Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê

19 Tháng Hai 201514:13(Xem: 11259)
Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê
GIAO THỪA ẤT MÙI KHAI BÚT CHUYỆN CON DÊ

Thích Giác Nguyên

chuyện con dêDê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà. Do đó, dê có rất nhiều giai thoạitruyền thuyết. Trong 12 con giáp thì Dê là hàng địa chi thứ tám gọi là Mùi . Đặc biệt, trong văn học dân gian, hình ảnh con dê rất dễ thương, chúng sống khá đơn giản, chỉ cần cỏ non và lá xanh là có thể sống mãn nguyện, nhưng chúng không bao giờ được yên thân.

Dê rừng, dê núi cũng là đối tượng cho nhiều loài săn bắt. Khi dê được thuần chủng trở thành gia súc cho con người sử dụng hơn ba ngàn năm qua thì nó bị bốc lột sự sống không thương tiếc. Da thịt lông sừng không chừa bỏ. Nó lại là món ăn thích khẩu của con người. Dê cái khi sanh con bị vắt cạn sữa cho người tiêu thụ nên không đủ cho con bú làm khổ nhọc thân mình.

Con Dê trong văn học

Đặc biệt loài dê có thiên tính nhớ ơn mẹ còn tấm bé, khi dê con bú vú mẹ, nó liền lùi ra phía sau và quỳ hai chân trước xuống. Bởi vậy trong Tăng Quảng Hiền Văn, một tác phẩm giáo dục trẻ em từ đời nhà Minh đã nói:

羊 有 跪 乳 之 恩 , 鴉 有 反 哺 之 義 ,

Dương hữu qụy nhũ chi ân, Nha hữu phản bộ chi nghĩa,

你 及 他 未 及 ?

Nễ cập tha vị cập?

Con dê vì biết ơn của mẹ nên quỳ xuống mà bú. Con quạ có cái nghĩa là khi cha mẹ già thì nó đi kiếm mồi mớm cho cha mẹ ăn.

Ngoài ra, hai câu chót của bài Sấm Trạng Trình là:

Mã đề Dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến Thái bình!

Ẩn nghĩa hai câu này là:

 Con ngựa nó đá con dê, anh hùng tận mạt bốn bề lao đao

Thân Dậu năm tới xáo xào, Thái bình biển động sóng gào phong ba.

Nhưng không biết vào thời gian nào đích thực xảy ra trước cuộc cờ thế giới Á châu.

Dê cũng là hình thức châm biếm những kẻ cúi luồn nịnh nọt ngoại bang để cầu chút hư vinh:

Tài giỏi sá gì thân khuyển mã

Thà rằng ngồi tót vuốt râu dê.

Hoặc treo đầu dê bán thịt chó, ý nói là một chuyện, còn làm là chuyện khác. Không phải chỉ lừa miếng ăn mà nó lừa ta vào cõi u mê ám chướng mà ta không hay, bởi do nhẹ dạ cả tin mà ra vậy.

Trong tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng có câu:

Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Con Dê trong sử sách:

Sau khi diệt Ngô và Thục, Tư Mã Ý lên ngôi, lập nên nhà Tấn. Truyền đến đời cháu nội là Tấn Võ Đế tên thật là Tư Mã Viêm (236-290), ở ngôi 35 năm. Võ Đế là ông vua hoang dâm khi vừa lên ngôi, ông bèn ra lệnh cho dân gian ngưng ngay việc cưới hỏi, rồi sai hoạn quan đến từng địa phương để tuyển gái đẹp đem về hậu cung lên đến 5 ngàn người. Vua tỏ ra vui mừng đến bối rối, không biết phải hưởng dụng như thế nào? May có một cận thần đưa ý kiến: Sắm cho vua một cỗ xe dê, vua nên ngồi trên xe do 2 con dê đực kéo đi vòng quanh hậu cung, hễ xe dê ngừng ở cửa cung nhân nào thì tối hôm đó vua sẽ ngự đến ăn tối và ở đêm lại với cung nhân đó. Nhà vua cho là ý kiến hay liền nghe theo, báo hại các cung nhân phải nhờ người tìm hái lá dâu rắc trước lối vào cửa nơi mình ở để mong rằng xe dê sẽ ngừng lại, vì dê thích ăn lá dâu.

Vào thời Tam Quốc, khi Tào Tháo đuổi bắt Tả Từ. Cùng đường, Tả Từ liền chạy thẳng vào đàn dê, rồi dùng phép thuật biến mình thành dê. Khi phụ tá của Tào Tháo cho kiểm lại số dê thấy thừa một con, biết có Tả Từ trong đó, liền bảo: "Tả từ cứ đầu hàng, ta không giết đâu mà sợ !" Bỗng một con dê trong đàn bước ra gật đầu, quỳ lạy. Phụ tá Tào Tháo xông vào định bắt sống, tức thời cả đàn dê liền quỳ xuống, khiến tên quan không phân biệt được con dê nào là hoá thân của Tả Từ nữa! Câu chuyện kết luận: Loài dê có đức độ hơn người, không phản trắc, không tố giác bạn bè". Sách nhà Hán còn kể chuyện Lý Thức mặc áo dài, đi giày cỏ, chăn dê hàng năm trời ở Thượng Lâm để lập chí.

Ngoài ra câu chuyệnca ngợi đức trung kiên của Tô Vũ. Khi bị giặc Hung nô đày ra Bắc Hải chăn một đàn dê đực, Hẹn khi nào dê đẻ thì cho về. Tô Vũ vẫn giữ tiết nghĩa của nhà Hán, thường hái lá rau, kiếm dế, bắt chuột nướng ăn để sống qua ngày, không hề nản lòng thoái chí.

Con dê trong Thánh kinh Thiên chúa giáo

Thánh kinh Cựu Ước Chúa phán như sau: “Nếu một đầu mục, một vị linh hướng trong giáo dân vô ý phạm đến các giới răn của Chúa một cách công khai, được người khác biết đến. Người đầu mục đó phải tiến một con dê đực còn non chưa nhảy cái dâng lên cho Chúa để làm lễ tạ tội. Con dê sẽ bị giết và vị tư tế dùng tay bôi máu con vật lên các góc của bàn thờ, số máu còn lại thì đổ xuống chân bàn thờ (Lv 4:22-26). Luật lệ này cũng được áp dụng lên toàn thể cộng đồng Do thái nếu họ vô ý không giữ mệnh lệnh của Chúa, thông qua luật Mô-sê. Khi toàn thể cộng đồng vô ý phạm phải một luật định của Mô-sê, thì toàn thể cộng đồng phải dâng một số con vật như đã kể ở trên, kể cả một con dê đực để làm lễ xá tội (Lv 9:15-17 & Ds 15:22-26). Nhưng ngược lại, nếu một thường dân vô ý vi phạm luật Mô-sê công khai, được người khác biết, thì người ấy sẽ tiến dâng một con dê cái để làm lễ xá tội (Ds 15:27)”. Công thứcnghi lễ thì cũng như trường hợp kể trên.

Trong ngày lễ này, cộng đồng Do thái đặc biệt tiến dâng hai con dê đực trước bàn thờ Chúa. Vị tư tế sẽ bắt thăm chọn giữa hai con: một thăm chọn một con cho Chúa, thăm còn lại sẽ chọn con dê cho A-da-dên (A-da-dên có nghĩa là scapegoat trong tiếng Anh, dịch là con dê gánh tội). Vị tư tế sẽ giết tế "con dê cho Chúa" làm lễ tạ tội cho toàn dân. Sau khi rảy máu con dê trên một cái nấp xá tội và làm một vài nghi thức thánh hiến bàn thờ, người ta dẫn "con dê cho A-da-dên" còn sống tới. Vị tư tế đặt hai tay lên đầu con dê này, rồi xưng thú trên nó tất cả lỗi lầm của toàn dân. Dĩ nhiên vị tư tế có cả một danh sách các giống tội gớm ghiếc mà cộng đồng hay phạm. Ông trút tất cả những tội lỗi đó lên mình "con dê gánh tội."

Sau khi xưng thú tội cộng đồng xong, vị tư tế sẽ nhờ một người phục dịch dẫn con dê này thả sâu vào sa mạc. Con dê này gánh mọi tội lỗi cộng đồng Do tháiđi lạc lõng trong sa mạc. Thức ăn của dê là cỏ tươi mà giữa một sa mạc khô cằn, không cỏ, không nước, lại có thú dữ ăn thịt như sư tử và chó sói quanh quẩn, thì số phận của "con dê gánh tội" thật là thảm não. Vì phải gánh tội cho cộng đồng mà nó giờ đây phải sống trong đói khátsợ hãi, và cuối cùng nó sẽ chết trong đau đớn, có khi là kiệt sứcđói khát, có khi bị phanh thây bởi một con sư tử hay một đàn sói dữ tợn. Phần người thả dê khi trở về phải làm những việc thanh tẩy để tránh sự uế tạp lây từ con dê đó. Anh ta phải giặt áo và tấm rửa kỷ lưỡng trước khi anh ta trở về với cộng đồng. Phần con dê bị sát tế để tạ tội thì xác của nó được đem ra ngoài trại xa mà đốt đi. Và luật lệ này được lưu truyền mãi trong dân Do thái trong suốt thời Cựu ước (Lv 16:1-34).

Con Dê trong Kinh điển Phật giáo

 

 

Vào thời Đức Phật, sự hiến tế sinh vật của Bà-la-môn giáo cũng rất thịnh hành và công việc tế lễ thượng đế, thần linhđặc quyền của giai cấp Bà la môn. Đức Phật đã tuyên ngôn: “Giới bất sát không khi nào giết; Sát bất nhơn mất biệt tiếng người”. Ngài đã cực lực phản đối những cuộc hiến tế như thế, Ngài cũng chủ xướng học thuyết duyên sinh vô ngã, bác bỏ niềm tin vào một đấng thượng đế quyền năng tối thượng.

Một thời thái tử đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đoàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Sa La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần. Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn và giảng giải cho mọi người nghe rằng : - Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống. Ngài nói tiếp: - Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một. Ngài dạy tiếp: Sau khi giết chết chúng sinh, có người sẽ đầu thai làm thú vật, và có nhiều thú vật sẽ tái sanh làm người. Người và thú lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm thú, vì thế chúng cùng một dây liên lạc như anh em. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình hoặc xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các vị ấy đều thiện thì các vị sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế. Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được. Nhưng dù thiện dù ác, các vị đó cũng không thể tha tội cho ai. Nhân nào thì quả nấy, không ai sửa đổi luật nhơn quả.Tội của người nào thì người ấy phải chịu, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm tai ương họa hoạn cho cuộc sống hôm nay.

Nhờ sự cảm hóa của Phật giáo biết bao người buông đao thành Phật, thành Bồ tát

Thậm chí kẻ hàng thịt cũng đốn ngộ tỉnh thức:

Tạc nhật Dạ-xoa tâm

Kim triêu Bồ tát diện,

Bồ tát dữ Dạ-xoa

Bất cách nhứt điều tuyến

Tạm dịch:

Hôm qua tâm Dạ-xoa,

Ngày nay mặt Bồ tát.

Bồ tát cùng Dạ-xoa

Cách nhau đường tơ tóc
Chính vì vậy, vua Tần Bà Sa La sai khắc trong đá và chạm vào gỗ chỉ dụ: “Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không được ai làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sanh cùng chung một sự sống. Và nên nhớ rằng những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”.

Thời Phật còn tại thế, Kutadanta là một vị Bà La Môn làu thông kinh điển Phệ Đà, có rất nhiều đệ tửtín đồ. Ông được vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) sùng kính và nhà vua đã hiến cúng cho ông ta ngôi làng Khanumata trong nước Ma Kiệt Đà. Ngày nọ, đức Phật đến hóa duyên tại làng này. Lúc ấy, Kutadanta đang chuẩn bị giết các thú vật gồm một số lớn bò đực, bò cái, cừu con và dê để tế thần. Khi hay tin đức Phật ngự ở tại vườn xoài trong làng mình, Kutadanta muốn đến yết kiến để thỉnh vấn Ngài về phương thức tế lễ thế nào cho có hiệu quả tốt.

Các đệ tử của Kutadanta cố gắng khuyên ông đừng đi, nhưng ông đã nói cho họ biết đức Phật là một đấng Giác Ngộ vĩ đại, và sau cùng ông đã thuyết phục được họ cùng đi đến viếng thăm đức Thế tôn. Đức Phật giảng cho Kutadanta và các đồ đệ của ông nghe kinh Kutadanta (thuộc Trường Bộ Kinh) nhằm giải thích cho Kutadanta hiểu rõ lợi ích của đời sống tu hành. Ngài bèn kể một câu chuyện Dê Cứu Thầy Tu như sau:

Thuở xưa, có một bà-la-môn rất nổi tiếng trong tôn giáo Ấn Độ. Ông quyết định đó là ngày thực hiện các nghi lễ hiến tế một con dê. Mà theo ông nghĩ đây là một buổi lễ tế theo yêu cầu đấng thần linh của mình. Ông đã lấy một con dê thích hợp cho việc tế sinh, rồi ra lệnh cho đệ tử của mình đem con dê ra sông Hằng và tắm rửa cho nó sạch sẽ và đeo vào cổ nó một vòng hoa. Sau đó, họ cũng tắm rửa như là một phần của việc thực hành tịnh hóa.

Khi xuống ở bên bờ sông, dê đột nhiên hiểu rằng hôm nay mình chắc chắn sẽ bị giết và đây là lần trả nghiệp cuối cùng rồi sẽ được tái sinh. Nó biết được các kết quả của những hành động bất thiện trong quá khứ của nó tạo ra được trả quả dứt điểm trong đời sống kiếp dê cuối cùng này. Vì vậy, nó cười vang một cách náo nhiệt.

Ở giữa tiếng cười của nó, nó nhận ra một sự thật khác - đó là vị đạo sĩ đã thực hiện cuộc hiến tế bằng giết nó, để rồi người đạo sĩ ấy  sẽ phải chịu những hậu quả kinh khủng do sự thiếu hiểu biết của mình. Vì vậy, dê bắt đầu khóc to như là vừa cười!

Các người đệ tử tắm trong giòng sông Hằng rất lấy làm ngạc nhiên khi đầu tiên nghe tiếng dê cười và bây giờ lại khóc. Vì vậy họ hỏi con dê: "Tại sao khi nảy ngươi lớn tiếng cười vang rồi bây giờ lại đổi sang tiếng khóc thảm thiết?” Dê liền trả lời: "Tôi sẽ cho bạn biết lý do nhưng phải có mặt ông thầy của bạn, đạo sĩ Bà-la-môn mới được."

Vì họ muốn biết sự thật, ngay lập tức đẫn con dê tế thần đến cho vị đạo sĩ bà-la-môn. Họ giải thích tất cả những gì việc con dê đã làm. Đạo sĩ cũng trở nên rất tò mò. Ông trân trọng hỏi dê: "Tại sao ngươi cười đã rồi lại lớn tiếng khóc?"

Con dê nhớ lại cuộc sống quá khứ của mình, nó nói: "Thuở xưa, tôi cũng là một tu sĩ Bà-la-môn, giống như bạn, được đào tạo trở thành một hành giả thực hiện các nghi thức hiến tế tôn giáo thiêng liêng. Tôi tự nghĩ ra rằng là nên phải hy sinh một số dê theo sự mặc khải cần thiết của thần, sẽ mang lại  lợi ích cho người khác, cũng như bản thân mình trong sự tái sinh ở tương lai. Tuy nhiên, kết quả thực sự của hành động của tôi là số dê bị tôi giết lên đến 500 con. Do đó tôi phải chịu trả quả báo trong 499 kiếp sống bị chặt đầu. Lần này tôi nhận ra rằng hôm nay tôi chắc chắn sẽ bị mất đầu của tôi lần thứ 500. Như vậy tôi đã hoàn tất cuộc trả quả báo do những hành động bất thiện của tôi từ bao đời trước. Niềm vui này làm cho tôi cười thoải mái không thể dừng được. Sau đó, tôi chợt nhận ra rằng  bạn là người đạo sĩ cũng giống như tôi trước đây, đã có những hành động sát sanh bất thiện và sẽ phải chịu một quả báo tương tự bị chém đầu như tôi trong 500 kiếp sau của bạn! Vì vậy, lòng từ bi và cảm thông, tiếng cười mãn nguyện của tôi quay lại là những giọt nước mắt thảm thiết để khóc cho bạn. "

Đạo sĩ Bà-la-môn nghe qua liền rún sợ cho là lời nói của dê có thể đúng sự thật, ông ta bèn bảo, "Vâng, này ông dê, ta sẽ không giết ông nữa." Dê trả lời, "Thưa đạo sĩ, dù bạn không giết tôi, tôi biết rằng hôm nay tôi cũng sẽ bị mất đầu vì lý do khác, để hoàn tất sự trả quả cuối cùng qua những hành động bất thiện trong quá khứ của tôi."

Đạo sĩ nói, "Đừng sợ, Tôi sẽ tìm mọi cách bảo vệ tốt nhất không cho sự xâm hại nào sẽ đến với bạn."  Dê đáp, "Ô này ông bạn Đạo sĩ , dù bạn có bảo vệ cho tôi bằng cách nào đi nữa, hay dẫu tôi có chạy trốn bất cứ nơi đâu cũng không thoát khỏi nghiệp báo của mình.

Vì vậy, Đạo sĩ Bà-la-môn hủy lễ tế sinh và bắt đầu từ bỏ việc giết các động vật vô tội để hiến tế thần linh. Ông ra lệnh cho những đệ tử của mình chú tâm bảo vệ con dê mà ông vừa tha tội chết. Con dê được thả ra và tung tăng chạy lên sườn núi có nhiều đá để gặm một số lá non trên cành, nó trườn cổ của mình để tiếp cận cắn bứt. Thình lình mây đen u ám kéo đến và một tia sét kinh hoàng đánh trúng một tảng đá trên sườn núi, cắt một phiến đá sắc nét, văng chém ngay vào đầu chú dê khiến chết ngay lập tức. Sau đó mây tan và dông tố cũng qua đi.  Ôi, lưới trời cao lồng lộng tuy thưa nhưng khó lọt!

Ngày xưa Thái tử Tất Đạt Đa trên đường tầm đạo, ngài đã trải qua sáu năm quá ư khổ hạnh, thân thể ốm gầy còn da bọc xương, sức cùng lực tậm, Một hôm ngài lần bước xuống bờ sông để tắm gội nhưng giữa đường Ngài ngã xuống đất bất tỉnh. Khi ấy  có một cô gái chăn dê tên là Su- dà-ta (Sujàta) thấy thế liền mang bịch sữa dê  nấu thành đề hồ đổ vào miệng Ngài. Sau khi sữa thắm vào cổ họng, Ngài dần dần hồi phục được sức khỏe nhận ra ép xác là sự sai lầm, bèn nỗ lực tham thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm, cuối cùng khi sao mai vừa mọc thì hốt nhiên đại ngộ. Ngài  chứng được Tam minh thành tựu Chánh đẳng Chánh giác hiệu là Phật Thích ca Mâu ni. Ngài giảng thuyết Kinh Pháp Hoa, đưa ra thí dụ Giáo lý của ngài có ba trình độ, như có ba cỗ xe. Xe trâu tượng trưngĐại thừa chở được nhiều người. Xe hưu là Trung thừa chở vài ba người. Xe dê là tiểu thừa chỉ chở được một người tùy sở thích của mỗi chúng sanh.

Tóm lại, nhân loại của thế kỷ 21 này, đã hấp thụ một nền văn minh khoa học khá cao, con người đã phóng phi thuyền lên không gian, lên mặt trăng và dự kiến di cư lên sao hỏa, vậy mà tại thế gian này vẫn còn bao điều ngốc nghếch vô minh, vẫn còn duy trì những hành động dã man như cảnh chém lợn, chặt hàng ngàn đầu con trâu gọi là Lễ hội.

Nói đến Lễ là phải tôn nghiêm, tôn kính, thanh cao, đẹp đẽ minh triết, đậm nét nhân văn, thắm đượm tình người, hiếu sinh hơn là hiếu sát, đáng để đời sau noi gương học hỏi, chứ không phải cuồng sát trước cái chết vô tội vạ đáng được yêu thương tha thứ. Thử đặt mình vào cảnh ấy sẽ ra sao? Một chiếc gai đâm vào người, một viên sõi trong chiếc giày, một hạt bụi rơi vào mắt cũng đủ cho ta xốn xang đau buốt. Huống chi kẻ khủng bố ra tay hạ thủ lấy đi bao mạng sống không có tấc sắt trong tay và họ cũng không có khởi lòng thù hận. Như vậy có còn nhân tính chăng? Ôi chao! Thế giới này sẽ an vui biết mấy, nếu mọi người biết dừng tay nghĩ lại thì những cảnh thảm khốc manh động sẽ không còn nữa. Nếu nhân loại biết thương yêu đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng tế và ăn thịt. Nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với rau củ hoa trái thì cõi nhân hoàng này sẽ là thiên đường tại thế, anh em bốn biển một nhà, vạn loại chúng sanh đại đồng một thể. Mong thay!

Soạn viết xong 3 giờ sáng đêm Giao thừa

California, Xuân Ất Mùi 2015

Thích Giác Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10412)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9692)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23616)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11853)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10735)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10080)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28694)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21630)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29421)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11395)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12370)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26340)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31039)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25344)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22819)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13055)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21950)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12232)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14145)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12461)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11246)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10695)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38069)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13674)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13470)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12354)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12591)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12059)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10728)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11218)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23364)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33207)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12802)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7397)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12191)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12622)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12051)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12873)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11945)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10705)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11376)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11670)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10874)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10809)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10377)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10493)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10714)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10635)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11918)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10700)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12740)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10810)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11392)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11095)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11638)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10517)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11265)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12308)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11171)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12490)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11428)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11515)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11302)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11592)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12999)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14179)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11016)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11876)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13176)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11582)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11437)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10937)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11292)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10820)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11063)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10896)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10267)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17112)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11014)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10868)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10411)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10762)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11387)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11085)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10579)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11382)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10355)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10656)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12771)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19276)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19708)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21292)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20340)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19769)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19053)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20496)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21097)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17932)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21854)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
(Xem: 11392)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant