Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

21 Tháng Giêng 201620:04(Xem: 12419)
Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

Tản mạn những vượn khỉ trong năm khỉ vượn

Nguyên Đạo

Khi hoan cot khi (1)[1]

 Chuyện dài của ông Khoa học

Đó là chuyện ông Darwin với chuyện khỉ vượn thành người.  Tôi không có tham vọngviết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882). Nhưng đã nhắc tới tên vị bác học cha đẻ củaThuyết tiến hóa thì không thể không nhắc sơ lược về cuộc đời của con người vĩ đại ấy. Trong những cái vĩ đại, cái vĩ đại nhất theo cái nhìn của tôi, ông là một con người sống trong thời phục hưng của châu Âuhơn 200 năm trước đây mà dám ngang nhiên công bố phát minh của mình, coi thường những lý thuyết thần học và những thảm họa có thể ập lên đầu mình. Việc này có thể dẫn đến rất nhiều nguy hiểm cho ông và cả gia đình ông.

Vậy ông Darwin tuyên bố cái gì?

Thưa, ông ấy đã dám nóilà: Thủy tổ con người có gốc gác họ hàng loài khỉđột chứ không phải cặp nhân tình Eva và Adam.

Trong lịch sử nhân loại cũng đã có những tấm gương anh dũng như thếvào thời cuối trung cổ ở châu Âu. Xin nêu vài ví dụ.

Ông Nicolaus Copernicus (1473-1543) đã đưa ra thuyết Nhật tâm (các hành tinh, kể cả trái đất, quay chung quanh mặt trời). Việc công bố thuyết này dĩ nhiên là cái gaicho nhà thờ vì tới thời gian ấy Giáo hội La Mã vẫn nói là trái đất đứng yên và là trung tâm của vũ trụ. Mặt trời mặt trăng phải quay quanh nó. Ông đã bị Giáo hội xứ án treo cổ chết vào tháng 5 năm 1543.Sau khi ông mất những học trò và bạn hữu đã ghi một dòng chữtrên phần mộ của ông: „Người đã giữ mặt trời và đẩy trái đất chuyển động“.

Rồi cả  trăm năm sau đến ông Galileo Galilei (1564-1642) lại lên tiếng bênh vực cho thuyết Nhật tâm này, lại cũng bị Tòa án Dị giáo của La Mã dùng mọi hình nhục bắt buộc ông phải thú nhận rằng ông đã sai lầm. Vì nghĩ đến gia đình và con cái, ông già 69 tuổi ấy đành phải quỳ gối trước nhà thờ và cúi đầu nói: „Tôi xin từ bỏ ý nghĩ sai lầm của mình, rằng mặt trờitrung tâm của vũ trụ“. Nhưng lúc đứng lên ông lẩm bẩm trong miệng: „Eppur si muove! – dù gì thì trái đất vẫn quay“.

May mắn cho chúng ta là đến thế kỷ 20 và 21 những ảnh hưởng hay áp lực của nhà thờ đối vối lĩnh vực khoa học không còn nặng nề như xưa nữa. Không những thế nhà thờ còn có những chương trình từ thiện xã hội đáng kể. Gần đây dưới quyền của Giáo hoàng Phanxicô gốc người Argentina đã có rất nhiều cởi mở và tạo nhiều nhịp cầu đối thoại với các tôn giáo khác. Sự kiện nhà thờ Thiên chúa giáo trao tặng giải Pacem in Terris (tạm dịch: Bình An Dưới Thế) cho Thiền Sư Nhất Hạnh vào 31.10.2015 là một ví dụ điển hình.

Quay lại chuyện ông Darwin, ông ấy là ai mà dám nói rằng ông bà của chính ông và kể cả ông bà củachúng tagốc như khỉ vượn?

Ông Darwin người Anh, sinh năm 1809. Ông nội của ông là một bác học, cha ông ta là bác sĩ. Ông theo cha thực tập để học y khoa nhưng thấy không thích hợp nên bỏ học. Việc này làm cha ông nổi giận và bắt ông vào học cử nhân thần học ở  trường Christ´s College Cambridge để có thể trở thành thầy dòng. Việc học ở đây lại cũng chẳng mang lại hứng thú gì lắm, dù sau đó ông cũng đã thi đậu kỳ thi tốt nghiệp. Bước ngoặc lớn của cuộc đời ông bắt đầu từ ngày ông tham gia chuyến hải trình năm năm dàitrên tàu MHS Beagle đi nghiên cứu thực vậtđộng vật học dọc các bờ biển ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở nam bán cầu.

Khi hoan cot khi (1)
Nguồn: Wikipedia

 Trong thời gian này Darwin đã phát hiện ra những biến dạng của cuộc sống hữu cơ, liên hệ đến sự hình thành đời sống con người. Năm 1836, về nước Charles Darwin còn ngần ngại chưa dám công bố ngay những phát kiến của mình. Qua một bản phác thảo vào năm 1837, Darwin ghilại trong mộthọa đồ nhằm ghi chú về „cây gia phả“ nguồn gốc của sinh vật, ông chỉ dám ghi là: "Tôi nghĩ rằng - I think“. Lý do là vì ông thừa biết rằng nhà thờ không thể chấp nhận một lý thuyết nào khác, khi kinh Thánh đã xác định rõ ra rằng: con người là do đức Chúa Trời tạo ra.Những áp lực không những từ ngoài xã hội mà cả trong gia đình.Chính vợ ông, bà Emma là một tín đồ trung kiên, đã dần dần thấy xa chồng vì lo rằng khoa học và quỷ sa-tăng đã dẫn ông đi xa khỏi đức tin của gia đình. Bà lo lắng ông sẽ bị trừng phạt, nghĩa là ông sẽ xa bà vĩnh viễn trên chốn thiên đường.

Chần chừ mãi cho đến hơn hai mươi năm sau, vào 24.11.1859 tác phẩm Nguồn Gốc của Muôn Loài - On the Origin of Species mới được ra đời, đã đề cập đến nguồn gốc của con người. Tác phẩm này đã gây chấn động trong giới khoa học và là cái gai lớn đối với nhà thờ, họ thường xuyên công kích quan điểm vô thần này của ông. Do bị nhiều chứng bệnh (bao tử, áp huyết, tim mạch…) nên ông lạiít khi xuất hiện trước công chúng để bênh vực Thuyết tiến hóa  của mình. Tuy nhiên cũng có nhiều nhà khoa học tin tưởng sâu sắc và lên tiếng bảo vệ lý thuyết của ông, ví dụ như giáo sưThomasHuxley. Một lần vào tháng sáu năm 1860 tại đại học thành phố Oxford,„Hiệp Hội Phát Triển Khoa Học Anh Quốc - British Association for the Advancement of Science“trong một cuộc hội thảo khoa học, chính Đức Giám mục Samuel Wilberforce vốn là một nhà hùng biện đã lên diễn đàn đưa ra những chỉ trích bác bỏ Thuyết tiến hóa  với những lời nói hùng hồn lôi cuốn,được cử tọa rất tán thưởng. Khán giả đã có những tràng pháo tay và cười ồ khoái trá khi Giám mục phê bình mỉa mai về Thuyết tiến hóa. Cuối cùng Giám mục Wilberforce hướng về phía giáo sư Thomas Huxley đang ngồi trong hội trường và hỏi: "Thưa ông Huxley, tôi muốn hỏi ông, ông nghĩ rằng ông đến từ con khỉ, vậy là từ ông nội ông hay là từ cha của ông?". Khán giả cùng cười ồ và vỗ tay. Lúc đó giáo sư Huxley mới đĩnh đạc bước lên diễn đàn. Ông trình bày cặn kẽ về Thuyết tiến hóa  của Darwin,  chứng minh rằng những cái nhìn của Giám mục Wilberforce là đầy thành kiếnsai lầm. Giáo sư cũng trả lời vị Giám mục thành phố Oxford rằng: "Tôi nghĩ rằng chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo".Lần này khán giả mới sững sờ và một lần nữa vỗ tay tán thưởng vang dội, không phải Giám mục Wilberforce mà là tán thưởng giáo sư Huxley, tiếng vỗ tay dường như không muốn dứt.[[i]]

Lại phải chờ thêmmười hai năm nữa, vào năm 1871 ông Darwin mới cho ra đời cuốn “Dòng dõi của Con Người - The Descent of Man. Qua đấy ông xác định rõ hơn những liên hệ giữa loài người và loài khỉ.Những phát minh này của Charles Darwin không những chỉ giá trị trong phạm vi sinh học mà còn có ảnh hưởng lớn đến các ngành kháctừ Thiên văn tới Lịch sử, từ môn Cổ sinh vật tới Tâm lý học, từ ngành Phôi thai học tới Tôn giáo. Charles Darwin mất vào ngày 19.04.1882 vì bệnh tim.Lúc này lý thuyết của ông đã được nhiều người công nhận nên tin buồn đã được nhanh chóng đăng tải trên báo chí. Nhật báo London Standard đã viết rằng: “Các tín đồ Thiên Chúa Giáo chân chính có thể chấp nhận các sự kiện của Thuyếttiến hóa giống như họ đã làm đối với ngành Thiên văn và ngành Địa chất, không vì các thành kiến do các niềm tin lâu đời và được ưa thích”. Tro cốt của ông được đặt cạnh vị trí của nhà khoa học Isaac Newton bên trong Tu viện Westminster London, xứng đáng là một nhà khoa học lớn của nhân loại.

 

Không cố ý nhưng tôi lại sa đà vào chuyện ông Darwin. Tôi chỉ muốn xin nói rằng, ông CharlesDarwin đã chứng minh rằng tất cả những sinh vật đều đã tiến hóa thích ứng với môi trường sống. Thế nên từ loài bốn chân, con khỉ đã từ từ đứng lom khom dậy và bắt đầu đi thẳng bằng hai chân, đầu ngẩng cao lên phía trước như con người chúng ta bây giờ. Quá trình ấy phải cần đến mấy triệu năm!


[2]

Rồi người lại thành khỉ.


Tháng rồi nơi tôi đang làm việc có tổ chức một hội nghị nhằm khuyến khích những sinh viên tốt nghiệp y khoa đi về làm việc ở những vùng nông thôn, nhất là những vùng ở miền đông nước Đức. Vừa đẩy cửa bước vào phía ngoài khu giảng đường là phải dẫm chân ngay lên một tấm áp phích có in hình hai người bác sĩ dán trên nền nhà. Tôi rất khó chịu nên cố tránh đạp lên khuôn mặt của họ, dù đó chỉ là một bức hình. Vào bên trong thấy cũng còn có vài tấm hình như thế được dán dọc hành lang, dĩ nhiên cũng ở trên nền nhà. Tôi vội tìm đến Ban Tổ Chức và khiếu nại, hỏi tại sao họ không treo những bản in đẹp như vậy trên những tấm pa nô trên tường. Họ cười và giải thích cho tôi rằng, xem áp phích trên tường là thế hệ trung niên hay người già. Những người trẻ, những bác sĩ sắp hay mới ra trường chỉ nhìn xuống đất vì khi họ đi thì họ đang cầm smartphone trên tay nên luôn cúi xuống dưới. Chính những hình ảnh dưới đất mới đập vào mắt họ. Nghe đến đây tôi mới chưng hửng và chỉ biết ngậm mà nghe. Tôi liên tưởng ngay đến thế hệ của những chàng gù cúi gầm xuống trước, hay thế hệ của những khỉ vượn.Nếu họ hiểu được tiếng Việt thì chắc tôi sẽ đáp lại rằng: đúng là trò khỉ! Trong giây phút ấy tôi nghĩ ngay đến ông Darwin.

Nhưng ông Darwin ơi, ông đã từ giãcuộc đời này quá sớm,đã hơn 200 năm rồi còn chi. Ông có ngờ được rằng, con người ta bây giờ đang ở trong quá trình quay trở lại gần gũi với thủy tổ của mình, muốn trở lại thành khỉ. Không nói chơi, cũng có chứng minh khoa học hẳn hòi, chứng minh từ y khoa (là ngành học mà ông từng không ưa!). Theo nghiên cứu của một bác sĩ ở New South Waleslà một tiểu bangđông dân nhất nằm ở phía đông nam nước Úcđã từng công bố sự kiện này trong một bài viết mang tựa đề: những trẻ em bị gù lưng vì nghiện ngập xài  smartphone.

Trong một bài báo của tác giả Lindsey Bever đăng trên trang mạng của The Washington Post ngày 20.11.14 có báo động rằng:  cái cổ của việc bấm tin nhắn đang là một đại họa và có thể phá hư cột xương sống của bạn – „Text neck“ is becoming an „epidemic“ and could wreck your spine. Bài viết còn dẫn hình ảnh sau:

Khi hoan cot khi (2)Nguồn: www.washingtonpost.com

Bài báo trích dẫn hình với lời giải thích của bác sĩ Ken Hansraj nói là: cái đầu của con người ta thông thường cân nặng khoảng 10 pounds (tức 4,5 kg - đơn vị pound, viết tắt là lb tính tương đương 0,45 kg). Nhưng khi cổ cúi xuống phía trước thì trọng lượng đè lên cột xương sống sẽ tăng thêm. Cúi xuống 15 độ trọng lượng sẽ thành 27 lbs (12,3 kg), ở 30 độ là 40 lbs (18 kg), ở 60 độ là 60 lbs (27,2 kg). Như thế càng cúi xuống phía trước theo tư thế như thường thấy hiện nay khi người ta xử dụng smartphone, thì trọng lượng càng tăng và cái đầu trở thành tảng đá nặng đè lên cột xương sống.Quan sát những người bấm tin nhắn hay xài mạng xã hội đầu của họ luôn luôn cúi xuống trước, dù đang đứng hay ngồi. Thử tưởng tượng, cột sống ta phải vác một trọng lượng gần 30 kg suốt cả ngày thì làm sao kham nỗi. Nghĩ kỹ lại mới thấy động tác ngồi thiền, lưng thẳng đầu thẳng hai tay buông lõng phía trước  thật là tuyệt vời và hợp khoa học.

khivanhoancotkhi_Page_4Theo Jenny Awford của nhật báo Daily Mail của Anh, chi nhánh tại Úc trên trang mạng của Daily Mail [[i]]ngày 16.10.2015 đăng tải một nghiên cứu của bác sĩ James Carter với tiêu đề: Ảnh X-Quang qua công bố của Bác sĩ James Carter đã gây chấn động. Bác sĩ Carter đã nghiên cứuquan sát các học sinh trong vòng suốt 2 năm, nhận thấy khi các học sinh này xử dụng smartphone để gởi tin nhắn thì đầu họ cúi gầm xuống phía trước. Những hình chụp X-Quang cho thấy dấu hiệu chắc chắn họ sẽ bị lưng gù: „thay vì một đường cong về phía trước (hình trái) bình thường thì có thể nhìn thấy ở những bệnh nhân này một đường cong ngược lại (hình mặt) như những người bị gù lưng“.

 

Dựa vào những dẫn chứng trên, ta kết luận rằng việc bị lưng gù cho những người thường xử dụng smartphone để viết những tin nhắn, từ trẻ em cho đến người lớn là việc chắc chắn. Ngoài ra, y khoa cũng khuyến cáo rằng, nếu xử dụng quá nhiều smartphone, ipad, tablet… có thể bị nhiều chứng bệnh khác, như bị nhứt đầu, bị rối loạn thần kinh, bị yếu mắt, bị các chứng bệnh tâm lý v.v…

Từ loài khỉ thủy tổ tiến lên làm người cần đến mấy triệu năm, nhưng từ người đến khỉ - ít nhất trong cái nhìn cơ thể học của y khoa bây giờ-chỉ cần mấy mươi năm thôi.  Chiếc máy điện thoại thông minh, xem như là chiếc máy smartphone đầu tiên, mặc dù lúc ấy vẫn còn khá đơn giản, là máy Simon của hãng IBM ra mắt vào năm 1994. Nhưng thật ra chiếc smartphone chỉ được xử dụng phổbiến trong vòng mười năm nay thôi. 

Không những trẻ em lỡ lầm nghiện ngập xử dụng smartphone, mà bây giờ hầu như mọi người ở mọi lứa tuổi. Một người cha viết trên mạng rằng, người con trai bảy tuổi xin phép  hẹn với ba người bạn cùng lớp đến nhà chơi. Không nghe thấy động tĩnh gì trong phòng của con, ông ta hơi lo nên mới ghé mắt vào thì thấy cả bốn em đều nằm sấp dưới đất và „nói chuyện“ với nhau bằng smartphone qua mạng xã hội. Một người bạn của tôi kể rằng, có người cháu kêu bằng cậu đem bạn gái mới quen đến giới thiệu với cậuút, sau khi chào hỏi và mời uống nước hai người trẻ mỗi người một góc ghếxôpha trong phòng khách và bấm máy. Cậu út chỉ biết ngồi nhìn hai cháu và không dám lên tiếng vì sợ làm phiền! Chuyện này bây giờ rất thường xảy ra ở mọi nơi. Vậy mà có nơi chính phủ còn khuyến khích, tạo điều kiện cho người dùng xử dụng nó thường hơn. Điển hình ở Washington Hoa Kỳ và ở Trùng Khánh Trung quốc, chính phủ đã lập ra những con đường dành riêng cho người đi bộ xử dụng điện thoại. Không biết việc ấy là việc nên khuyến khích hay không?

Khi hoan cot khi (4)Đường dành riêng cho người xử dụng

smartphone ở trung tâm Washington

Khi hoan cot khi (5)

Đường bộ hành dành riêng cho người xài smartphone ở Trùng Khánh, Trung quốc


[3]

Đi đâu, về đâu?

Dĩ nhiên, hầu như bây giờ chúng ta ai cũng xử dụng smartphone và ai cũng biết những tiện lợi vô cùng của nó. Tôi cũng đã dùng nó không chỉ để điện thoại mà còn để chụp hình, để thu những bài pháp thoại, để nghe nhạc haysách nói, nghe kinh hay bài giảng trên xe, để ghi chú khi không có giấy và viết sẵn… Nó đúng là một chiếc máy bỏ túi đa dụng. Tôi xin tiết lộ một bí mật đã giữ kín lâu nay. Khi tôi lạy sám hối ở nhà, nếu vừa xướng vừa lạy tôi thường bị hụt hơi do yếu tim, tôi bènnhờ smartphone xướng giùm (do đã thu sẵn vào) và miệng chỉ lẩm bẩm theo thôi, nhờ cách ấy mà tôi có thể thở đều khi lạy và mọi chuyện được êm thắm.Cám ơncái smartphonegiúp tâm tôi an đôi chút, không tán loạn vì cứ lo đứng tim. Tội từ tâm khởi đem tâm sám, tâm được tịnh rồi tội liền tiêu…

Vấn đề của chúng ta hôm nay là cần xác định rõ, giữa máy và người thì ai là chủ ai là tớ. Nếu con người là chủ thì tại sao bất cứ lúc nào suốt hai mươi bốn giờ trong ngày hễ máy réo lên một tiếng thì tên nô lệ ấy lại phải chạy đến máy ngay, kể cả khi ăn hay khi ngủ?

Dù bạn theo tôn giáo nào đi nữa, bạn phải công nhận rằng cuộc đời này chỉ là một quán trọ, hết thời gian trọ lại ra đi. Đi đâu thì mỗi người chọn cho mình một cách khác nhau. Tôi không dám bàn đến những quan điểm thiên đường của những tôn giáo khác, chỉ biết rằng chốn thiên đường của những tôn giáo lớn đều không có chỗ cho loài vật, kể cả những chú khỉ thông minh quá khỉ (ngoại trừ những lời an ủi của Giáo Hoàng Phanxicôvào 12.2014 vừa qua với một em bé khi chú chó của em bị chết và đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận). Tôi chỉ xin phép nói về lãnh vực mình có biết đôi chút, đó là Phật Giáo.

Theo Phật Giáo, chúng sanh mọi loài là  chúng sinh trong mười cảnh giới. Trong Kinh thường gọi là mười pháp giới. Mười pháp giới lại được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gọi là Tứ thánh, gồm 4 phẩm vị là Phật -  Bồ Tát - Duyên Giác - Thanh Văn. Nhóm thứ hai gọi là Lục phàm (sáu nẻo luân hồi). Lục phàmlại phân chia làm 2 tiểu nhóm, đó làTam thiện đạo, gồm 3 loàiThiên – Nhơn - A Tu LaTam ác đạo, gồm 3 loàiĐịa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh.Trong Thập giới, bốn bậc chúng sanh phía trên thì được giải thoát tự tại, nên gọi là Tứ Thánh (bốn bực Thánh), còn sáu bậc dưới chưa giác ngộ, còn luân chuyển trong sáu cảnh giới luân hồi, gọi là Lục phàm (sáu hạng phàm phu). Riêng trong Lục phàm chúng sanh ở ba cảnh: Thiên, Nhơn, A Tu La trước có làm lành và hiện thời có thể tu tập thiện nghiệp, nên người ta gọi ba cảnh ấy là Tam thiện đạo(ba đường lành). Còn chúng sanh ở ba cảnh sau: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trước đã phạm nhiều tội nặng về thập ác, ngũ nghịch, nay phải chịu hình phạt và hiện thời khó tu các việc lành, nên người ta kêu ba cảnh ấy là Tam ác đạo (ba đường dữ).

Súc sanhcảnh giới thấp trong thập giới, thuộc cảnh giới Tam ác đạo. Từ súc sanh đến con người (nhơn) ta đã bước một bước rất dài, phải tạo bao nhiêu phước đức, phải siêng năng tu tập nhiều đời kiếp mới được  thân người như hôm nay.

Câu chuyện lý thuyết thủy tổ khỉ của loài người theo ông Darwin đúng hay không đúng, chuyện ấy xin phép miễn bàn ở đây. Chuyện của chúng ta là, chẳng lẽ chỉ vì „mạng xã hội“ hay vì mối tìnhấp ủ với smartphone mà ta xuôi tay để mang thân hình khỉ thì đáng buồn lắm. Không biết nói, không biết ca hát, chỉ chéc chéc suốt ngày thì tội nghiệp lắm. Có ai muốn mình trôi dạt xuống làm súc sinh đâu!

Nhắc nhau để mỗi người chọn cho mình một cách đi.

Còn nếu ai đó, nhất là các bạn trẻ,vẫn cứ muốn là khỉ thì hãy xem những lời cảnh báo này chỉ là „rung cây nhát khỉ“.

Rốt cuộc, khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Rõ khỉ !

Khi hoan cot khi (6)

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

(Đức Quốc)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10537)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác
(Xem: 11236)
Người đã đến, vầng hồng dương rạng rỡ, Bước nhiệm huyền bừng nở những đài sen, Ưu Đàm hoa còn lưu hương muôn thuở. Cõi trầm luân còn nhắc nhớ bao phen..
(Xem: 12768)
Tháng tư âm lịch tưng bừng, Vườn Lâm-tỳ-ni đón mừng Đản Sanh. Ca-tỳ-la-vệ cửa thành, Trên không nhẹ thoảng âm thanh lạ thường.
(Xem: 10816)
Hãy lắng nghe lời Thầy-Tổ nói, minh bạchấn tượng hơn: “Nói lời Phật nói, nghĩ điều Phật nghĩ, làm điều Phật làm.”
(Xem: 16678)
Trường A Hàm I, "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn. Duy ngã vi tôn, yếu độ chúng sanh, sanh lão bệnh tử"...
(Xem: 10827)
Hai ngàn năm trăm bốn mươi mốt năm đã trôi qua, nhưng hình bóng và biểu tượng cao quý của Đức Phật vẫn luôn ngời sáng trong lòng mọi người con Phật.
(Xem: 22979)
Của Chánh Văn Phòng GHPGVNTN Hoa Kỳ - HT Thích Thắng Hoan
(Xem: 12036)
Được làm con Phật là điều vừa đơn giản, vừa hy hữu. Đơn giản, vì sinh ra trong một gia đình Phật giáo thì tự động theo cha mẹ đi chùa, lễ Phật, tin Phật ngay từ bé.
(Xem: 11504)
Này người thanh niên! Ví như có một gian phòng tăm tối suốt cả nghìn năm dài. Nếu muốn thắp sáng cho nó, con cần phải đốt bao nhiêu ngọn đèn và mất bao nhiêu lâu để dẹp cho nó tươm tất?
(Xem: 10695)
Mãi cho đến tháng 12 năm 1999 mới được công nhậntuyên bố Đại lễ Phật Đản Quốc tế (lễ Vesak – Tam hợp) tại trụ sở Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, New York City (Hoa Kỳ) vừa qua.
(Xem: 12346)
Trần Nhân Tông (chữ Hán: 陳仁宗; 7 tháng 12 năm 1258 – 16 tháng 12 năm 1308,) là vị vua thứ 3 của nhà Trần trong lịch sử Việt Nam.
(Xem: 11203)
Dê là loài động vật hiền lành, gần gũi với đời sốngsinh hoạt của con người. Nó là một trong lục súc: ngựa, trâu, dê, chó, lợn, gà.
(Xem: 10031)
Vào dịp cuối năm, đầu năm, dương lịch hay âm lịch, có lẽ không có nhóm từ nào được mọi người dùng đến nhiều như là mấy chữ "Chúc mừng năm mới."
(Xem: 10334)
Không có stress có lẽ con người cũng không thể tồn tại. Thế nhưng, vượt ngưỡng đến một mức nào đó thì con người cũng…không thể tồn tại, bởi chính stress gây ra nhiều thứ bệnh về thể chấttâm thần...
(Xem: 11932)
“Giáo Pháp của Như Lai: thiết thực, hiện đại, không thời gian, đến để mà thấy, có thể đưa đến chứng ngộ, được người trí tự mình giác hiểu.”
(Xem: 10703)
Các nhà y học chính thốngbảo thủ nhất cũng đã phải công nhận thiền là một phương pháp trị liệu khoa học và hiệu quả trên một số bệnh lý, cũng như cải thiện cả hành vilối sống...
(Xem: 12381)
Thiền là phương pháp thâm cứu và quán tưởng, hay là phương pháp giữ cho tâm yên tĩnh, phương pháp tự tỉnh thức để thấy rằng chân tánh chính là Phật tánh...
(Xem: 9822)
Tu thiềnthực hiện theo nguồn gốc của đạo Phật. Vì xưa kia, Đức Phật tọa thiền suốt bốn mươi chín ngày đêm dưới cội bồ đề mới được giác ngộ thành Phật.
(Xem: 11283)
Cứ mỗi độ xuân về, chắc chắn ai trong chúng ta cũng đều cảm thấy có một chút gì khiến cho cõi lòng bâng khuâng, xao xuyến trước cảnh vật thiên nhiên...
(Xem: 13850)
Gom tâm an trụ và làm cho tâm trở nên vắng lặng, rồi dùng tâm an trụ ấy quán chiếu thân và tâm.
(Xem: 9585)
Thiền là một pháp môn do sáng kiến của đức Phật, do kinh nghiệm tu tập bản thân của Ngài, và chính nhờ kinh nghiệm bản thân ấy mới giúp cho Ngài xây dựng một pháp môn giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10472)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10574)
Thiền là phương pháp buông xả. Khi hành Thiền, bạn buông xả cả thế giới phức tạp bên ngoài để đạt đến trạng thái an tịnh nội tâm đầy uy lực.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9913)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 11065)
Hãy sống trọn vẹn, thực hành tinh tấn và tập trung vào những gì mà bạn làm hoặc khi bạn đi, đứng, nằm, ngồi hay làm việc.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10794)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9545)
Khổ đau đã gắng liền với con người như bóng với hình, cho dù có trốn chạy cũng không thể nào thoát ra. Đã không trốn chạy được, phương pháp hay nhất là ...
(Xem: 9905)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9506)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14532)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 12565)
Chính nương vào nhị đế mới có thể thi thiết phương tiện thiện xảo để độ mình, độ người và xiển dương Chánh Pháp.
(Xem: 10431)
Thiền là một pháp môn hay là một trường phái của Phật giáo, và những người thực tập theo pháp môn này xem nó như là cốt tủy của đạo Phật.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10565)
Tất cả những giáo lý về con đường Ati Dzogchen có thể xếp vào ba chủ đề : Nền Tảng, Con Đường, và Quả.
(Xem: 9340)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 12035)
Hãy nhớ rằng duy chỉ có bạn là người có thể thay đổi cuộc đời mình tốt đẹp hơn và thiền đã chứng tỏ sự hiệu nghiệm của nó đối với không biết bao nhiêu người.
(Xem: 9702)
Trong Kinh tạng Pàli, có một số văn đoạn nêu rõ kinh nghiệm hành thiền của Đức Phật, rất quan trọng và bổ ích cho việc hành thiền của người Phật tử.
(Xem: 10220)
Hãy thực hành bằng sự tinh tấn dũng mảnh, bền bỉ, và không để mất chút thì giờ nào. Hãy khuyên và khuyến khích những người khác cùng thực hành.
(Xem: 10232)
Thực tập chánh niệm ngày càng trở thành một đề tài được ưa chuộng trong giới lãnh đạo doanh nghiệp.
(Xem: 19153)
Bản dịch tiếng Việt Ba Trụ Thiền do chúng tôi thực hiện lần đầu tiên vào năm 1985 tại Sài gòn, Việt nam
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 14766)
Nguyện đem lòng thành kính, gởi theo đám mây hương, Phưởng phất khắp mười phương, cúng dường ngôi Tam bảo.
(Xem: 10103)
Ước vọng của con người luôn là những gì tốt đẹp, sung túc và dài lâu, cần phải đạt được trong một tương lai gần nhất.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8959)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 14609)
不二 hay "vô nhị", tiếng Sanskrit gọi là “Advaita”, tiếng Anh gọi là "Nonduality". Phật học tiểu từ điển giải thích “bất nhị” là “không phân biệt đối với tất cả mọi hiện tượng”, siêu việt trên mọi phân biệt.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 9054)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 10540)
Ngài nhận một bó cỏ Cát tường (Kusa) từ người nông dân chăn trâu tên Svastika, rồi trải cỏ làm tòa ngồi và tuyên thệ: “Nếu ta không tìm ra Chân lý tối thượng, ta quyết không rời khỏi nơi này”
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
(Xem: 10002)
pháp môn niệm Phật, lấy nhất tâm niệm Phật, cầu sinh Tây phương, ly khổ đắc lạc. Nhìn vào thấy như là Tiểu thừa, chỉ tự lợi mình, nhưng thực tế mà nói thì là Đại thừa, có thể lợi tha.
(Xem: 24292)
Phật giáo Bắc tông nói chung, Thiền tông nói riêng đều lấy giác ngộ làm mục đích tiến tu. Dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia trong khi tu hành được đôi phần giác ngộ đều được mọi người quí kính.
(Xem: 10183)
Sau khi thành đạo, Đức Phật Thích Ca đã thấu suốt cội nguồn pháp giới trong vũ trụ. Ngài đã nhìn thấy rõ mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, nhưng vì mê muội mà chưa nhận được.
(Xem: 11034)
A Di Đà Phật, danh hiệu này là vạn đức hồng danh, tại sao vậy? Danh hiệu này là danh hiệu của tự tánh, là danh hiệu của tánh đức.
(Xem: 9008)
Pháp môn Tịnh độ theo như huyền ký của Đức Phật trong Kinh Vô Lượng ThọKinh Đại Tập là một pháp môn thù thắng và rất thích hợp với chúng sanh trong thời mạt pháp này.
(Xem: 9478)
Pháp môn niệm Phật từ trước đến nay được phổ biến rộng rãi, hàng Phật tử đều có thể ứng dụng thực hành và đã chứng nghiệman lạc, lợi ích từ câu Phật hiệu.
(Xem: 8011)
Một trong những duyên khởi đưa tôi tới sự học hỏi pháp môn Tịnh Độ là lần đi cúng thất đầu tiên của bác tôi
(Xem: 9279)
Trong Phật giáo, niệm là một thuộc tính của tâm, gọi là tâm sở pháp
(Xem: 15353)
Quyển Ngữ Lục này là tập hợp từ những lời thị chúng của Thiền Sư Duy Lực trong những kỳ thiền thất tại Việt Nam kể từ năm 1983 cho đến những năm tháng cuối đời.
(Xem: 10345)
Vun xới các phẩm tính nội tâm chính là cách hữu hiệu hơn cả để giúp mình giúp đỡ kẻ khác.
(Xem: 9593)
Buổi sáng hôm đó, nắng vàng rất đẹp, mây xanh trong vắt và những bông hoa lựu đỏ thắm, nở rực rỡ trên con đường dẫn ra bờ sông Neranjara.
(Xem: 17456)
Chúng tôi giảng rất nhiều lần bộ kinh Vô Lượng Thọ, tính sơ đến nay cũng khoảng mười lần. Mỗi lần giảng giải đều không giống nhau.
(Xem: 21410)
Giáo pháp được đưa vào thế giới khi Đức Thích Ca chứng đạo tối thượng, lần đầu tiên thuyết về Chân Như và về những phương pháp hành trì đưa đến chứng ngộ.
(Xem: 12173)
Pháp Sự Toàn Tập Giảng Ký, Lão pháp sư Thích Tịnh Không giảng tại Úc Châu Tịnh Tông Học Viện, Chuyển ngữ: Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa
(Xem: 10235)
Trong rừng hương giáo pháp, “Những Đoá Hoa Thiền” cũng mang một đặc vẻ đặc kỳ diễm ảo của chúng. “Như nhân ẩm thủy, lãnh noãn tự tri.”
(Xem: 19259)
Thiền sư Nghi Mặc Huyền Khế tìm được những lời của đại sư Hà Ngọc nơi bộ Ngũ Tông lục của Quách Chánh Trung và những trứ tác của các vị Huệ Hà, Quảng Huy, Hối Nhiên...
(Xem: 26057)
Kinh quán Vô Lượng Thọ Phật là một trong ba bộ kinh chính yếu của tông Tịnh Độ, được xếp vào Đại chánh tạng, tập 16, No. 1756.
(Xem: 7983)
Từng đợt lá thay nhau úa vàng, héo khô, lả tả rơi theo gió mùa. Từng cơn mưa nặng hạt, rơi xuống những mảnh đất đã cằn khô, nứt nẻ.
(Xem: 14816)
Tết là ngày lễ hội lớn nhất trong năm, là dịp để mọi người đều hớn hở và đặt tất cả những niềm hy vọngước mơ của mình vào tương lai.
(Xem: 10639)
Giật mình nhìn lên bệ, Cứ ngỡ rằng trong mơ: Pho tượng Phật đi vắng. Ngoài kia xuân đã về.
(Xem: 11357)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 9541)
Pháp môn Tịnh Độcon đường chính yếu dẫn chúng sanh thời nay thoát sanh tử, là chiếc thuyền vững chắc đưa mọi người vượt thẳng qua năm đường.
(Xem: 18690)
Quyển Luận này về hình lượng rất bé bỏng, nhưng về phẩm chất thật quí vô giá. Một hành giả nếu thâm đạt ý chí quyển Luận này là đã thấy lối vào Đạo.
(Xem: 12372)
Pháp tu Tonglen, hay cho (tong) và nhận (len), là một pháp tu của chư Bồ tát, những đứa con thiện nam tín nữ dũng cảm nhất của các đấng chiến thắng
(Xem: 11897)
Ta đã có được thân người hy hữu khó tìm, cùng với các tự dothuận lợi đầy ý nghĩa. Ta đã gặp được giáo huấn hiếm có của Đức Phật.
(Xem: 10765)
Tôi sẽ dựa theo tác phẩm có tựa đề Năm Điểm Chỉ Giáo về Pháp Chiết Xuất Tinh Chất, do Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ Hai, Gendun Gyatso sáng tác.
(Xem: 13352)
Pháp luyện tâm nói về hành trì của các hành giả cao cả. Khi tu tập để phát bồ đề tâm, trước hết, ta phải phát khởi các thực chứng của một hành giả sơ căn và trung căn trong lamrim...
(Xem: 10008)
Chúng ta đã có được kiếp sống lý tưởng, hỗ trợ cho các tự dothuận lợi rất khó tìm. Ta đã gặp được giáo huấn quý báu vốn khó gặp của Đức Phật, đã tìm ra các vị thầy tâm linh khó tìm của Đại thừa...
(Xem: 9279)
Người tu Thiền chơn chính được gọi là ngồi Thiền "vô sở đắc" lại nữa đó cũng gọi là "Bổn chứng diệu tu" của sự tọa Thiền.
(Xem: 9398)
Quả thật là có một cõi như thế, gọi là cõi Tịnh Độ Hiện Tiền. Cõi ấy không bị giới hạn bởi không gian hay thời gian...
(Xem: 15910)
Tập sách chủ yếu làm sáng tỏ một số điểm giáo lýpháp môn thực hành nòng cốt của Phật giáo từ Nguyên thủy cho đến Đại thừa...
(Xem: 25656)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant