Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê

19 Tháng Hai 201514:13(Xem: 11258)
Giao thừa Ất Mùi khai bút chuyện con dê
GIAO THỪA ẤT MÙI KHAI BÚT CHUYỆN CON DÊ

Thích Giác Nguyên

chuyện con dêDê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà. Do đó, dê có rất nhiều giai thoạitruyền thuyết. Trong 12 con giáp thì Dê là hàng địa chi thứ tám gọi là Mùi . Đặc biệt, trong văn học dân gian, hình ảnh con dê rất dễ thương, chúng sống khá đơn giản, chỉ cần cỏ non và lá xanh là có thể sống mãn nguyện, nhưng chúng không bao giờ được yên thân.

Dê rừng, dê núi cũng là đối tượng cho nhiều loài săn bắt. Khi dê được thuần chủng trở thành gia súc cho con người sử dụng hơn ba ngàn năm qua thì nó bị bốc lột sự sống không thương tiếc. Da thịt lông sừng không chừa bỏ. Nó lại là món ăn thích khẩu của con người. Dê cái khi sanh con bị vắt cạn sữa cho người tiêu thụ nên không đủ cho con bú làm khổ nhọc thân mình.

Con Dê trong văn học

Đặc biệt loài dê có thiên tính nhớ ơn mẹ còn tấm bé, khi dê con bú vú mẹ, nó liền lùi ra phía sau và quỳ hai chân trước xuống. Bởi vậy trong Tăng Quảng Hiền Văn, một tác phẩm giáo dục trẻ em từ đời nhà Minh đã nói:

羊 有 跪 乳 之 恩 , 鴉 有 反 哺 之 義 ,

Dương hữu qụy nhũ chi ân, Nha hữu phản bộ chi nghĩa,

你 及 他 未 及 ?

Nễ cập tha vị cập?

Con dê vì biết ơn của mẹ nên quỳ xuống mà bú. Con quạ có cái nghĩa là khi cha mẹ già thì nó đi kiếm mồi mớm cho cha mẹ ăn.

Ngoài ra, hai câu chót của bài Sấm Trạng Trình là:

Mã đề Dương cước anh hùng tận,

Thân Dậu niên lai kiến Thái bình!

Ẩn nghĩa hai câu này là:

 Con ngựa nó đá con dê, anh hùng tận mạt bốn bề lao đao

Thân Dậu năm tới xáo xào, Thái bình biển động sóng gào phong ba.

Nhưng không biết vào thời gian nào đích thực xảy ra trước cuộc cờ thế giới Á châu.

Dê cũng là hình thức châm biếm những kẻ cúi luồn nịnh nọt ngoại bang để cầu chút hư vinh:

Tài giỏi sá gì thân khuyển mã

Thà rằng ngồi tót vuốt râu dê.

Hoặc treo đầu dê bán thịt chó, ý nói là một chuyện, còn làm là chuyện khác. Không phải chỉ lừa miếng ăn mà nó lừa ta vào cõi u mê ám chướng mà ta không hay, bởi do nhẹ dạ cả tin mà ra vậy.

Trong tác phẩm Cung Oán Ngâm Khúc của Ôn Như Hầu Nguyễn Gia Thiều cũng có câu:

Phải duyên hương lửa cùng nhau,
Xe dê lọ rắc lá dâu mới vào.

Con Dê trong sử sách:

Sau khi diệt Ngô và Thục, Tư Mã Ý lên ngôi, lập nên nhà Tấn. Truyền đến đời cháu nội là Tấn Võ Đế tên thật là Tư Mã Viêm (236-290), ở ngôi 35 năm. Võ Đế là ông vua hoang dâm khi vừa lên ngôi, ông bèn ra lệnh cho dân gian ngưng ngay việc cưới hỏi, rồi sai hoạn quan đến từng địa phương để tuyển gái đẹp đem về hậu cung lên đến 5 ngàn người. Vua tỏ ra vui mừng đến bối rối, không biết phải hưởng dụng như thế nào? May có một cận thần đưa ý kiến: Sắm cho vua một cỗ xe dê, vua nên ngồi trên xe do 2 con dê đực kéo đi vòng quanh hậu cung, hễ xe dê ngừng ở cửa cung nhân nào thì tối hôm đó vua sẽ ngự đến ăn tối và ở đêm lại với cung nhân đó. Nhà vua cho là ý kiến hay liền nghe theo, báo hại các cung nhân phải nhờ người tìm hái lá dâu rắc trước lối vào cửa nơi mình ở để mong rằng xe dê sẽ ngừng lại, vì dê thích ăn lá dâu.

Vào thời Tam Quốc, khi Tào Tháo đuổi bắt Tả Từ. Cùng đường, Tả Từ liền chạy thẳng vào đàn dê, rồi dùng phép thuật biến mình thành dê. Khi phụ tá của Tào Tháo cho kiểm lại số dê thấy thừa một con, biết có Tả Từ trong đó, liền bảo: "Tả từ cứ đầu hàng, ta không giết đâu mà sợ !" Bỗng một con dê trong đàn bước ra gật đầu, quỳ lạy. Phụ tá Tào Tháo xông vào định bắt sống, tức thời cả đàn dê liền quỳ xuống, khiến tên quan không phân biệt được con dê nào là hoá thân của Tả Từ nữa! Câu chuyện kết luận: Loài dê có đức độ hơn người, không phản trắc, không tố giác bạn bè". Sách nhà Hán còn kể chuyện Lý Thức mặc áo dài, đi giày cỏ, chăn dê hàng năm trời ở Thượng Lâm để lập chí.

Ngoài ra câu chuyệnca ngợi đức trung kiên của Tô Vũ. Khi bị giặc Hung nô đày ra Bắc Hải chăn một đàn dê đực, Hẹn khi nào dê đẻ thì cho về. Tô Vũ vẫn giữ tiết nghĩa của nhà Hán, thường hái lá rau, kiếm dế, bắt chuột nướng ăn để sống qua ngày, không hề nản lòng thoái chí.

Con dê trong Thánh kinh Thiên chúa giáo

Thánh kinh Cựu Ước Chúa phán như sau: “Nếu một đầu mục, một vị linh hướng trong giáo dân vô ý phạm đến các giới răn của Chúa một cách công khai, được người khác biết đến. Người đầu mục đó phải tiến một con dê đực còn non chưa nhảy cái dâng lên cho Chúa để làm lễ tạ tội. Con dê sẽ bị giết và vị tư tế dùng tay bôi máu con vật lên các góc của bàn thờ, số máu còn lại thì đổ xuống chân bàn thờ (Lv 4:22-26). Luật lệ này cũng được áp dụng lên toàn thể cộng đồng Do thái nếu họ vô ý không giữ mệnh lệnh của Chúa, thông qua luật Mô-sê. Khi toàn thể cộng đồng vô ý phạm phải một luật định của Mô-sê, thì toàn thể cộng đồng phải dâng một số con vật như đã kể ở trên, kể cả một con dê đực để làm lễ xá tội (Lv 9:15-17 & Ds 15:22-26). Nhưng ngược lại, nếu một thường dân vô ý vi phạm luật Mô-sê công khai, được người khác biết, thì người ấy sẽ tiến dâng một con dê cái để làm lễ xá tội (Ds 15:27)”. Công thứcnghi lễ thì cũng như trường hợp kể trên.

Trong ngày lễ này, cộng đồng Do thái đặc biệt tiến dâng hai con dê đực trước bàn thờ Chúa. Vị tư tế sẽ bắt thăm chọn giữa hai con: một thăm chọn một con cho Chúa, thăm còn lại sẽ chọn con dê cho A-da-dên (A-da-dên có nghĩa là scapegoat trong tiếng Anh, dịch là con dê gánh tội). Vị tư tế sẽ giết tế "con dê cho Chúa" làm lễ tạ tội cho toàn dân. Sau khi rảy máu con dê trên một cái nấp xá tội và làm một vài nghi thức thánh hiến bàn thờ, người ta dẫn "con dê cho A-da-dên" còn sống tới. Vị tư tế đặt hai tay lên đầu con dê này, rồi xưng thú trên nó tất cả lỗi lầm của toàn dân. Dĩ nhiên vị tư tế có cả một danh sách các giống tội gớm ghiếc mà cộng đồng hay phạm. Ông trút tất cả những tội lỗi đó lên mình "con dê gánh tội."

Sau khi xưng thú tội cộng đồng xong, vị tư tế sẽ nhờ một người phục dịch dẫn con dê này thả sâu vào sa mạc. Con dê này gánh mọi tội lỗi cộng đồng Do tháiđi lạc lõng trong sa mạc. Thức ăn của dê là cỏ tươi mà giữa một sa mạc khô cằn, không cỏ, không nước, lại có thú dữ ăn thịt như sư tử và chó sói quanh quẩn, thì số phận của "con dê gánh tội" thật là thảm não. Vì phải gánh tội cho cộng đồng mà nó giờ đây phải sống trong đói khátsợ hãi, và cuối cùng nó sẽ chết trong đau đớn, có khi là kiệt sứcđói khát, có khi bị phanh thây bởi một con sư tử hay một đàn sói dữ tợn. Phần người thả dê khi trở về phải làm những việc thanh tẩy để tránh sự uế tạp lây từ con dê đó. Anh ta phải giặt áo và tấm rửa kỷ lưỡng trước khi anh ta trở về với cộng đồng. Phần con dê bị sát tế để tạ tội thì xác của nó được đem ra ngoài trại xa mà đốt đi. Và luật lệ này được lưu truyền mãi trong dân Do thái trong suốt thời Cựu ước (Lv 16:1-34).

Con Dê trong Kinh điển Phật giáo

 

 

Vào thời Đức Phật, sự hiến tế sinh vật của Bà-la-môn giáo cũng rất thịnh hành và công việc tế lễ thượng đế, thần linhđặc quyền của giai cấp Bà la môn. Đức Phật đã tuyên ngôn: “Giới bất sát không khi nào giết; Sát bất nhơn mất biệt tiếng người”. Ngài đã cực lực phản đối những cuộc hiến tế như thế, Ngài cũng chủ xướng học thuyết duyên sinh vô ngã, bác bỏ niềm tin vào một đấng thượng đế quyền năng tối thượng.

Một thời thái tử đi về thành Vương Xá, giữa đường gặp một đoàn cừu bị dắt đưa về thành để vua Tần Bà Sa La làm lễ tế thần. Ngài đi thẳng đến bàn thờ, vừa gặp vua đang làm lễ và các vị giáo sĩ Bà La Môn đang sắp sửa giết một con cừu để cúng các vị hung thần. Thái tử tự thân đến cởi trói cho con vật khỏi nạn và giảng giải cho mọi người nghe rằng : - Ai cũng tham sống, thế mà ai cũng thích giết hại. Ai cũng muốn tạo ra sự sống. Ngài nói tiếp: - Dẫu muôn loài có khác nhau, nhưng sự sống chỉ là một. Ngài dạy tiếp: Sau khi giết chết chúng sinh, có người sẽ đầu thai làm thú vật, và có nhiều thú vật sẽ tái sanh làm người. Người và thú lẫn lộn, lúc làm người, lúc làm thú, vì thế chúng cùng một dây liên lạc như anh em. Không thể lấy máu của thú vật rửa tội cho mình hoặc xin các vị thiên thần tha tội là một việc vô ích. Nếu các vị ấy đều thiện thì các vị sẽ không tha thứ cho một việc làm ác như thế. Nếu các người làm ác, thì dầu có giết bao nhiêu thú vật đi nữa để cúng, các người cũng không hết ác được. Nhưng dù thiện dù ác, các vị đó cũng không thể tha tội cho ai. Nhân nào thì quả nấy, không ai sửa đổi luật nhơn quả.Tội của người nào thì người ấy phải chịu, không ai có thể vượt qua. Càng giết hại nhiều lại càng mang lắm tai ương họa hoạn cho cuộc sống hôm nay.

Nhờ sự cảm hóa của Phật giáo biết bao người buông đao thành Phật, thành Bồ tát

Thậm chí kẻ hàng thịt cũng đốn ngộ tỉnh thức:

Tạc nhật Dạ-xoa tâm

Kim triêu Bồ tát diện,

Bồ tát dữ Dạ-xoa

Bất cách nhứt điều tuyến

Tạm dịch:

Hôm qua tâm Dạ-xoa,

Ngày nay mặt Bồ tát.

Bồ tát cùng Dạ-xoa

Cách nhau đường tơ tóc
Chính vì vậy, vua Tần Bà Sa La sai khắc trong đá và chạm vào gỗ chỉ dụ: “Từ xưa đến nay, chúng ta đã phạm một tội lớn là giết súc vật để tế thần và để ăn thịt. Nhưng bắt đầu từ ngày nay, trong dân gian không được ai làm đổ máu một con vật nào, vì chúng sanh cùng chung một sự sống. Và nên nhớ rằng những điều lành sẽ dành riêng cho những kẻ hiền lương”.

Thời Phật còn tại thế, Kutadanta là một vị Bà La Môn làu thông kinh điển Phệ Đà, có rất nhiều đệ tửtín đồ. Ông được vua Tần Bà Sa La (Bimbisara) sùng kính và nhà vua đã hiến cúng cho ông ta ngôi làng Khanumata trong nước Ma Kiệt Đà. Ngày nọ, đức Phật đến hóa duyên tại làng này. Lúc ấy, Kutadanta đang chuẩn bị giết các thú vật gồm một số lớn bò đực, bò cái, cừu con và dê để tế thần. Khi hay tin đức Phật ngự ở tại vườn xoài trong làng mình, Kutadanta muốn đến yết kiến để thỉnh vấn Ngài về phương thức tế lễ thế nào cho có hiệu quả tốt.

Các đệ tử của Kutadanta cố gắng khuyên ông đừng đi, nhưng ông đã nói cho họ biết đức Phật là một đấng Giác Ngộ vĩ đại, và sau cùng ông đã thuyết phục được họ cùng đi đến viếng thăm đức Thế tôn. Đức Phật giảng cho Kutadanta và các đồ đệ của ông nghe kinh Kutadanta (thuộc Trường Bộ Kinh) nhằm giải thích cho Kutadanta hiểu rõ lợi ích của đời sống tu hành. Ngài bèn kể một câu chuyện Dê Cứu Thầy Tu như sau:

Thuở xưa, có một bà-la-môn rất nổi tiếng trong tôn giáo Ấn Độ. Ông quyết định đó là ngày thực hiện các nghi lễ hiến tế một con dê. Mà theo ông nghĩ đây là một buổi lễ tế theo yêu cầu đấng thần linh của mình. Ông đã lấy một con dê thích hợp cho việc tế sinh, rồi ra lệnh cho đệ tử của mình đem con dê ra sông Hằng và tắm rửa cho nó sạch sẽ và đeo vào cổ nó một vòng hoa. Sau đó, họ cũng tắm rửa như là một phần của việc thực hành tịnh hóa.

Khi xuống ở bên bờ sông, dê đột nhiên hiểu rằng hôm nay mình chắc chắn sẽ bị giết và đây là lần trả nghiệp cuối cùng rồi sẽ được tái sinh. Nó biết được các kết quả của những hành động bất thiện trong quá khứ của nó tạo ra được trả quả dứt điểm trong đời sống kiếp dê cuối cùng này. Vì vậy, nó cười vang một cách náo nhiệt.

Ở giữa tiếng cười của nó, nó nhận ra một sự thật khác - đó là vị đạo sĩ đã thực hiện cuộc hiến tế bằng giết nó, để rồi người đạo sĩ ấy  sẽ phải chịu những hậu quả kinh khủng do sự thiếu hiểu biết của mình. Vì vậy, dê bắt đầu khóc to như là vừa cười!

Các người đệ tử tắm trong giòng sông Hằng rất lấy làm ngạc nhiên khi đầu tiên nghe tiếng dê cười và bây giờ lại khóc. Vì vậy họ hỏi con dê: "Tại sao khi nảy ngươi lớn tiếng cười vang rồi bây giờ lại đổi sang tiếng khóc thảm thiết?” Dê liền trả lời: "Tôi sẽ cho bạn biết lý do nhưng phải có mặt ông thầy của bạn, đạo sĩ Bà-la-môn mới được."

Vì họ muốn biết sự thật, ngay lập tức đẫn con dê tế thần đến cho vị đạo sĩ bà-la-môn. Họ giải thích tất cả những gì việc con dê đã làm. Đạo sĩ cũng trở nên rất tò mò. Ông trân trọng hỏi dê: "Tại sao ngươi cười đã rồi lại lớn tiếng khóc?"

Con dê nhớ lại cuộc sống quá khứ của mình, nó nói: "Thuở xưa, tôi cũng là một tu sĩ Bà-la-môn, giống như bạn, được đào tạo trở thành một hành giả thực hiện các nghi thức hiến tế tôn giáo thiêng liêng. Tôi tự nghĩ ra rằng là nên phải hy sinh một số dê theo sự mặc khải cần thiết của thần, sẽ mang lại  lợi ích cho người khác, cũng như bản thân mình trong sự tái sinh ở tương lai. Tuy nhiên, kết quả thực sự của hành động của tôi là số dê bị tôi giết lên đến 500 con. Do đó tôi phải chịu trả quả báo trong 499 kiếp sống bị chặt đầu. Lần này tôi nhận ra rằng hôm nay tôi chắc chắn sẽ bị mất đầu của tôi lần thứ 500. Như vậy tôi đã hoàn tất cuộc trả quả báo do những hành động bất thiện của tôi từ bao đời trước. Niềm vui này làm cho tôi cười thoải mái không thể dừng được. Sau đó, tôi chợt nhận ra rằng  bạn là người đạo sĩ cũng giống như tôi trước đây, đã có những hành động sát sanh bất thiện và sẽ phải chịu một quả báo tương tự bị chém đầu như tôi trong 500 kiếp sau của bạn! Vì vậy, lòng từ bi và cảm thông, tiếng cười mãn nguyện của tôi quay lại là những giọt nước mắt thảm thiết để khóc cho bạn. "

Đạo sĩ Bà-la-môn nghe qua liền rún sợ cho là lời nói của dê có thể đúng sự thật, ông ta bèn bảo, "Vâng, này ông dê, ta sẽ không giết ông nữa." Dê trả lời, "Thưa đạo sĩ, dù bạn không giết tôi, tôi biết rằng hôm nay tôi cũng sẽ bị mất đầu vì lý do khác, để hoàn tất sự trả quả cuối cùng qua những hành động bất thiện trong quá khứ của tôi."

Đạo sĩ nói, "Đừng sợ, Tôi sẽ tìm mọi cách bảo vệ tốt nhất không cho sự xâm hại nào sẽ đến với bạn."  Dê đáp, "Ô này ông bạn Đạo sĩ , dù bạn có bảo vệ cho tôi bằng cách nào đi nữa, hay dẫu tôi có chạy trốn bất cứ nơi đâu cũng không thoát khỏi nghiệp báo của mình.

Vì vậy, Đạo sĩ Bà-la-môn hủy lễ tế sinh và bắt đầu từ bỏ việc giết các động vật vô tội để hiến tế thần linh. Ông ra lệnh cho những đệ tử của mình chú tâm bảo vệ con dê mà ông vừa tha tội chết. Con dê được thả ra và tung tăng chạy lên sườn núi có nhiều đá để gặm một số lá non trên cành, nó trườn cổ của mình để tiếp cận cắn bứt. Thình lình mây đen u ám kéo đến và một tia sét kinh hoàng đánh trúng một tảng đá trên sườn núi, cắt một phiến đá sắc nét, văng chém ngay vào đầu chú dê khiến chết ngay lập tức. Sau đó mây tan và dông tố cũng qua đi.  Ôi, lưới trời cao lồng lộng tuy thưa nhưng khó lọt!

Ngày xưa Thái tử Tất Đạt Đa trên đường tầm đạo, ngài đã trải qua sáu năm quá ư khổ hạnh, thân thể ốm gầy còn da bọc xương, sức cùng lực tậm, Một hôm ngài lần bước xuống bờ sông để tắm gội nhưng giữa đường Ngài ngã xuống đất bất tỉnh. Khi ấy  có một cô gái chăn dê tên là Su- dà-ta (Sujàta) thấy thế liền mang bịch sữa dê  nấu thành đề hồ đổ vào miệng Ngài. Sau khi sữa thắm vào cổ họng, Ngài dần dần hồi phục được sức khỏe nhận ra ép xác là sự sai lầm, bèn nỗ lực tham thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm, cuối cùng khi sao mai vừa mọc thì hốt nhiên đại ngộ. Ngài  chứng được Tam minh thành tựu Chánh đẳng Chánh giác hiệu là Phật Thích ca Mâu ni. Ngài giảng thuyết Kinh Pháp Hoa, đưa ra thí dụ Giáo lý của ngài có ba trình độ, như có ba cỗ xe. Xe trâu tượng trưngĐại thừa chở được nhiều người. Xe hưu là Trung thừa chở vài ba người. Xe dê là tiểu thừa chỉ chở được một người tùy sở thích của mỗi chúng sanh.

Tóm lại, nhân loại của thế kỷ 21 này, đã hấp thụ một nền văn minh khoa học khá cao, con người đã phóng phi thuyền lên không gian, lên mặt trăng và dự kiến di cư lên sao hỏa, vậy mà tại thế gian này vẫn còn bao điều ngốc nghếch vô minh, vẫn còn duy trì những hành động dã man như cảnh chém lợn, chặt hàng ngàn đầu con trâu gọi là Lễ hội.

Nói đến Lễ là phải tôn nghiêm, tôn kính, thanh cao, đẹp đẽ minh triết, đậm nét nhân văn, thắm đượm tình người, hiếu sinh hơn là hiếu sát, đáng để đời sau noi gương học hỏi, chứ không phải cuồng sát trước cái chết vô tội vạ đáng được yêu thương tha thứ. Thử đặt mình vào cảnh ấy sẽ ra sao? Một chiếc gai đâm vào người, một viên sõi trong chiếc giày, một hạt bụi rơi vào mắt cũng đủ cho ta xốn xang đau buốt. Huống chi kẻ khủng bố ra tay hạ thủ lấy đi bao mạng sống không có tấc sắt trong tay và họ cũng không có khởi lòng thù hận. Như vậy có còn nhân tính chăng? Ôi chao! Thế giới này sẽ an vui biết mấy, nếu mọi người biết dừng tay nghĩ lại thì những cảnh thảm khốc manh động sẽ không còn nữa. Nếu nhân loại biết thương yêu đến loài vật mà không nỡ tâm giết chúng để cúng tế và ăn thịt. Nếu nhân loại chỉ tự nuôi sống với rau củ hoa trái thì cõi nhân hoàng này sẽ là thiên đường tại thế, anh em bốn biển một nhà, vạn loại chúng sanh đại đồng một thể. Mong thay!

Soạn viết xong 3 giờ sáng đêm Giao thừa

California, Xuân Ất Mùi 2015

Thích Giác Nguyên

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14164)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39779)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15331)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13902)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13944)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37385)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40093)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14656)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12680)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14866)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13826)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42662)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13854)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37286)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12704)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11788)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22578)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12529)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12582)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13079)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13127)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17292)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33291)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14851)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11065)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12478)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11980)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11965)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13164)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51316)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12398)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6631)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30472)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13141)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13350)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30744)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19415)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12502)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11874)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14785)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13211)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13220)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30745)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12059)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11854)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12750)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31937)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29444)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11800)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11765)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10457)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11573)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9656)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9682)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 10011)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35453)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10171)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10112)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10065)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9688)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27841)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15550)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9875)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13695)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9865)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9722)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18369)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12056)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9588)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9711)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8732)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8937)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8440)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11493)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31776)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12355)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13344)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8853)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9465)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11960)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9252)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9097)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9700)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29392)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9101)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9125)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33297)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8450)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30669)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31280)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37160)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32315)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9946)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27142)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8471)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19263)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13038)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9798)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant