Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

21 Tháng Giêng 201620:04(Xem: 12444)
Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

Khỉ Vẫn Hoàn Cốt Khỉ

Tản mạn những vượn khỉ trong năm khỉ vượn

Nguyên Đạo

Khi hoan cot khi (1)[1]

 Chuyện dài của ông Khoa học

Đó là chuyện ông Darwin với chuyện khỉ vượn thành người.  Tôi không có tham vọngviết nhiều về Thuyết tiến hóa cũng không tham vọng viết ra đây cuộc đời của Charles Darwin (1809-1882). Nhưng đã nhắc tới tên vị bác học cha đẻ củaThuyết tiến hóa thì không thể không nhắc sơ lược về cuộc đời của con người vĩ đại ấy. Trong những cái vĩ đại, cái vĩ đại nhất theo cái nhìn của tôi, ông là một con người sống trong thời phục hưng của châu Âuhơn 200 năm trước đây mà dám ngang nhiên công bố phát minh của mình, coi thường những lý thuyết thần học và những thảm họa có thể ập lên đầu mình. Việc này có thể dẫn đến rất nhiều nguy hiểm cho ông và cả gia đình ông.

Vậy ông Darwin tuyên bố cái gì?

Thưa, ông ấy đã dám nóilà: Thủy tổ con người có gốc gác họ hàng loài khỉđột chứ không phải cặp nhân tình Eva và Adam.

Trong lịch sử nhân loại cũng đã có những tấm gương anh dũng như thếvào thời cuối trung cổ ở châu Âu. Xin nêu vài ví dụ.

Ông Nicolaus Copernicus (1473-1543) đã đưa ra thuyết Nhật tâm (các hành tinh, kể cả trái đất, quay chung quanh mặt trời). Việc công bố thuyết này dĩ nhiên là cái gaicho nhà thờ vì tới thời gian ấy Giáo hội La Mã vẫn nói là trái đất đứng yên và là trung tâm của vũ trụ. Mặt trời mặt trăng phải quay quanh nó. Ông đã bị Giáo hội xứ án treo cổ chết vào tháng 5 năm 1543.Sau khi ông mất những học trò và bạn hữu đã ghi một dòng chữtrên phần mộ của ông: „Người đã giữ mặt trời và đẩy trái đất chuyển động“.

Rồi cả  trăm năm sau đến ông Galileo Galilei (1564-1642) lại lên tiếng bênh vực cho thuyết Nhật tâm này, lại cũng bị Tòa án Dị giáo của La Mã dùng mọi hình nhục bắt buộc ông phải thú nhận rằng ông đã sai lầm. Vì nghĩ đến gia đình và con cái, ông già 69 tuổi ấy đành phải quỳ gối trước nhà thờ và cúi đầu nói: „Tôi xin từ bỏ ý nghĩ sai lầm của mình, rằng mặt trờitrung tâm của vũ trụ“. Nhưng lúc đứng lên ông lẩm bẩm trong miệng: „Eppur si muove! – dù gì thì trái đất vẫn quay“.

May mắn cho chúng ta là đến thế kỷ 20 và 21 những ảnh hưởng hay áp lực của nhà thờ đối vối lĩnh vực khoa học không còn nặng nề như xưa nữa. Không những thế nhà thờ còn có những chương trình từ thiện xã hội đáng kể. Gần đây dưới quyền của Giáo hoàng Phanxicô gốc người Argentina đã có rất nhiều cởi mở và tạo nhiều nhịp cầu đối thoại với các tôn giáo khác. Sự kiện nhà thờ Thiên chúa giáo trao tặng giải Pacem in Terris (tạm dịch: Bình An Dưới Thế) cho Thiền Sư Nhất Hạnh vào 31.10.2015 là một ví dụ điển hình.

Quay lại chuyện ông Darwin, ông ấy là ai mà dám nói rằng ông bà của chính ông và kể cả ông bà củachúng tagốc như khỉ vượn?

Ông Darwin người Anh, sinh năm 1809. Ông nội của ông là một bác học, cha ông ta là bác sĩ. Ông theo cha thực tập để học y khoa nhưng thấy không thích hợp nên bỏ học. Việc này làm cha ông nổi giận và bắt ông vào học cử nhân thần học ở  trường Christ´s College Cambridge để có thể trở thành thầy dòng. Việc học ở đây lại cũng chẳng mang lại hứng thú gì lắm, dù sau đó ông cũng đã thi đậu kỳ thi tốt nghiệp. Bước ngoặc lớn của cuộc đời ông bắt đầu từ ngày ông tham gia chuyến hải trình năm năm dàitrên tàu MHS Beagle đi nghiên cứu thực vậtđộng vật học dọc các bờ biển ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở nam bán cầu.

Khi hoan cot khi (1)
Nguồn: Wikipedia

 Trong thời gian này Darwin đã phát hiện ra những biến dạng của cuộc sống hữu cơ, liên hệ đến sự hình thành đời sống con người. Năm 1836, về nước Charles Darwin còn ngần ngại chưa dám công bố ngay những phát kiến của mình. Qua một bản phác thảo vào năm 1837, Darwin ghilại trong mộthọa đồ nhằm ghi chú về „cây gia phả“ nguồn gốc của sinh vật, ông chỉ dám ghi là: "Tôi nghĩ rằng - I think“. Lý do là vì ông thừa biết rằng nhà thờ không thể chấp nhận một lý thuyết nào khác, khi kinh Thánh đã xác định rõ ra rằng: con người là do đức Chúa Trời tạo ra.Những áp lực không những từ ngoài xã hội mà cả trong gia đình.Chính vợ ông, bà Emma là một tín đồ trung kiên, đã dần dần thấy xa chồng vì lo rằng khoa học và quỷ sa-tăng đã dẫn ông đi xa khỏi đức tin của gia đình. Bà lo lắng ông sẽ bị trừng phạt, nghĩa là ông sẽ xa bà vĩnh viễn trên chốn thiên đường.

Chần chừ mãi cho đến hơn hai mươi năm sau, vào 24.11.1859 tác phẩm Nguồn Gốc của Muôn Loài - On the Origin of Species mới được ra đời, đã đề cập đến nguồn gốc của con người. Tác phẩm này đã gây chấn động trong giới khoa học và là cái gai lớn đối với nhà thờ, họ thường xuyên công kích quan điểm vô thần này của ông. Do bị nhiều chứng bệnh (bao tử, áp huyết, tim mạch…) nên ông lạiít khi xuất hiện trước công chúng để bênh vực Thuyết tiến hóa  của mình. Tuy nhiên cũng có nhiều nhà khoa học tin tưởng sâu sắc và lên tiếng bảo vệ lý thuyết của ông, ví dụ như giáo sưThomasHuxley. Một lần vào tháng sáu năm 1860 tại đại học thành phố Oxford,„Hiệp Hội Phát Triển Khoa Học Anh Quốc - British Association for the Advancement of Science“trong một cuộc hội thảo khoa học, chính Đức Giám mục Samuel Wilberforce vốn là một nhà hùng biện đã lên diễn đàn đưa ra những chỉ trích bác bỏ Thuyết tiến hóa  với những lời nói hùng hồn lôi cuốn,được cử tọa rất tán thưởng. Khán giả đã có những tràng pháo tay và cười ồ khoái trá khi Giám mục phê bình mỉa mai về Thuyết tiến hóa. Cuối cùng Giám mục Wilberforce hướng về phía giáo sư Thomas Huxley đang ngồi trong hội trường và hỏi: "Thưa ông Huxley, tôi muốn hỏi ông, ông nghĩ rằng ông đến từ con khỉ, vậy là từ ông nội ông hay là từ cha của ông?". Khán giả cùng cười ồ và vỗ tay. Lúc đó giáo sư Huxley mới đĩnh đạc bước lên diễn đàn. Ông trình bày cặn kẽ về Thuyết tiến hóa  của Darwin,  chứng minh rằng những cái nhìn của Giám mục Wilberforce là đầy thành kiếnsai lầm. Giáo sư cũng trả lời vị Giám mục thành phố Oxford rằng: "Tôi nghĩ rằng chẳng có gì hổ thẹn cho một người có ông nội là khỉ. Nếu có gì đáng hổ thẹn về tổ tiên của tôi, thì đó là vì tổ tiên của tôi là người: một người có trí thức nông cạn và bất nhất, một người không biết tự bằng lòng với thành công trong lĩnh vực riêng của mình, lại hăm hở can thiệp vào những vấn đề khoa học hoàn toàn xa lạ, làm tối tăm vấn đề bằng thứ từ chương rỗng tuếch, đánh lạc hướng chú ý của cử tọa để khỏi đi vào những vấn đề thực sự đặt ra bằng lối nói lạc đề đầy hùng biện và những hô hào đầy thành kiến tôn giáo".Lần này khán giả mới sững sờ và một lần nữa vỗ tay tán thưởng vang dội, không phải Giám mục Wilberforce mà là tán thưởng giáo sư Huxley, tiếng vỗ tay dường như không muốn dứt.[[i]]

Lại phải chờ thêmmười hai năm nữa, vào năm 1871 ông Darwin mới cho ra đời cuốn “Dòng dõi của Con Người - The Descent of Man. Qua đấy ông xác định rõ hơn những liên hệ giữa loài người và loài khỉ.Những phát minh này của Charles Darwin không những chỉ giá trị trong phạm vi sinh học mà còn có ảnh hưởng lớn đến các ngành kháctừ Thiên văn tới Lịch sử, từ môn Cổ sinh vật tới Tâm lý học, từ ngành Phôi thai học tới Tôn giáo. Charles Darwin mất vào ngày 19.04.1882 vì bệnh tim.Lúc này lý thuyết của ông đã được nhiều người công nhận nên tin buồn đã được nhanh chóng đăng tải trên báo chí. Nhật báo London Standard đã viết rằng: “Các tín đồ Thiên Chúa Giáo chân chính có thể chấp nhận các sự kiện của Thuyếttiến hóa giống như họ đã làm đối với ngành Thiên văn và ngành Địa chất, không vì các thành kiến do các niềm tin lâu đời và được ưa thích”. Tro cốt của ông được đặt cạnh vị trí của nhà khoa học Isaac Newton bên trong Tu viện Westminster London, xứng đáng là một nhà khoa học lớn của nhân loại.

 

Không cố ý nhưng tôi lại sa đà vào chuyện ông Darwin. Tôi chỉ muốn xin nói rằng, ông CharlesDarwin đã chứng minh rằng tất cả những sinh vật đều đã tiến hóa thích ứng với môi trường sống. Thế nên từ loài bốn chân, con khỉ đã từ từ đứng lom khom dậy và bắt đầu đi thẳng bằng hai chân, đầu ngẩng cao lên phía trước như con người chúng ta bây giờ. Quá trình ấy phải cần đến mấy triệu năm!


[2]

Rồi người lại thành khỉ.


Tháng rồi nơi tôi đang làm việc có tổ chức một hội nghị nhằm khuyến khích những sinh viên tốt nghiệp y khoa đi về làm việc ở những vùng nông thôn, nhất là những vùng ở miền đông nước Đức. Vừa đẩy cửa bước vào phía ngoài khu giảng đường là phải dẫm chân ngay lên một tấm áp phích có in hình hai người bác sĩ dán trên nền nhà. Tôi rất khó chịu nên cố tránh đạp lên khuôn mặt của họ, dù đó chỉ là một bức hình. Vào bên trong thấy cũng còn có vài tấm hình như thế được dán dọc hành lang, dĩ nhiên cũng ở trên nền nhà. Tôi vội tìm đến Ban Tổ Chức và khiếu nại, hỏi tại sao họ không treo những bản in đẹp như vậy trên những tấm pa nô trên tường. Họ cười và giải thích cho tôi rằng, xem áp phích trên tường là thế hệ trung niên hay người già. Những người trẻ, những bác sĩ sắp hay mới ra trường chỉ nhìn xuống đất vì khi họ đi thì họ đang cầm smartphone trên tay nên luôn cúi xuống dưới. Chính những hình ảnh dưới đất mới đập vào mắt họ. Nghe đến đây tôi mới chưng hửng và chỉ biết ngậm mà nghe. Tôi liên tưởng ngay đến thế hệ của những chàng gù cúi gầm xuống trước, hay thế hệ của những khỉ vượn.Nếu họ hiểu được tiếng Việt thì chắc tôi sẽ đáp lại rằng: đúng là trò khỉ! Trong giây phút ấy tôi nghĩ ngay đến ông Darwin.

Nhưng ông Darwin ơi, ông đã từ giãcuộc đời này quá sớm,đã hơn 200 năm rồi còn chi. Ông có ngờ được rằng, con người ta bây giờ đang ở trong quá trình quay trở lại gần gũi với thủy tổ của mình, muốn trở lại thành khỉ. Không nói chơi, cũng có chứng minh khoa học hẳn hòi, chứng minh từ y khoa (là ngành học mà ông từng không ưa!). Theo nghiên cứu của một bác sĩ ở New South Waleslà một tiểu bangđông dân nhất nằm ở phía đông nam nước Úcđã từng công bố sự kiện này trong một bài viết mang tựa đề: những trẻ em bị gù lưng vì nghiện ngập xài  smartphone.

Trong một bài báo của tác giả Lindsey Bever đăng trên trang mạng của The Washington Post ngày 20.11.14 có báo động rằng:  cái cổ của việc bấm tin nhắn đang là một đại họa và có thể phá hư cột xương sống của bạn – „Text neck“ is becoming an „epidemic“ and could wreck your spine. Bài viết còn dẫn hình ảnh sau:

Khi hoan cot khi (2)Nguồn: www.washingtonpost.com

Bài báo trích dẫn hình với lời giải thích của bác sĩ Ken Hansraj nói là: cái đầu của con người ta thông thường cân nặng khoảng 10 pounds (tức 4,5 kg - đơn vị pound, viết tắt là lb tính tương đương 0,45 kg). Nhưng khi cổ cúi xuống phía trước thì trọng lượng đè lên cột xương sống sẽ tăng thêm. Cúi xuống 15 độ trọng lượng sẽ thành 27 lbs (12,3 kg), ở 30 độ là 40 lbs (18 kg), ở 60 độ là 60 lbs (27,2 kg). Như thế càng cúi xuống phía trước theo tư thế như thường thấy hiện nay khi người ta xử dụng smartphone, thì trọng lượng càng tăng và cái đầu trở thành tảng đá nặng đè lên cột xương sống.Quan sát những người bấm tin nhắn hay xài mạng xã hội đầu của họ luôn luôn cúi xuống trước, dù đang đứng hay ngồi. Thử tưởng tượng, cột sống ta phải vác một trọng lượng gần 30 kg suốt cả ngày thì làm sao kham nỗi. Nghĩ kỹ lại mới thấy động tác ngồi thiền, lưng thẳng đầu thẳng hai tay buông lõng phía trước  thật là tuyệt vời và hợp khoa học.

khivanhoancotkhi_Page_4Theo Jenny Awford của nhật báo Daily Mail của Anh, chi nhánh tại Úc trên trang mạng của Daily Mail [[i]]ngày 16.10.2015 đăng tải một nghiên cứu của bác sĩ James Carter với tiêu đề: Ảnh X-Quang qua công bố của Bác sĩ James Carter đã gây chấn động. Bác sĩ Carter đã nghiên cứuquan sát các học sinh trong vòng suốt 2 năm, nhận thấy khi các học sinh này xử dụng smartphone để gởi tin nhắn thì đầu họ cúi gầm xuống phía trước. Những hình chụp X-Quang cho thấy dấu hiệu chắc chắn họ sẽ bị lưng gù: „thay vì một đường cong về phía trước (hình trái) bình thường thì có thể nhìn thấy ở những bệnh nhân này một đường cong ngược lại (hình mặt) như những người bị gù lưng“.

 

Dựa vào những dẫn chứng trên, ta kết luận rằng việc bị lưng gù cho những người thường xử dụng smartphone để viết những tin nhắn, từ trẻ em cho đến người lớn là việc chắc chắn. Ngoài ra, y khoa cũng khuyến cáo rằng, nếu xử dụng quá nhiều smartphone, ipad, tablet… có thể bị nhiều chứng bệnh khác, như bị nhứt đầu, bị rối loạn thần kinh, bị yếu mắt, bị các chứng bệnh tâm lý v.v…

Từ loài khỉ thủy tổ tiến lên làm người cần đến mấy triệu năm, nhưng từ người đến khỉ - ít nhất trong cái nhìn cơ thể học của y khoa bây giờ-chỉ cần mấy mươi năm thôi.  Chiếc máy điện thoại thông minh, xem như là chiếc máy smartphone đầu tiên, mặc dù lúc ấy vẫn còn khá đơn giản, là máy Simon của hãng IBM ra mắt vào năm 1994. Nhưng thật ra chiếc smartphone chỉ được xử dụng phổbiến trong vòng mười năm nay thôi. 

Không những trẻ em lỡ lầm nghiện ngập xử dụng smartphone, mà bây giờ hầu như mọi người ở mọi lứa tuổi. Một người cha viết trên mạng rằng, người con trai bảy tuổi xin phép  hẹn với ba người bạn cùng lớp đến nhà chơi. Không nghe thấy động tĩnh gì trong phòng của con, ông ta hơi lo nên mới ghé mắt vào thì thấy cả bốn em đều nằm sấp dưới đất và „nói chuyện“ với nhau bằng smartphone qua mạng xã hội. Một người bạn của tôi kể rằng, có người cháu kêu bằng cậu đem bạn gái mới quen đến giới thiệu với cậuút, sau khi chào hỏi và mời uống nước hai người trẻ mỗi người một góc ghếxôpha trong phòng khách và bấm máy. Cậu út chỉ biết ngồi nhìn hai cháu và không dám lên tiếng vì sợ làm phiền! Chuyện này bây giờ rất thường xảy ra ở mọi nơi. Vậy mà có nơi chính phủ còn khuyến khích, tạo điều kiện cho người dùng xử dụng nó thường hơn. Điển hình ở Washington Hoa Kỳ và ở Trùng Khánh Trung quốc, chính phủ đã lập ra những con đường dành riêng cho người đi bộ xử dụng điện thoại. Không biết việc ấy là việc nên khuyến khích hay không?

Khi hoan cot khi (4)Đường dành riêng cho người xử dụng

smartphone ở trung tâm Washington

Khi hoan cot khi (5)

Đường bộ hành dành riêng cho người xài smartphone ở Trùng Khánh, Trung quốc


[3]

Đi đâu, về đâu?

Dĩ nhiên, hầu như bây giờ chúng ta ai cũng xử dụng smartphone và ai cũng biết những tiện lợi vô cùng của nó. Tôi cũng đã dùng nó không chỉ để điện thoại mà còn để chụp hình, để thu những bài pháp thoại, để nghe nhạc haysách nói, nghe kinh hay bài giảng trên xe, để ghi chú khi không có giấy và viết sẵn… Nó đúng là một chiếc máy bỏ túi đa dụng. Tôi xin tiết lộ một bí mật đã giữ kín lâu nay. Khi tôi lạy sám hối ở nhà, nếu vừa xướng vừa lạy tôi thường bị hụt hơi do yếu tim, tôi bènnhờ smartphone xướng giùm (do đã thu sẵn vào) và miệng chỉ lẩm bẩm theo thôi, nhờ cách ấy mà tôi có thể thở đều khi lạy và mọi chuyện được êm thắm.Cám ơncái smartphonegiúp tâm tôi an đôi chút, không tán loạn vì cứ lo đứng tim. Tội từ tâm khởi đem tâm sám, tâm được tịnh rồi tội liền tiêu…

Vấn đề của chúng ta hôm nay là cần xác định rõ, giữa máy và người thì ai là chủ ai là tớ. Nếu con người là chủ thì tại sao bất cứ lúc nào suốt hai mươi bốn giờ trong ngày hễ máy réo lên một tiếng thì tên nô lệ ấy lại phải chạy đến máy ngay, kể cả khi ăn hay khi ngủ?

Dù bạn theo tôn giáo nào đi nữa, bạn phải công nhận rằng cuộc đời này chỉ là một quán trọ, hết thời gian trọ lại ra đi. Đi đâu thì mỗi người chọn cho mình một cách khác nhau. Tôi không dám bàn đến những quan điểm thiên đường của những tôn giáo khác, chỉ biết rằng chốn thiên đường của những tôn giáo lớn đều không có chỗ cho loài vật, kể cả những chú khỉ thông minh quá khỉ (ngoại trừ những lời an ủi của Giáo Hoàng Phanxicôvào 12.2014 vừa qua với một em bé khi chú chó của em bị chết và đã tạo ra nhiều cuộc tranh luận). Tôi chỉ xin phép nói về lãnh vực mình có biết đôi chút, đó là Phật Giáo.

Theo Phật Giáo, chúng sanh mọi loài là  chúng sinh trong mười cảnh giới. Trong Kinh thường gọi là mười pháp giới. Mười pháp giới lại được chia làm hai nhóm. Nhóm thứ nhất gọi là Tứ thánh, gồm 4 phẩm vị là Phật -  Bồ Tát - Duyên Giác - Thanh Văn. Nhóm thứ hai gọi là Lục phàm (sáu nẻo luân hồi). Lục phàmlại phân chia làm 2 tiểu nhóm, đó làTam thiện đạo, gồm 3 loàiThiên – Nhơn - A Tu LaTam ác đạo, gồm 3 loàiĐịa ngục - Ngạ quỷ - Súc sanh.Trong Thập giới, bốn bậc chúng sanh phía trên thì được giải thoát tự tại, nên gọi là Tứ Thánh (bốn bực Thánh), còn sáu bậc dưới chưa giác ngộ, còn luân chuyển trong sáu cảnh giới luân hồi, gọi là Lục phàm (sáu hạng phàm phu). Riêng trong Lục phàm chúng sanh ở ba cảnh: Thiên, Nhơn, A Tu La trước có làm lành và hiện thời có thể tu tập thiện nghiệp, nên người ta gọi ba cảnh ấy là Tam thiện đạo(ba đường lành). Còn chúng sanh ở ba cảnh sau: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, trước đã phạm nhiều tội nặng về thập ác, ngũ nghịch, nay phải chịu hình phạt và hiện thời khó tu các việc lành, nên người ta kêu ba cảnh ấy là Tam ác đạo (ba đường dữ).

Súc sanhcảnh giới thấp trong thập giới, thuộc cảnh giới Tam ác đạo. Từ súc sanh đến con người (nhơn) ta đã bước một bước rất dài, phải tạo bao nhiêu phước đức, phải siêng năng tu tập nhiều đời kiếp mới được  thân người như hôm nay.

Câu chuyện lý thuyết thủy tổ khỉ của loài người theo ông Darwin đúng hay không đúng, chuyện ấy xin phép miễn bàn ở đây. Chuyện của chúng ta là, chẳng lẽ chỉ vì „mạng xã hội“ hay vì mối tìnhấp ủ với smartphone mà ta xuôi tay để mang thân hình khỉ thì đáng buồn lắm. Không biết nói, không biết ca hát, chỉ chéc chéc suốt ngày thì tội nghiệp lắm. Có ai muốn mình trôi dạt xuống làm súc sinh đâu!

Nhắc nhau để mỗi người chọn cho mình một cách đi.

Còn nếu ai đó, nhất là các bạn trẻ,vẫn cứ muốn là khỉ thì hãy xem những lời cảnh báo này chỉ là „rung cây nhát khỉ“.

Rốt cuộc, khỉ vẫn hoàn cốt khỉ. Rõ khỉ !

Khi hoan cot khi (6)

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

(Đức Quốc)



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14146)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39715)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15314)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13881)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13928)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37332)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40061)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14641)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14312)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12656)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14831)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19215)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13796)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42625)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13831)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37260)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12674)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11761)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22545)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12510)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12571)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13062)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13112)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17267)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33247)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14835)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11047)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12455)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11959)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11935)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13131)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51264)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12381)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6615)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30411)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13124)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13331)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30681)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19365)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12478)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11843)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14763)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13194)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13195)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30686)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12042)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12726)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31900)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29413)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11782)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11750)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10427)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11564)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9641)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9660)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9990)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35401)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10148)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10098)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10046)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9659)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27802)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15496)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9851)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13683)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9845)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9693)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18321)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12044)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9572)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9694)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8714)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8916)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8417)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11482)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31734)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12335)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13319)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8828)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9442)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11938)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9226)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9073)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9669)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29360)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9076)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9104)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33245)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8432)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30606)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31227)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37121)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32254)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9934)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27098)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8450)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19237)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13012)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
(Xem: 9785)
Câu chuyện của Tôn giả Mục-kiền-liên trong quá khứhiện tại như vậy là một bài học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant