Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

21 Tháng Giêng 201620:04(Xem: 12420)
Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

Tản mạn những vượn khỉ trong năm khỉ vượn

Nguyên Đạo

Khi hoan cot khi (1)[1]

 Chuyện dài của ông Khoa học

Đó là chuyện ông Darwin với chuyện khỉ vượn thành người.  Tôi không có tham vọngviết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882). Nhưng đã nhắc tới tên vị bác học cha đẻ củaThuyết tiến hóa thì không thể không nhắc sơ lược về cuộc đời của con người vĩ đại ấy. Trong những cái vĩ đại, cái vĩ đại nhất theo cái nhìn của tôi, ông là một con người sống trong thời phục hưng của châu Âuhơn 200 năm trước đây mà dám ngang nhiên công bố phát minh của mình, coi thường những lý thuyết thần học và những thảm họa có thể ập lên đầu mình. Việc này có thể dẫn đến rất nhiều nguy hiểm cho ông và cả gia đình ông.

Vậy ông Darwin tuyên bố cái gì?

Thưa, ông ấy đã dám nóilà: Thủy tổ con người có gốc gác họ hàng loài khỉđột chứ không phải cặp nhân tình Eva và Adam.

Trong lịch sử nhân loại cũng đã có những tấm gương anh dũng như thếvào thời cuối trung cổ ở châu Âu. Xin nêu vài ví dụ.

Ông Nicolaus Copernicus (1473-1543) đã đưa ra thuyết Nhật tâm (các hành tinh, kể cả trái đất, quay chung quanh mặt trời). Việc công bố thuyết này dĩ nhiên là cái gaicho nhà thờ vì tới thời gian ấy Giáo hội La Mã vẫn nói là trái đất đứng yên và là trung tâm của vũ trụ. Mặt trời mặt trăng phải quay quanh nó. Ông đã bị Giáo hội xứ án treo cổ chết vào tháng 5 năm 1543.Sau khi ông mất những học trò và bạn hữu đã ghi một dòng chữtrên phần mộ của ông: „Người đã giữ mặt trời và đẩy trái đất chuyển động“.

Rồi cả  trăm năm sau đến ông Galileo Galilei (1564-1642) lại lên tiếng bênh vực cho thuyết Nhật tâm này, lại cũng bị Tòa án Dị giáo của La Mã dùng mọi hình nhục bắt buộc ông phải thú nhận rằng ông đã sai lầm. Vì nghĩ đến gia đình và con cái, ông già 69 tuổi ấy đành phải quỳ gối trước nhà thờ và cúi đầu nói: „Tôi xin từ bỏ ý nghĩ sai lầm của mình, rằng mặt trờitrung tâm của vũ trụ“. Nhưng lúc đứng lên ông lẩm bẩm trong miệng: „Eppur si muove! – dù gì thì trái đất vẫn quay“.

May mắn cho chúng ta là đến thế kỷ 20 và 21 những ảnh hưởng hay áp lực của nhà thờ đối vối lĩnh vực khoa học không còn nặng nề như xưa nữa. Không những thế nhà thờ còn có những chương trình từ thiện xã hội đáng kể. Gần đây dưới quyền của Giáo hoàng Phanxicô gốc người Argentina đã có rất nhiều cởi mở và tạo nhiều nhịp cầu đối thoại với các tôn giáo khác. Sự kiện nhà thờ Thiên chúa giáo trao tặng giải Pacem in Terris (tạm dịch: Bình An Dưới Thế) cho Thiền Sư Nhất Hạnh vào 31.10.2015 là một ví dụ điển hình.

Quay lại chuyện ông Darwin, ông ấy là ai mà dám nói rằng ông bà của chính ông và kể cả ông bà củachúng tagốc như khỉ vượn?

Ông Darwin người Anh, sinh năm 1809. Ông nội của ông là một bác học, cha ông ta là bác sĩ. Ông theo cha thực tập để học y khoa nhưng thấy không thích hợp nên bỏ học. Việc này làm cha ông nổi giận và bắt ông vào học cử nhân thần học ở  trường Christ´s College Cambridge để có thể trở thành thầy dòng. Việc học ở đây lại cũng chẳng mang lại hứng thú gì lắm, dù sau đó ông cũng đã thi đậu kỳ thi tốt nghiệp. Bước ngoặc lớn của cuộc đời ông bắt đầu từ ngày ông tham gia chuyến hải trình năm năm dàitrên tàu MHS Beagle đi nghiên cứu thực vậtđộng vật học dọc các bờ biển ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở nam bán cầu.

Khi hoan cot khi (1)
Nguồn: Wikipedia

 Trong thời gian này Darwin đã phát hiện ra những biến dạng của cuộc sống hữu cơ, liên hệ đến sự hình thành đời sống con người. Năm 1836, về nước Charles Darwin còn ngần ngại chưa dám công bố ngay những phát kiến của mình. Qua một bản phác thảo vào năm 1837, Darwin ghilại trong mộthọa đồ nhằm ghi chú về „cây gia phả“ nguồn gốc của sinh vật, ông chỉ dám ghi là: "Tôi nghĩ rằng - I think“. Lý do là vì ông thừa biết rằng nhà thờ không thể chấp nhận một lý thuyết nào khác, khi kinh Thánh đã xác định rõ ra rằng: con người là do đức Chúa Trời tạo ra.Những áp lực không những từ ngoài xã hội mà cả trong gia đình.Chính vợ ông, bà Emma là một tín đồ trung kiên, đã dần dần thấy xa chồng vì lo rằng khoa học và quỷ sa-tăng đã dẫn ông đi xa khỏi đức tin của gia đình. Bà lo lắng ông sẽ bị trừng phạt, nghĩa là ông sẽ xa bà vĩnh viễn trên chốn thiên đường.

Chần chừ mãi cho đến hơn hai mươi năm sau, vào 24.11.1859 tác phẩm Nguồn Gốc của Muôn Loài - On the Origin of Species mới được ra đời, đã đề cập đến nguồn gốc của con người. Tác phẩm này đã gây chấn động trong giới khoa học và là cái gai lớn đối với nhà thờ, họ thường xuyên công kích quan điểm vô thần này của ông. Do bị nhiều chứng bệnh (bao tử, áp huyết, tim mạch…) nên ông lạiít khi xuất hiện trước công chúng để bênh vực Thuyết tiến hóa  của mình. Tuy nhiên cũng có nhiều nhà khoa học tin tưởng sâu sắc và lên tiếng bảo vệ lý thuyết của ông, ví dụ như giáo sưThomasHuxley. Một lần vào tháng sáu năm 1860 tại đại học thành phố Oxford,„Hiệp Hội Phát Triển Khoa Học Anh Quốc - British Association for the Advancement of Science“trong một cuộc hội thảo khoa học, chính Đức Giám mục Samuel Wilberforce vốn là một nhà hùng biện đã lên diễn đàn đưa ra những chỉ trích bác bỏ Thuyết tiến hóa  với những lời nói hùng hồn lôi cuốn,được cử tọa rất tán thưởng. Khán giả đã có những tràng pháo tay và cười ồ khoái trá khi Giám mục phê bình mỉa mai về Thuyết tiến hóa. Cuối cùng Giám mục Wilberforce hướng về phía giáo sư Thomas Huxley đang ngồi trong hội trường và hỏi: "Thưa ông Huxley, tôi muốn hỏi ông, ông nghĩ rằng ông đến từ con khỉ, vậy là từ ông nội ông hay là từ cha của ông?". Khán giả cùng cười ồ và vỗ tay. Lúc đó giáo sư Huxley mới đĩnh đạc bước lên diễn đàn. Ông trình bày cặn kẽ về Thuyết tiến hóa  của Darwin,  chứng minh rằng những cái nhìn của Giám mục Wilberforce là đầy thành kiếnsai lầm. Giáo sư cũng trả lời vị Giám mục thành phố Oxford rằng: "Tôi nghĩ rằng chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo".Lần này khán giả mới sững sờ và một lần nữa vỗ tay tán thưởng vang dội, không phải Giám mục Wilberforce mà là tán thưởng giáo sư Huxley, tiếng vỗ tay dường như không muốn dứt.[[i]]

Lại phải chờ thêmmười hai năm nữa, vào năm 1871 ông Darwin mới cho ra đời cuốn “Dòng dõi của Con Người - The Descent of Man. Qua đấy ông xác định rõ hơn những liên hệ giữa loài người và loài khỉ.Những phát minh này của Charles Darwin không những chỉ giá trị trong phạm vi sinh học mà còn có ảnh hưởng lớn đến các ngành kháctừ Thiên văn tới Lịch sử, từ môn Cổ sinh vật tới Tâm lý học, từ ngành Phôi thai học tới Tôn giáo. Charles Darwin mất vào ngày 19.04.1882 vì bệnh tim.Lúc này lý thuyết của ông đã được nhiều người công nhận nên tin buồn đã được nhanh chóng đăng tải trên báo chí. Nhật báo London Standard đã viết rằng: “Các tín đồ Thiên Chúa Giáo chân chính có thể chấp nhận các sự kiện của Thuyếttiến hóa giống như họ đã làm đối với ngành Thiên văn và ngành Địa chất, không vì các thành kiến do các niềm tin lâu đời và được ưa thích”. Tro cốt của ông được đặt cạnh vị trí của nhà khoa học Isaac Newton bên trong Tu viện Westminster London, xứng đáng là một nhà khoa học lớn của nhân loại.

 

Không cố ý nhưng tôi lại sa đà vào chuyện ông Darwin. Tôi chỉ muốn xin nói rằng, ông CharlesDarwin đã chứng minh rằng tất cả những sinh vật đều đã tiến hóa thích ứng với môi trường sống. Thế nên từ loài bốn chân, con khỉ đã từ từ đứng lom khom dậy và bắt đầu đi thẳng bằng hai chân, đầu ngẩng cao lên phía trước như con người chúng ta bây giờ. Quá trình ấy phải cần đến mấy triệu năm!


[2]

Rồi người lại thành khỉ.


Tháng rồi nơi tôi đang làm việc có tổ chức một hội nghị nhằm khuyến khích những sinh viên tốt nghiệp y khoa đi về làm việc ở những vùng nông thôn, nhất là những vùng ở miền đông nước Đức. Vừa đẩy cửa bước vào phía ngoài khu giảng đường là phải dẫm chân ngay lên một tấm áp phích có in hình hai người bác sĩ dán trên nền nhà. Tôi rất khó chịu nên cố tránh đạp lên khuôn mặt của họ, dù đó chỉ là một bức hình. Vào bên trong thấy cũng còn có vài tấm hình như thế được dán dọc hành lang, dĩ nhiên cũng ở trên nền nhà. Tôi vội tìm đến Ban Tổ Chức và khiếu nại, hỏi tại sao họ không treo những bản in đẹp như vậy trên những tấm pa nô trên tường. Họ cười và giải thích cho tôi rằng, xem áp phích trên tường là thế hệ trung niên hay người già. Những người trẻ, những bác sĩ sắp hay mới ra trường chỉ nhìn xuống đất vì khi họ đi thì họ đang cầm smartphone trên tay nên luôn cúi xuống dưới. Chính những hình ảnh dưới đất mới đập vào mắt họ. Nghe đến đây tôi mới chưng hửng và chỉ biết ngậm mà nghe. Tôi liên tưởng ngay đến thế hệ của những chàng gù cúi gầm xuống trước, hay thế hệ của những khỉ vượn.Nếu họ hiểu được tiếng Việt thì chắc tôi sẽ đáp lại rằng: đúng là trò khỉ! Trong giây phút ấy tôi nghĩ ngay đến ông Darwin.

Nhưng ông Darwin ơi, ông đã từ giãcuộc đời này quá sớm,đã hơn 200 năm rồi còn chi. Ông có ngờ được rằng, con người ta bây giờ đang ở trong quá trình quay trở lại gần gũi với thủy tổ của mình, muốn trở lại thành khỉ. Không nói chơi, cũng có chứng minh khoa học hẳn hòi, chứng minh từ y khoa (là ngành học mà ông từng không ưa!). Theo nghiên cứu của một bác sĩ ở New South Waleslà một tiểu bangđông dân nhất nằm ở phía đông nam nước Úcđã từng công bố sự kiện này trong một bài viết mang tựa đề: những trẻ em bị gù lưng vì nghiện ngập xài  smartphone.

Trong một bài báo của tác giả Lindsey Bever đăng trên trang mạng của The Washington Post ngày 20.11.14 có báo động rằng:  cái cổ của việc bấm tin nhắn đang là một đại họa và có thể phá hư cột xương sống của bạn – „Text neck“ is becoming an „epidemic“ and could wreck your spine. Bài viết còn dẫn hình ảnh sau:

Khi hoan cot khi (2)Nguồn: www.washingtonpost.com

Bài báo trích dẫn hình với lời giải thích của bác sĩ Ken Hansraj nói là: cái đầu của con người ta thông thường cân nặng khoảng 10 pounds (tức 4,5 kg - đơn vị pound, viết tắt là lb tính tương đương 0,45 kg). Nhưng khi cổ cúi xuống phía trước thì trọng lượng đè lên cột xương sống sẽ tăng thêm. Cúi xuống 15 độ trọng lượng sẽ thành 27 lbs (12,3 kg), ở 30 độ là 40 lbs (18 kg), ở 60 độ là 60 lbs (27,2 kg). Như thế càng cúi xuống phía trước theo tư thế như thường thấy hiện nay khi người ta xử dụng smartphone, thì trọng lượng càng tăng và cái đầu trở thành tảng đá nặng đè lên cột xương sống.Quan sát những người bấm tin nhắn hay xài mạng xã hội đầu của họ luôn luôn cúi xuống trước, dù đang đứng hay ngồi. Thử tưởng tượng, cột sống ta phải vác một trọng lượng gần 30 kg suốt cả ngày thì làm sao kham nỗi. Nghĩ kỹ lại mới thấy động tác ngồi thiền, lưng thẳng đầu thẳng hai tay buông lõng phía trước  thật là tuyệt vời và hợp khoa học.

khivanhoancotkhi_Page_4Theo Jenny Awford của nhật báo Daily Mail của Anh, chi nhánh tại Úc trên trang mạng của Daily Mail [[i]]ngày 16.10.2015 đăng tải một nghiên cứu của bác sĩ James Carter với tiêu đề: Ảnh X-Quang qua công bố của Bác sĩ James Carter đã gây chấn động. Bác sĩ Carter đã nghiên cứuquan sát các học sinh trong vòng suốt 2 năm, nhận thấy khi các học sinh này xử dụng smartphone để gởi tin nhắn thì đầu họ cúi gầm xuống phía trước. Những hình chụp X-Quang cho thấy dấu hiệu chắc chắn họ sẽ bị lưng gù: „thay vì một đường cong về phía trước (hình trái) bình thường thì có thể nhìn thấy ở những bệnh nhân này một đường cong ngược lại (hình mặt) như những người bị gù lưng“.

 

Dựa vào những dẫn chứng trên, ta kết luận rằng việc bị lưng gù cho những người thường xử dụng smartphone để viết những tin nhắn, từ trẻ em cho đến người lớn là việc chắc chắn. Ngoài ra, y khoa cũng khuyến cáo rằng, nếu xử dụng quá nhiều smartphone, ipad, tablet… có thể bị nhiều chứng bệnh khác, như bị nhứt đầu, bị rối loạn thần kinh, bị yếu mắt, bị các chứng bệnh tâm lý v.v…

Từ loài khỉ thủy tổ tiến lên làm người cần đến mấy triệu năm, nhưng từ người đến khỉ - ít nhất trong cái nhìn cơ thể học của y khoa bây giờ-chỉ cần mấy mươi năm thôi.  Chiếc máy điện thoại thông minh, xem như là chiếc máy smartphone đầu tiên, mặc dù lúc ấy vẫn còn khá đơn giản, là máy Simon của hãng IBM ra mắt vào năm 1994. Nhưng thật ra chiếc smartphone chỉ được xử dụng phổbiến trong vòng mười năm nay thôi. 

Không những trẻ em lỡ lầm nghiện ngập xử dụng smartphone, mà bây giờ hầu như mọi người ở mọi lứa tuổi. Một người cha viết trên mạng rằng, người con trai bảy tuổi xin phép  hẹn với ba người bạn cùng lớp đến nhà chơi. Không nghe thấy động tĩnh gì trong phòng của con, ông ta hơi lo nên mới ghé mắt vào thì thấy cả bốn em đều nằm sấp dưới đất và „nói chuyện“ với nhau bằng smartphone qua mạng xã hội. Một người bạn của tôi kể rằng, có người cháu kêu bằng cậu đem bạn gái mới quen đến giới thiệu với cậuút, sau khi chào hỏi và mời uống nước hai người trẻ mỗi người một góc ghếxôpha trong phòng khách và bấm máy. Cậu út chỉ biết ngồi nhìn hai cháu và không dám lên tiếng vì sợ làm phiền! Chuyện này bây giờ rất thường xảy ra ở mọi nơi. Vậy mà có nơi chính phủ còn khuyến khích, tạo điều kiện cho người dùng xử dụng nó thường hơn. Điển hình ở Washington Hoa Kỳ và ở Trùng Khánh Trung quốc, chính phủ đã lập ra những con đường dành riêng cho người đi bộ xử dụng điện thoại. Không biết việc ấy là việc nên khuyến khích hay không?

Khi hoan cot khi (4)Đường dành riêng cho người xử dụng

smartphone ở trung tâm Washington

Khi hoan cot khi (5)

Đường bộ hành dành riêng cho người xài smartphone ở Trùng Khánh, Trung quốc


[3]

Đi đâu, về đâu?

Dĩ nhiên, hầu như bây giờ chúng ta ai cũng xử dụng smartphone và ai cũng biết những tiện lợi vô cùng của nó. Tôi cũng đã dùng nó không chỉ để điện thoại mà còn để chụp hình, để thu những bài pháp thoại, để nghe nhạc haysách nói, nghe kinh hay bài giảng trên xe, để ghi chú khi không có giấy và viết sẵn… Nó đúng là một chiếc máy bỏ túi đa dụng. Tôi xin tiết lộ một bí mật đã giữ kín lâu nay. Khi tôi lạy sám hối ở nhà, nếu vừa xướng vừa lạy tôi thường bị hụt hơi do yếu tim, tôi bènnhờ smartphone xướng giùm (do đã thu sẵn vào) và miệng chỉ lẩm bẩm theo thôi, nhờ cách ấy mà tôi có thể thở đều khi lạy và mọi chuyện được êm thắm.Cám ơncái smartphonegiúp tâm tôi an đôi chút, không tán loạn vì cứ lo đứng tim. Tội từ tâm khởi đem tâm sám, tâm được tịnh rồi tội liền tiêu…

Vấn đề của chúng ta hôm nay là cần xác định rõ, giữa máy và người thì ai là chủ ai là tớ. Nếu con người là chủ thì tại sao bất cứ lúc nào suốt hai mươi bốn giờ trong ngày hễ máy réo lên một tiếng thì tên nô lệ ấy lại phải chạy đến máy ngay, kể cả khi ăn hay khi ngủ?

Dù bạn theo tôn giáo nào đi nữa, bạn phải công nhận rằng cuộc đời này chỉ là một quán trọ, hết thời gian trọ lại ra đi. Đi đâu thì mỗi người chọn cho mình một cách khác nhau. Tôi không dám bàn đến những quan điểm thiên đường của những tôn giáo khác, chỉ biết rằng chốn thiên đường của những tôn giáo lớn đều không có chỗ cho loài vật, kể cả những chú khỉ thông minh quá khỉ (ngoại trừ những lời an ủi của Giáo Hoàng Phanxicôvào 12.2014 vừa qua với một em bé khi chú chó của em bị chết và đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận). Tôi chỉ xin phép nói về lãnh vực mình có biết đôi chút, đó là Phật Giáo.

Theo Phật Giáo, chúng sanh mọi loài là  chúng sinh trong mười cảnh giới. Trong Kinh thường gọi là mười pháp giới. Mười pháp giới lại được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gọi là Tứ thánh, gồm 4 phẩm vị là Phật -  Bồ Tát - Duyên Giác - Thanh Văn. Nhóm thứ hai gọi là Lục phàm (sáu nẻo luân hồi). Lục phàmlại phân chia làm 2 tiểu nhóm, đó làTam thiện đạo, gồm 3 loàiThiên – Nhơn - A Tu LaTam ác đạo, gồm 3 loàiĐịa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh.Trong Thập giới, bốn bậc chúng sanh phía trên thì được giải thoát tự tại, nên gọi là Tứ Thánh (bốn bực Thánh), còn sáu bậc dưới chưa giác ngộ, còn luân chuyển trong sáu cảnh giới luân hồi, gọi là Lục phàm (sáu hạng phàm phu). Riêng trong Lục phàm chúng sanh ở ba cảnh: Thiên, Nhơn, A Tu La trước có làm lành và hiện thời có thể tu tập thiện nghiệp, nên người ta gọi ba cảnh ấy là Tam thiện đạo(ba đường lành). Còn chúng sanh ở ba cảnh sau: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trước đã phạm nhiều tội nặng về thập ác, ngũ nghịch, nay phải chịu hình phạt và hiện thời khó tu các việc lành, nên người ta kêu ba cảnh ấy là Tam ác đạo (ba đường dữ).

Súc sanhcảnh giới thấp trong thập giới, thuộc cảnh giới Tam ác đạo. Từ súc sanh đến con người (nhơn) ta đã bước một bước rất dài, phải tạo bao nhiêu phước đức, phải siêng năng tu tập nhiều đời kiếp mới được  thân người như hôm nay.

Câu chuyện lý thuyết thủy tổ khỉ của loài người theo ông Darwin đúng hay không đúng, chuyện ấy xin phép miễn bàn ở đây. Chuyện của chúng ta là, chẳng lẽ chỉ vì „mạng xã hội“ hay vì mối tìnhấp ủ với smartphone mà ta xuôi tay để mang thân hình khỉ thì đáng buồn lắm. Không biết nói, không biết ca hát, chỉ chéc chéc suốt ngày thì tội nghiệp lắm. Có ai muốn mình trôi dạt xuống làm súc sinh đâu!

Nhắc nhau để mỗi người chọn cho mình một cách đi.

Còn nếu ai đó, nhất là các bạn trẻ,vẫn cứ muốn là khỉ thì hãy xem những lời cảnh báo này chỉ là „rung cây nhát khỉ“.

Rốt cuộc, khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Rõ khỉ !

Khi hoan cot khi (6)

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

(Đức Quốc)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23032)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14055)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 12979)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55114)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9172)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14447)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14166)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14208)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13893)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36323)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19886)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18168)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19225)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19158)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20292)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17640)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31536)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15943)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15023)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14690)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46176)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 35945)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21050)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21602)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23401)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34384)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19491)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18949)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22942)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20195)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18373)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19845)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19533)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33420)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34483)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54526)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37729)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21137)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17883)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63656)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17391)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49660)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27445)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20278)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23040)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18894)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16326)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17924)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 20939)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17369)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14474)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16867)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16375)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 15997)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17480)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 21984)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15107)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13507)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14370)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15402)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 14997)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12700)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13352)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27398)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12517)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13191)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14489)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16243)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12411)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15421)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12870)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12205)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13203)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21655)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11282)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22734)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15087)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14951)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46192)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22459)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14586)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12621)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18907)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14740)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43866)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 56974)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13842)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47504)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13660)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14579)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29014)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33320)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38389)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15405)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31236)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12532)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40395)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43423)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46667)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14422)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant