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29210)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28614)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28312)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13333)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22791)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13449)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11584)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13832)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26092)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22326)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14493)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11816)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11694)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11497)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31859)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12045)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39644)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22511)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11966)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14248)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13353)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14310)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12077)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10416)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11239)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13331)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34546)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12636)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12238)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13536)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12631)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12990)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16312)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11761)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28444)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 13433)
Phật là hoa sen, hoa sen là Phật. Khi Ngài sinh ra bước đi trên bảy đóa hoa senhình ảnh biểu đạt con đường đi đến thăng chứng qua bảy giai trình tu tập...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant