Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự Vấn Về Pháp Môn Tịnh Độ

07 Tháng Năm 201620:30(Xem: 11805)
Tự Vấn Về Pháp Môn Tịnh Độ

TỰ VẤN VỀ PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ

Lưu Tâm Lực

Tự Vấn Về Pháp Môn Tịnh Độ

 

Lời bạt: Hiện tại có một số đông người tu học theo pháp Phật đã không ngớt lời chê bai pháp-môn Tịnh-độ không phải là Chánh-pháp Phật mà là do Tàu lồng vào đó để lũng đoạn.....

Tôi cũng chỉ là người tu học pháp Phật kém cõi, nhưng cũng cố gắng nói lên nỗi niềm thô thiển về cách học và tu theo pháp môn nầy mong sao được chỉ giáo thêm...

Đây là những gì tôi tư duy khi theo pháp môn nầy dưới dạng tự vấn.

H. Pháp môn Tịnh-độ là gì ?

Đ. Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phương chúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi" khi không còn Phật tại thế. Tuy nhiên các pháp môn khác người hành trìthể đạt đạo (chứng tứ quả) khi Đức Phật Thích-Ca còn tại thế. Chúng ta nên nhớ rằng có thể đạt đạo chứ chưa phải là thành Phật. Mà chưa thành Phật thì chưa đáp ứng được mục đích thị hiện của Đức Phật Thích-Ca.

H. Như thế pháp môn Tịnh-độ cao hơn các pháp môn khác hay sao ?

Đ. Không phải cao hơn khi Đức Phật Thích-Ca còn tại thế. Tuy nhiên pháp môn nầy trong thời kỳ cõi ta-bà rơi vào thời mạt pháp được Đức Phật khuyên nhắc người hành trì tu "pháp Phật" nên thọ lãnh thi hành để đạt đạo "liễu thoát sinh-tử" mà tiếp tục tu trì để thành Phật.

H. Tại sao pháp môn nầy chỉ được hành trì sau khi Đức Phật Đại-Bát-Niết-Bàn ?

Đ. Bởi lẽ khi Đức Phật còn tại thế thì sống thân cận Đức Phật cũng chẵng khác chi so với các Đức Phật khác. Tuy nhiên chúng ta phải nên nhớ là sống thân cận nghiã là trong phạm vi thần lực hào quang của Phật. Khi Thái-Tử thành Phật không phải là cõi ta-bà nầy đều trở thành cõi tịnh. Nói chính xác hơn thì chỉ còn có pháp môn nầy là hữu hiệu để đạt đạo khi không còn Đức Phật tại thế.

H. Phương pháp hành trì của pháp môn nầy là gì ?

Đ. Phương pháp hành trì của pháp môn nầy là niệm sáu chữ hồng danh như sau "Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật". Đây gọi là HẠNH hay hành nhưng còn phải có thêm NGUYỆN và TÍN hay tin. Có cã ba điều nầy thì chỉ mới là cần nhưng chưa đủ.

H. Tại sao ?

Đ. Điều kiện đủ đó là phải có tâm cầu "Vô-Thượng-Bồ-Đề". Vô-thượng-bồ-đề là cái giác cao tột không có gì cao hơn nữa. Mà chỉ có chứng ngôi vị Phật mới gọi là Vô-Thượng-Bồ-Đề. Người tu trì pháp-môn Tịnh-độ mà không có tâm cầu nầy thì sai với lời dạy của Đức Phật. Ba phẩm vãng sanh trong Kinh Vô-Lượng-Thọ Đức Phật có nói rõ. Nếu không có tâm cầu Vô-thượng Bồ-Đề thì có khác chi các tôn-giáo khác là làm theo lời vị Giáo-chủ để chỉ về đó thụ hưỡng chứ không thể thành như Giáo-chủ. Đức Phật thì không muốn cho những ai hành theo lời Phật dạy để về với Thế-Tôn mà muốn phải trở thành như Đức Phật. Bởi Đức Phật có dạy chúng sinh là Phật sẽ thành. Chúng ta nên nhớ rằng tâm cầu Vô-thượng Bồ-Đề ở đây để chúng ta quyết lòng thành Phật chứng Vô-thượng Bồ-Đề, chứ đừng sợ ta làm sao hành theo (y) như Phật cho được. Nếu ta thực sự hành theo như Phật trong khi tu trì thì còn gọi chi là tu trì. Chúng ta cũng luôn nên nhớ rằng ta được vãng sanh là để đủ duyên lành tu trì thành Phật chứ không phải vãng sanh là kết quả cuối cùng của sự tu trì. Đức Phật không muốn như vậy. Ngoài ra đây cũng là điểm để cho chúng ta tinh tấn suốt đời khi đã quyết định chọn cho mình con đường tu trì pháp môn tịnh-độ.

H. Như thế nào gọi là TÍN ?

Đ. Tôi xin ghi lời kinh "Niệm Phật Ba-La-Mật" do Đức Phật thuyết được dịch bởi Tỳ-Kheo Thích-thiền-Tâm như sau :

   1) Tín tâm nghiã là lòng tin chân thật vào lý nhân quả một cách sâu chắc, kiên cố và không hề nãy sanh một ý tưởng hoặc một hành vi trái ngược với lý nhân quả.

    2) Tin rằng kiếp sống thế gian là vô-thường, mạng người ngắn ngủi như hơi thở ra vào, tất cã các pháp hữu vi đều là huyễn hoá, không có chủ tể, niệm niệm sinh diệt không ngừng, từng sát na biến hoại chẳng nghỉ, tất cã đều đưa tới khổ não, vô minhtrói buộc.

   3) Tin rằng sáu nẽo luân hồi thật là nguy hiểm chướng nạn.

   4) Tin rằng Phật pháp chính là đạo giải thoát an vui, đạo của trí tuệ, của từ-bi, diệt khổ, cứu vớt chúng sinh chẳng chừa một hạng loài nào cã, đạo của Phật-Tri-Kiến.

   5) Tin rằng tất cã các pháp (hành) đều do tâm (sở) của mình tạo ra.

   6) Tin rằng mỗi mỗi chúng sinh đều có đủ năng lực lãnh thọ giáo pháp của Như-Lai.

   7) Tin rằng bản nguyện của Đức Phật A-Di-Đà là chân thật, rốt ráo, là tối thắng.

   8) Tin rằng pháp niệm Phật vãng sanh là môn tu duy nhất cho hết thảy mọi người, vì rời môn tu nầy thì mọi người mọi loài không thể giãi thoát, nếu phế bỏ môn tu nầy thì Chư Phật cũng không thể dùng một pháp nào khác để tế độ hết thảy hưũ tình đúng như bản nguyện. (hết trích)

Ngoài ra chúng ta cũng tin thật có :

Hiện tại ở trong pháp giới bao la cách cõi ta-bà 10 muôn ức cõi Phật về phương Tây có cõi cực lạc đang được Đức Phật A-Di-Đà giáo hoá cũng giống như cõi ta-bà nầy cách đây gần 3000 năm được Đức Phật Thích-Ca giáo hoá vậy. Khi nhân loại chúng ta chưa văn minh thì ngoài làng xã chúng ta đang sống thì cũng có những làng xã khác đang cùng hiện diệnchúng ta nào có biết. Văn minh càng tiến bộ thì ngoài quốc gia mình đang sống cũng có những quốc gia khác đang sống, đang hiện diện. Với Phật nhãn thì không có gì không thấy không biết ở trong pháp giới nầy cã.. Hiện nay một vật nhỏ như bao thuốc cũng không thể thoát khỏi sự phát hiện của giàn vệ-tinh do thám tinh vi. Bao thuốc được thấy bởi dàn vệ-tinh thì ngược lại theo quy tắc phản quang dàn vệ tinh cũng được bao thuốc thấy. Phật thấy được chúng sanhchúng sanh không thấy được Phật cũng thế thôi.

Qua hai cuộc chiến tranh thế giới nhân loại đã chịu biết bao tang thương khổ não mà hiện nay LHQ là một cơ cấu vẫn đang hoạt động để cứu giúp những kẻ khốn cùng. Nếu không có sự giúp đỡ của thế-giới thông qua Cao-Ũy Tị-nạn LHQ thì dân chúng VN sẽ tang thương tới cỡ nào sau 1975. Với Phật nhãn thì Đức Phật A-Di-Đà xem chúng sanh trong 10 phương pháp giới từ lúc còn làTỳ-Kheo Pháp-Tạng phát ra 48 đại nguyệnthành Phật cách đây 10 đại kiếp không khác gì tang thương như dân VN sau 75 cần được cứu giúp. So thời gian hình thành quả địa cầu với thời gian hình thành LHQ tạm ví như vô thủyhiện tại là LHQ vẫn đang hoạt động. So thời gian hình thành pháp giới với thời gian thành Phật của Đức Phật A-Di-Đà cũng thế và đương nhiên Đức Phật A-Di-Đà vẫn đang giáo hoá chẳng khác nhau gì cã vậy.

H. Như thế nào là NGUYỆN ?

Đ. Trong mọi hoàn cãnh tốt xấu, vinh nhục, thăng quan tấn chức, giàu nghèo, trí huệ mở bày.... cũng không được quên cái nguyện lúc ban đầu là phải vãng sanh về thế giới Cực-lạc A-Di-Đà để tiếp tục tu trì cho đến lúc chứng đạo. Những gì gọi là cãnh giới tốt đó cũng chỉ là phần thưởng phải có cho những ai chuyên trì tinh tấn niệm hồng danh. tỉ như các chương trình thám hiểm không gian của các quốc gia tiến bộ đã sản sinh ra nhiều tiện nghi trong cuộc sống xã hội bây giờ thế thôi. Quên mục đích phát nguyện lúc ban đầu khi tu trì pháp môn niệm Phật thì cũng chỉ là cho ngón tay chỉ mặt trăngmặt trăng vậy.....có một anh nông phu làm lụng cực khổ chi mong sao cho có một cuộc sống tương đối nhàn hạ sung sướng hơn. Một hôm trên đường về thì gặp lại người quen năm xưa từ thành thị làm ăn thành công nay trở về thăm lại làng xưa, xóm cũ. Nhìn người quen -khi xưa cũng giống như mình-nhưng bây giờ thì trông khác hẳn và anh ta ao ước được bằng....

Hiểu được tâm trạng nầy nên người bạn thành công kia khuyên :" Anh chỉ cần chịu khó làm ăn, dành dụm được it tiền thì khi khác tôi về sẽ đưa lên thành thị làm ăn một thời gian cũng giống như tôi mà thôi".

Người nông phu nầy nghe theo lời bạn và sau một thời gian cũng dành dụm được tí tiền. Theo thời gian tiền dành dụm càng có thêm. Và vào thời gian nầy quê anh nông phu tiếp xúc được với những tiện nghi của cuộc sống. Người nông phu đem số tiền dành dụm có được từ bấy lâu nay sắm những thứ như bạn mình ...và không còn ý nguyện lên thành thị nữa.

Qua câu chuyện nầy thì người tu pháp môn niệm Phật trong phần NGUYỆN không nên như vậy.

H. Nếu chỉ có TIN mà thiếu HẠNH hoặc NGUYỆN hay có hai mà thiếu một thì sao ?

Đ. Nếu chỉ TIN mà thiếu HẠNH, NGUYỆN thì cũng không khác chi đếm bò cho chủ. Nghèo hoàn nghèo, luân hồi hoàn tam giới. Nếu có NGUYỆN mà thiếu HẠNH-TIN thì cõi ta bà nầy được cai trị bởi Ma-vương dễ gì cho vãng sanh. Nếu có HẠNH mà thiếu NGUYỆN-TIN thì dễ vào ma đạo. Còn có TIN-HẠNH mà thiếu NGUYỆN thì sẽ không được Phật A-Di-Đà tiếp dẫn. Cõi cực-lạc chỉ dành riêng cho tất cã chúng sanh thập phương muốn sinh về đấy mà thôi.. Còn như có TIN-NGUYỆN mà thiếu HẠNH thì sung sẽ không rụng đâu để mà chờ.. Nhưng có HẠNH-NGUYỆN mà thiếu TIN thì lại về biên điạ, thai sinh.

H. Những người tu pháp môn niệm Phật thường hay nói và thường nghe giãng phải "nhất tâm bất loạn" mới được vãng sanh, điều nầy như thế nào ?

Đ. Đây chính là điều có thể nói là làm cho những ai muốn tu trì theo pháp môn niệm Phật không dám dấn thân. Chúng tôi chỉ đưa ra đây những nhận xét :

1) Chúng ta ai cũng được nghe mình đang sống vào thời mạt pháp. Chúng ta cũng phải khẳng định rằng Pháp thì không bao giờ mạt mà chỉ vì chúng ta chướng dày, nghiệp nặng không thọ trì tuân thủ, một phần cũng không nhỏ do người giãng vì lý do nào đó lập lại sai lời Phật thuyết. Tỷ như Phật dạy " Vạn pháp sở sanh, duy tâm sở hiện", nhưng chúng ta thường nghe nói gọn lại là "vạn pháp duy tâm tạo"

Tất cã những gì chúng ta thấy, sờ, nghe, nhớ lại... là vì do sở mà có vậy. Rồi sở do đâu mà có, thì vì tâm rung nhẹ (vô-minh) thành là sở. Tâm rung nhẹ thì có cãnh giới Bồ-Tát, tuỳ theo cấp độ rung nên có thành ra các pháp giới. Chơn tâm cũng tạm có hình tướng đó là báo thân Phật. Vọng tâm cũng tạm có hình tướng đó là 9 pháp giới còn lại trong 10 pháp giới.

Theo lời kinh dạy thì tâm không tạo tác, không dài, ngắn, không thêm, bớt....tất cã vạn pháp :hữu vi pháp hay vô-vi pháp có ra thì đều là do tâm có vọng- biến thành sở. Sở nầy cũng bao trùm vạn pháp nếu so về thể tích thì cũng bằng thể tích của tâm. Có thể tỷ dụ như thế nầy: Như ta đi xem chiếu bóng trước khi tắt hết đèn để chiếu phim thì khung vải trắng, có thể ví như là (thể tích) của tâm. Đến giờ chiếu phim, đèn tắt hết và ta thấy cũng trên khung vãi ấy hiện ra đủ thứ hoạt cãnh và đấy là nghiã của sở.. Chỉ khi nào hết phim đèn bật sáng là ta lại thấy khung vãi như lúc ban đầu màu trắng thì đó là nghiã của tâm. Khi nó là sở hay là tâm chẳng qua là do đèn tắt hay mở mà thôi. Đèn tắt dụ vô minh và đèn mở sáng dụ minh. Do vậy không thể nói " vạn pháp duy tâm tạo" được. Cũng như con do mẹ sinh, nhưng không thể nói cháu do bà sinh được.

2) Hồng danh "Nam-Mô A-Di-Đà-PhẬT" đã bất-tư-nghì thì bất cứ ai niệm cũng phải được Phật lực tiếp dẫn để vãng sanh...đã là bất tư nghì mà còn điều kiện thì không còn bất tư nghì nữa.

3) Pháp môn niệm Phật chủ yếu để độ những hạng người nghiệp dày, phước mỏng, sinh vào thời buổi mạt pháp như hiện nay. Cái thời buổi mà con người không bỏ phí một tí thời gian để mưu cầu vật chất cho thật nhiều hầu thoả mãn ngũ dục lạc..cái thời buổi được gọi là "tâm viên ý mã" nghiã là tâm (sở) nó không bao giờ chịu ở yên mà nhảy lăng xăng như loài khỉ. còn ý thì mạnh như ngựa về sự làm sao tạo cho thật nhiều lợi về mình mà không kể đến cái hại cho kẽ khác.

4)Theo như sự giãng thì nhất tâm bất loạn nghiã là không có một ý niệm nghĩ gì cã ngoài cái ý niệm nghĩ về danh hiệu Phật A-Di-Đà. Ta hãy nghe nhất Tổ Tịnh-độ bên Nhật nói như sau " Về sự nhất tâm bất loạn, thì như tôi đây làm cũng không được". Ta hãy nghe tiếp Tỳ-Kheo Thiền-Tâm nói như sau " Nếu nói rằng niệm Phật cho được nhất tâm bất loạn thì danh hiệu Nam-Mô-A-Di-Đà-Phật do đâu mà có".  Ta lại nghe tiếp Tỳ-Kheo Ngộ-Thông (đệ-tử của Tỳ-Kheo Tịnh-Không [là ngôi sao Bắc-đẩu của pháp môn tịnh độ hiện nay] nói như sau " Niệm Phật được nhất tâm bất loạn thì hiện nay không có ai, nhưng niệm Phật thành một mãng(phiến) thì hiện nay cũng có. Tuy nhiên đạt được đến trình độ nầy ít nhất công phu niệm Phật cũng không dưới 30 năm". Một vấn nạn được thấy ở đây là " có ai trả lời mình sống được bao lâu chăng"? Một người sau khi hiểu được pháp môn niệm Phật và hiểu được đại nguyện của Đức Phật A-Di-Đà ( điều 18) mà bị thòng một câu nầy thì làm sao họ không nghi ngờ cho được. Mà nghi thì làm sao vãng sanh.

5) Theo tôi thì lời dạy sau đây có vẽ mâu thuẩn " khi ta niệm Phật thì đừng cho mọi chuyện tạp nhạp xen vào. Khi ta làm những chuyện tạp nhạp thì làm sao cũng gắng có niệm Phật xen vào. Hãy thử nghĩ khi ta đang lái xe đến sở làm hay đến một nới chốn nào đó mà trong khi di chuyển ta cứ nghĩ đến danh hiệu Phật trong chuyên nhất thì sẽ chểnh mãn trong an toàn không những cho riêng ta mà ảnh hưỡng đến những xe cộ di chuyển khác.

Khi niệm Phật mà có tạp niệm (tạp niệm là có niệm mà không phải là cái niệm có Phật trong đó) theo định nghĩa thì không được nhất tâm. Khi có tạp niệm mà phải có cái niệm Phật trong đó thì cũng không là nhất tâm bất loạn theo định nghĩa.

Theo tôi thì nhất tâm bất loạn như sau :

Sau khi đã hiểu rõ về pháp môn mình chọn để tu trì, thì sau đó mình không vì bất cứ một lý do gì trong cuộc sống thành công hay thất bại, sang hay hèn, giàu hay nghèo, trí huệ có bừng mở tí chút để thấy rằng mình nên xông pha vào chợ đời để độ đời...rồi mình không còn hành trì theo như những gì mình đã phát nguyện lúc ban đầu" như thế là không nhất tâm.

Còn nếu như nói nhất tâm bất loạn thì ta có thể ví dụ sau đây có đúng chăng ? Và nếu như đúng thì ai là người áp dụng được trong thời buổi mạt pháp nầy. Mà nếu như khó có người áp dụng được thì làm sao nhiếp được ba căn

"Sau khi thức dậy chúng ta chỉ có niệm duy nhất là sáu chữ hồng danh trong tất cã hoạt động đi, đứng, nằm, ngồi, ăn uống, ngũ nghỉ.(hàm nghĩa nhất tâm bất loạn) Nếu đây là đúng cho cã ba căn thượng, trung, hạ thì ta nên lần theo lời Phật dạy trong kinh Vô-Lượng-Thọ xem sao rồi sẽ y cứ.

Những người tỵ nạn CS như chúng ta trước khi đến được nước tự do đều hứa và cam kết trên giấy tờ là sẽ không trở về nước khi còn CS. Một khi trở về mà còn CS thì đã không là nhất tâm vậy.

Hoặc giả là khi mình đã chọn cho mình một pháp môn để tu trì và khi mình có đọc hay tham cứu các pháp môn khác mà mình vẫn thấy rằng sự tham cứu nầy càng cũng cố thêm niềm tin vaò pháp môn mình tu trì thì cũng gọi là nhất tâm.

Tất cã những người có chí xuất gia thì không ngoài ý muốn làm sao thực hành lời Phật dạy để thoát ra khỏi sự chi phối sinh tử trong tam giới. Đức Phật không dạy cho tứ chúng đệ tử của Thế-Tôn lo nghĩ về chùa to, tượng lớn để có phương tiện hành đạo, cũng như những người khi có tâm chí xuất gia thì cũng không phải phát nguyện xây chùa, đúc tượng. Nếu không giữ trọn được điều mình đã phát nguyện lúc ban đầu thì bây giờ có chứng gì đi nữa thì cũng không được nhất tâm.

Để kết luận phần nầy chúng ta chỉ y theo kinh Vô-lượng-thọ Đức Phật A-Di-Đà nói về ba bậc vãng sanh đều là vào "lúc lâm chung" mà thôi....có nghiã là bây giờ cho dù một ai đó có được sự nhất tâm bất loạn thì cũng chẳng nắm chắc sự vãng sanh.

Đức Phật có nói rõ cho dù được nhất tâm bất loạn trong một ngày thì vì tập khí từ vô thủy cũng không thể đoạn hết phiền não.

Thêm một vị Đại-sư làm điển hình đó là Ngài Ngộ-Đạt thiền sư suốt 10 đời tu hành tinh nghiêm giới hạnh mà cũng chỉ vì một tọa cụ trầm hương do Vua tặng thí để đến nổi phải chịu quả báo....

Đây cũng có thể là một sự thị hiện của một Bồ-Tát để răn dạy chúng sanh chớ cậy mình tài cao đức thiển mà quên đi điều phát nguyện lúc ban đầu.

Hoặc giả là cho chúng sanh biết rằng chuyện nhất tâm không dễ gì giữ vững mãi mãi....chẳng là chuyện chưa đến với mình mà thôi. Ở đời cũng không thiếu chi người bình thường mà không bị say đắm ngũ dục lạc

Nếu ta niệm Phật mà mong cầu làm sao cho được nhất tâm bất loạn thì đó cũng là điều có thể dẫn ta vào ma đạo lúc nào không hay vì Ma-vương sẽ dựa vào đó để quậy phá.

Tôi có đọc một Tổ nói như sau "chuyện niệm Phật là bổn phận của ta, còn sự vãng sanh thì trách nhiệm đại nguyện của Phật

Kính chư vị và tôi niệm Phật như thế vậy.

Để hiểu được phần nào về chữ tâm mà ta hay dùng hay nói và hiểu thì tôi xin trích lại dưới đây những lời kinh trong Thủ-Lăng-Nghiêm và Đại-Bát-Niết-Bàn như sau :

Kinh Thủ-Lăng-Nghiêm: Bạch Thế-Tôn ! dùng tâm và mắt của con thấy tướng thù thắng của Như-Lai, sanh lòng ham thích nên phát tâm, nguyện xã bỏ sanh tử.

Phật bảo : Như ngươi vừa nói, sự ham thích do nơi tâm và mắt. Nếu chẳng biết tâm và mắt ở đâu thì chẳng thể hàng phục trần lao ; ví như đất nước có giặc. Vua sai binh dẹp trừ, binh lính tất phải biết sào huyệt của giặc. Khiến ngươi bị luân chuyển trong ấy là lỗi tại tâm và mắt. Ta hỏi ngươi : Tâm và mắt của ngưới hiện đang ở đâu ?

Qua 7 chổ gạn hỏi tìm tâm mà ngài A-Nan đã nghĩ (đại diện) cho chúng ta thì Đức Phật đều bác bỏ đó không phải là tâm

Kinh Đại-Bát-Niết-Bàn:

Tâm gọi là vô thường vì tánh nó phan duyên phân biệt. Tánh của Nhãn thức khác, nhẫn đến tánh của ý thức khác, nên là vô thường.

Như thế chữ tâm nói trong câu "nhất tâm bất loạn" cuả các vị giãng có phải là chữ tâm trong hai bản kinh kê trên chăng?

Nếu phải thì Đức Phật đã nói là không đúng và vô thường kia mà. Nghiã là ta không có cách chi giữ nó mãi thường còn.

Nếu chữ tâm nầy là nói về những tư tưởng đến rồi đi thì ta cũng không thể làm chủ nó được. Nghĩa là chúng ta không thể ngũ mà muốn nằm mơ theo ý thích, hay là muốn có mơ hay không muốn có mơ trong giấc ngũ, hoặc là ta muốn có giấc mơ như thế nầy hoặc như thế kia....

Chận đứng tư tưởng thì chúng sanh thời mạt pháp làm sao đạt được.

H. Người đời bây giờ phần đông muốn làm gì là mong sao có kết qủa ngay, như thế pháp môn niệm Phật có được điều ấy không ?

Đ. Có được điều nầy, như trong kinh có nói là niệm Phật một câu tiêu trừ được tám vạn tội trong quá khứ

H. Pháp môn niệm Phật có đi đúng lời dạy của Đức Phật chăng ? Đức Phật có chủ trương cải sữa xã hội chúng ta để trở nên cõi tịnh chăng ?

Đ. Trước hết ta phải biết lời dạy quan trọng nhất của Đức Phật với chúng sanh thập phương là gì ? Ta có thể nói gọn lời dạy quan trọng đó là "chúng sanh phải theo pháp tu trì để sớm thoát khỏi luân hồi ba cõi. Đây là mục đich thiết thực nhất của sự thị hiện của Đức Phật. Chúng ta có thể nào "ngộ nhập Phật tri kiến" được chăng ? Đây là điều khó có thể được nếu không muốn nói không thể được. Vì sao ? Bởi những gì Phật kiến chỉ có Phật với Phật biết rõ mà thôi. Bồ-Tát sơ phát tâm cũng không thể biết hành điạ của Bồ-tát nhị điạ và nhị địa cũng không thể biết tam điạ...đây là lời kinh có ghi chép. Thế thì chúng ta đừng bao giờ có ý tưởng sẽ đạt được ngộ nhập Phật-Tri-Kiến

Đức Phật không chủ trương cãi sửa xã-hội loài người trở nên cõi tịnh như chúng ta thường nghe nói "tâm tịnh thì cõi tịnh". Từ khi Thái-tử thành Phật thì cõi điạ vẫn là ngũ trược ác thế....Đương thời tại thế của Đức Phật ngay chính trong giáo đoàn của Đức Phật cũng xãy ra không biết bao nhiêu chuyện phiền não như ngày hôm nay...nói tóm lại có Phật mà cõi nầy vẫn là hoàn ác thế ngũ trược huống là bây giờ đã cách Phật bao lâu xa rồi.....Đức Phật không chủ trương tu trì sao cho cõi ta bà thành cõi tịnh mà chỉ muốn sao chúng sinh theo pháp tu trì để thoát khỏi tam giới. Trong khi tu trì thoát khỏi tam giới thì xã hội tự nó thành tốt đẹp. Đây là sãn phẩm lành của sự tu trì đó vậy. Đức Phật cũng không chủ trương và nói ở thế giới ta bà nầy có một nơi chốn nào đó có sự an vui hạnh phúc thường còn trong cõi vô thường nầy. Mỗi một con người đều có mỗi quan niệm khác nhau về điều vui nỗi khổ. Không có một tiêu chuẩn nào cố định để biểu thị nỗi khổ niềm vui. Người đang thọ ngũ dục lạc họ sẽ cho đó là hạnh phúc. Tuy nhiên sự gọi là hạnh phúc nầy không thường còn mãi, nghiã là có rồi mất, mất rồi có và đây cũng là một trong nhiều điều làm cho Thái tử Tất-Đạt-Đa tư duy để đi tìm đạo...người không có ngũ dục lạc để thọ thì họ sẽ cho đó (không có ngũ dục) là khổ.

tam giới chỉ là lò lưã lớn thì không thể nào có một nơi chốn an vui hạnh phúc được, cho dù ta có khéo biết cách sống sao cho an lành tự tại thì đó cũng không phải là mục đích của cuộc sống. Mục đích của cuộc sống không thể là sống sao cho an lành hạnh phúc ở một đời nầy là đúng nghiã cho sự làm thân người khó được cho một chuổi dài vô thủy của kiếp nhân sinh.

H.Theo pháp môn tịnh độ có cho rằng kiếp sống con ngườivô thủy vô chung chăng ?

Đ. Với pháp môn tịnh độ thì kiếp sống con người quả vô thủy nhưng không phải là vô chung. Vì pháp môn nầy chính là phương thuốc để kiếp sống con người có chung vậy. Có chung nghiã là "liễu thoát sinh tử"

H.Khi một người đồng tu tinh độ với sự tinh tấn, chuyên cần. Nhưng khi gần lâm chung lại có những trạng thái đi ngược lại sự vãng sanh, thì ta có nên hoang mang không ?

Đ. Ta không nên lấy hoàn cãnh của người đồng tu đó để hoang mang về sự vãng sanh của mình. Bởi lẽ thật sự người tu tịnh độ trong hiện kiếp không có chứng đắc thần thông gì cã để mà biết người đồng tu có hiện trạng như vậy là do đâu... nói vì nghiệp thì thật ra không ai rõ tận tường ngoại trừ Đức Phật. Thế cho nên ta không nên bao giờ có sự hoang mang dao động ta cứ mãi tin tưởng vào sự tiếp dẫn của Đức Phật A-Di-Đà, hành trì cho đến khi lâm chung, nguyện được sinh về thế-giới cực-lạc...còn những việc khác đã có đại nguyện của Đức Phật A-Di-Đà rồi

H. Tại sao có những người lâm chung không như trong lời kinh chú dẫn mà vẫn gọi là được vãng sanh ?

Đ. Đây là một vấn đề trong nhiều vấn đề làm mạt pháp và làm cho người ta không tin vào pháp môn tịnh-độ.

H. Phật thất là gì ? và mục đích của Phật thất như thế nào ?

Đ. Chữ Phật đây không dùng để chỉ về Đức Phật mà có ý là niệm Phật. còn chữ thất đây hàm ý là nơi chốn để hành trì niệm phật...mà nếu quyết tâm lớn thì chữ thất đây là nói về số lượng bảy ngày.

Do đây thì Phật thất có nghiã là người tu trì tự mình phát nguyện giam mình vào nơi yên lặng để loại trừ bớt những duyên đưa đến phiền não mà người tu trì bị vướng mắc trong sinh hoạt hàng ngày và khi đã phát nguyện như vậy thì trong khoảng thời gian đó chỉ niệm Phật và phấn đấu loại trừ những niệm không phải là niệm Phật.

Mục đích chỉ có vậy và nếu người tu trì khi phát nguyện mà có tâm mong cầu được nhất tâm bất loạn thì tôi thiết nghĩ dể bị vướng vào những bất trắc mà trong Kinh Thủ lăng nghiêmcảnh giác.

Từ những ý tưởng như thế, tuy nhiên tôi cũng có tham dự vài lần Phật thất do Tỳ-Kheo Ngộ-Thông hướng dẫn, để được lợi lạc như các bạn đồng tu khác. Nhưng ....

Tôi xin muôn vàn khâm phục những người tham dự phật thất mà gặt hái được những giây phút tâm thức không bị ngoại cảnh xâm phạm.

H. Trong kinh điển về pháp môn tịnh độ có nói về phật thất không ?

Đ. Trong kinh điển về pháp môn tịnh độ không có nói về phật thất, nhưng có lẽ do cốt lõi của bộ kinh Di-Đà có nói đến từ một ngày cho chí đến bảy ngày nhất tâm bất loạn....tuy nhiên theo tôi qua nhận biết với một số lượng người nhiều như thế thì lại càng vạn nan cho nhất tâm bất loạn...

Bậc thượng căn thì chắc không khó cho mục đích nầy

H. Tại sao Thái-tử không tu trì theo pháp môn nầy mà phải hành thiền rồi chứng đạo ?

Đ. Theo như lịch sữ hình thành đạo Phật thì Thái-tử sinh vào thời gian không có pháp chân thật để giải thoát cho mình và cho người...Thái-tử đã hoang phí hành theo tà tri mất 6 năm và khi lai tĩnh, đã dùng kinh nghiệm khi còn nhỏ nhập định để tuần tự quán sát 12 nhân duyên theo hai chiều thuận nghịch từ đó rõ thấu suốt tứ diệu-đế và chúng sinh trong tam giới có một vị Phật tuyệt vời. Và cũng chính khi Chứng Đạo Vô-Thượng Chánh-Đẵng Chánh-Giác thì pháp giới được nhìn thấu rõ như trái am-la trong long bàn tay. Và chính vì với Phật nhãn đó nên Đức Phật mới dạy pháp môn tịnh-độ nầy cho chúng ta nương vào đó thoát tam giới khi không còn có Phật tại thế.

H. Có phải vì căn cứ vào 49 ngày tu trì thiền định của Đức Phật mà có một số người cho rằng chỉ cần với từng ấy thời gian là có thể chứng đạo chăng ?

Đ. Ngộ và Chứng khác nhau vời vợi chớ có nhập nhằng. Quả đúng như vậy con số tu trì không quá 49 ngày chẳng sai theo với những người nầy. Nhưng những ai đó họ sẽ trở thành đại cuồng ngông vì một lý do tổng kết như sau : Họ có sánh được với cuộc đời của Đức Phật từ sơ sanh chăng ? Nếu sánh được bằng thì thời gian là 49 ngày

Kết

Thô thiển bộc bạch mong được gieo duyên lành  chư vị cùng pháp môn và thoảng hoặc có chư vị nào chê trách chổ sai trái xin bố thí pháp để cùng nhau tiến tu hầu mong dẹp bỏ lời chỉ trích đôi khi sai của mình

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23113)
Đức Phật Đản Sanh qua thi phẩm Ánh Sáng Á Châu của Edwin Arnold - Trần Phương Lan dịchchú giải
(Xem: 14115)
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện giữa cõi đời không ngoài mục đích giải thoát khổ đau cho nhân loại. Từ địa vị thái tử cao quý, Ngài đã giã từ lạc thú trần gian...
(Xem: 13026)
Các phương cách đản sanh của chư Phật đều giống nhau như sự xuất hiện của các ngài giữa thế gian này đã cảm ứng đến thế giới chư thiên và các loài khác...
(Xem: 55216)
Trong thế giới đầy bóng tối này, bóng tối của đe dọa chiến tranh, và nếp sống phi đạo đức, chúng ta hãy thắp lên ngọn đèn của trí tuệ, của hiểu biếtthông cảm.
(Xem: 9235)
Muốn cảm ứng đạo giao với Phật A Di Đà để vãng sanh về xứ Cực lạc cần phải tu cho đúng, nghĩa là niệm Phật phải đạt nhất niệm
(Xem: 14505)
Tem bưu chính mừng Đại lễ Phật Đản - Hoavouu sưu tầm
(Xem: 14229)
Sự giải thoát có thể dụ cho một sự sáng không bờ mé, ngăn ngại và cái ngã đã được giải thoát (vô ngã) dụ cho một cái sáng khác ở trong cái sáng không bờ mé đó...
(Xem: 14244)
Không thể không phản tỉnh, không thể không kiểm thảo, hay nói cách khác, nhất định phải tìm lỗi lầm của chính mình, phải tìm tâm bệnh của chính mình.
(Xem: 13932)
Bên tàng cây Vô ưu (aśoka) rợp mát, nền trời xanh bao la, hương muôn hoa tỏa ngát, Hoàng hậu đã hạ sanh Thái tử. Khi ấy, cảnh vật đều vui vẻ lạ thường, khí hậu mát mẻ...
(Xem: 36395)
Pháp hành thiền không chỉ dành riêng cho người Ấn Độ hay cho những người trong thời Đức Phật còn tại thế, mà là cho cả nhân loại vào tất cả mọi thời đại và ở khắp mọi nơi.
(Xem: 19948)
Ta có thể chuyển nghiệp nặng thành nhẹ bằng cách ăn năn sám hối những nghiệp đã tạo và nỗ lực tu tập, tạo các nhân duyên lành làm trở ngại sự hình thành nghiệp quả.
(Xem: 18224)
Vận mạng từ do đâu mà có? Do đời trước tu mà được, trên thực tế mỗi ngày vận mạng của chúng ta cũng đang có sự tăng giảm, thêm bớt.
(Xem: 19287)
Trước bàn thờ Tổ Tiên, tôi đứng yên lặng thật lâu, để quán chiếu, để đi sâu vào đời sống của hiện tại và từ đó, nhìn lại quá khứ của nhiều thế hệ ông bà, cha mẹ nhiều đời...
(Xem: 19213)
Ai đã một lần hiện hữu làm người, có mặt trên cuộc đời nầy, đều không do Cha Mẹ sanh ra, dù là Thánh nhân hay phàm tục. Cho đến khi khôn lớn, trưởng thành...
(Xem: 20389)
Khi tìm hiểu cảm nhận của các Thiền sư về mùa Xuân, điều dễ dàng nhận thấy là các ngài cũng không chối từ hay lẩn tránh vẻ đẹp mà tạo hóa ban tặng...
(Xem: 17707)
Thân thểảnh hưởng mãnh liệt đến tinh thần. Thế nên, muốn cho tinh thần vững mạnh, tin tưởng chí thiết nơi tự lực, tha lực, kiên cố chấp trì câu danh hiệu Phật...
(Xem: 31616)
Bậc giác ngộ, đức Phật Gotama, sử dụng từ bhavana để diễn tả những thực tập về sự phát triển của tinh thần. Từ này được dịch đại kháithiền định.
(Xem: 15987)
Xem xét lại chính mình, không lao ra ngoài. Không lao ra là một phương pháp chắc thực để chúng ta đừng bị các duyên bên ngoài dẫn đi, như thế mới an ổn.
(Xem: 15083)
Một cách căn bản, chúng ta có thể thấu hiểu Bốn Chân Lý Cao Quý trong hai trình độ [trình độ của sự giải thoát tạm thời khỏi khổ đau và trình độ giải thoát thật sự...
(Xem: 14754)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46275)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 36015)
Cốt Nhục Của Thiền là một tác phẩm ghi lại 101 câu chuyện về thiền ở Trung Hoa và Nhật Bản - Trần Trúc Lâm dịch
(Xem: 21090)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 21691)
Có một ngày nào đó, Nhớ nhà không nói ra, Bấm đốt tay, ừ nhỉ, Xuân này nữa là ba... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 23472)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 34499)
Thiếu CHÁNH KIẾN trong sự tu hành chẳng khác gì một kẻ đi đường không có BẢN ĐỒ, không có ÁNH SÁNG rất dễ bị dẫn dụ đi theo đom đóm, ma trơi.
(Xem: 19552)
Ca Diếp thấy Phật đưa cái bông lên mà không nói, Ca Diếp cũng không nói, nhưng nét mặt hớn hở mỉm cười, là ông đã rõ thấu Chánh pháp của Phật, nó ẩn tàng sâu kín...
(Xem: 18999)
Đức Phật đã mở bày nhiều pháp hội, diễn thuyết vô lượng pháp môn, khiến cho trời người đều được lợi lạc. Dù vậy, giải thoát Niết-bàn là trạng thái tự chứng tự nội...
(Xem: 22998)
TỨ NIỆM XỨ là pháp thiền để hiểu rõ, để hiểu sâu, và để khám phá thực tướng VÔ NGÃ của chính mình. Nếu không hiểu rõ mình thì còn lâu mới có thể sửa đổi...
(Xem: 20242)
Đức Phật đưa cành hoa lên (niêm hoa) và ngài Ca Diếp hiểu ý mỉm cười (vi tiếu). Đó là pháp môn lấy tâm truyền tâm.
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33501)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34622)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54612)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37851)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63777)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17452)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49774)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 27562)
Nhâm Thìn năm mới ước mơ Xin dùng tâm khảm họa thơ tặng đời Cầu cho thế giới, muôn loài Sống trong hạnh phúc, vui say hòa bình
(Xem: 20365)
Khi nói đến bố thí, thì chúng ta phải nhận ra ba yếu tố tạo ra nó: người cho (năng thí), món đồ (vật thí) và người nhận (sở thí). Ba yếu tố này rất quan trọng.
(Xem: 23105)
Với người con Phật vào những ngày đầu xuân ta thường có thói quen đến chùa lễ Phật, hái lộc, gặp Thầy. Khi đến cổng chùa ta sẽ dễ dàng bắt gặp câu Phật ngôn “Mừng Xuân Di Lặc”...
(Xem: 18941)
Hình tượng Đức Phật Di Lặc hiện hữu với nụ cười trên môi, dáng vẻ hiền hòa khiến ai nhìn vào cũng thấy lòng mình nhẹ nhàng, hiền thiện và hoan hỷ hơn bao giờ hết.
(Xem: 16380)
Những ai muốn đi gặp mùa xuân thì phải đứng dậy, giã từ u tối của đêm đông, thắp sáng tâm mình bằng ánh lửa tỉnh thức được đốt cháy trong nguồn năng lượng tình thương.
(Xem: 17995)
Trong nhiều năm tôi đã nhớ mình viết bài luận văn “Khai bút” vào đêm giao thừa. Bài đó được chấm mười một điểm rưỡi trên hai mươi. Trong khung lời phê, cô giáo ghi...
(Xem: 21014)
Có lẽ Ngài chỉ mượn cảnh mùa xuân để diễn đạt sự chứng ngộ của Ngài. Mà sự chứng ngộ của riêng Ngài thì làm sao kẻ phàm phu tục tử như chúng ta có thể thấu triệt được.
(Xem: 17417)
Xuân hiểu là một bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt xinh xắn, trong trẻo, hồn nhiên, thuần túy tả cảnh buổi sớm mùa xuân thật thơ mộng. Bài thơ có lẽ được viết khi Trần Nhân Tông còn trẻ...
(Xem: 14517)
Chư Phật, Bồ-tát biết rõ cuộc đờiảo mộng, đã là ảo mộng thì còn gì quan trọng nữa để lôi cuốn chúng ta chìm trong mê muội. Điều thiết yếu là chúng ta phải khắc tỉnh...
(Xem: 16917)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16448)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 16074)
Vào một ngày đầu năm, tiết trời ấm áp, vạn vật như đồng loạt hân hoan chào đón ánh xuân. Quốc vương đưa hoàng gia và các quan văn võ cận thần đến một tu viên nổi danh trong thành...
(Xem: 17550)
Ngày Tết trên bàn thờ luôn bày trái cây để cúng ông bà gọi là mâm ngũ quả... TS Nguyễn Trọng Đàn
(Xem: 22068)
Đối với người Việt Nam, tiếng Tết đã trở nên thân thuộc. Chúng ta gặp nó từ trong những câu tục ngữ, ca dao, dân ca mộc mạc đến những bài diễn văn trang trọng...
(Xem: 15164)
Mùa nhớ của tôi cũng bắt đầu khi gió bấc đổ về, gió mang theo chút se lạnh hanh hao và cả mùi Tết thoang thoảng, len khắp ngõ ngách phố phường nghe lòng nao nao.
(Xem: 13546)
Chư Phật ra đời chỉ cho chúng sanh con đường thoát khổ, khả năng thoát khổ nằm trong tầm tay của chúng ta. Bởi ta tự buộc nên ta phải tự mở.
(Xem: 14401)
Đại lực Độc long dùng mắt quan sát, thấy một người yếu đuối bị chết, một người mạnh khoẻ rồi cũng bị chết. Thấy vậy, Độc long bèn thọ giới một ngày xuất gia...
(Xem: 15438)
Kinh điển Phật giáo có nhiều huyền thoại về Đức Phật liên quan đến rồng, chẳng hạn như: Chín rồng phun nước tắm cho thái tử khi mới đản sinh, Rồng che mưa cho Phật...
(Xem: 15056)
Ngày đầu xuân nói về tục xông nhà để nhắc nhở cho nhau, đừng phó thác vận mệnh cho người xông nhà, tục xông nhà không thể quyết định vận mệnh của mình và gia đình...
(Xem: 12759)
Tưởng không có gì reo ca trong tâm mình. Một ngày đi ngang cổng một tu viện, thấy một thầy tu áo đà vừa bước vào cửa, tay nải khoác vai nhẹ nhàng...
(Xem: 13412)
Phật giáo cho rằng, sự vận hành biến hóa của vũ trụ và sự lưu chuyển của sinh mạng, là do nghiệp lực của chúng sinh tạo nên, vì vậy tu là để chuyển nghiệp.
(Xem: 27466)
Nắm được yếu điểm của người đi xem bói, các thầy cân nhắc bằng cách hỏi một số câu thăm dò. Rồi tùy theo câu trả lời của khách mà thầy đoán mò, lần vách để nói thêm.
(Xem: 12579)
Con rồng gắn liền với huyền thoại Âu Cơ - Lạc Long Quân, thành ra Tổ-tiên giống Lạc-Việt. Người con trưởng ở lại Phong-châu, làm vua đất Văn-lang tức là Hùng-Vương.
(Xem: 13256)
“Trời thêm tuổi trăng, người thêm thọ. Xuân đến muôn nơi phúc khắp nhà." TS Huệ Dân
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 16284)
Các bậc thầy Mật tông tuyên bố rằng, người nào khéo sử dụng năng lực thiên lý truyền tâm thì đều có thể kiểm soát hoàn toàn tinh thần để tập trung tư tưởng...
(Xem: 12448)
Trong chuỗi dài bất tận đổi thay của năm tháng, quá khứ nối nhịp với tương lai, trở thành thông lệ, mỗi lần xuân đến mang theo hương lạ, khiến cho cõi lòng hân hoan...
(Xem: 15477)
Ánh sáng từ trái tim trong sáng (clear heart) của vị thiền sư đang thiền định từ nửa đêm đến gần rạng sáng đã trở thành ánh trăng, và bởi vậy, trăng vẫn sáng...
(Xem: 12910)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 12239)
Theo Kinh Tăng Chi, muốn gia tăng tuổi thọ, sống lâu thì phải: làm việc thích đáng, biết vừa phải trong việc thích đáng, ăn các đồ ăn tiêu hóa, du hành phải thời...
(Xem: 13247)
Nếu so sánh với sự nhớ ơn trong đạo Phật thì nội dung nhớ ơn của người Việt rất gần gũi. Bốn ơn trong đạo Phật là ơn Tam bảo, ơn nước nhà, ơn mẹ cha, ơn chúng sanh.
(Xem: 21735)
Xuân pháo đỏ cúc vàng bánh tét Con thơ cười giữa tiếng trống lân Khói nghi ngút giữa nhan và pháo Chan hòa trong nắng ấm tình xuân
(Xem: 11312)
Đổi mới là chuyển hóa cái cũ thành cái mới, cái tiêu cực thành cái tích cực. Loại bỏ cái xấu, cái tiêu cực và tích tập xông ướp (huân tập) cái tốt, cái tích cực.
(Xem: 22810)
Kyabje Dorzong Rinpoche đời thứ 8 là một trong số những vị Lạt ma đáng để học tập, thực hành theo và được tín nhiệm nhất trong số các vị bổn tôn Phật giáo Tây Tạng...
(Xem: 15150)
Đúng là Đạo bổn vô nhan sắc, nhưng ta và người thì có thể thấy được “nhất chi mai” kia là vật của đất trời, trống không, độc lập, hồn nhiên, như hữu sự mà vô sự.
(Xem: 14983)
“…Nhân diện bất tri hà xứ khứ. Đào hoa y cựu tiếu đông phong"... Thôi Hộ
(Xem: 46263)
Tất cả cũng chỉ là sự sinh hóa của vũ trụ, sự tuần hoàn của Đại Ngã... Phan Trang Hy
(Xem: 22541)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 14637)
Thọ nhận quán đảnh cũng giống như việc gieo mầm hạt giống trong tâm thức; sau này, khi hội đủ nhân duyên và qua các nỗ lực tu trì, hạt giống đó sẽ nảy mầm thành Giác ngộ.
(Xem: 12680)
Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng, dù khổ đau thế này hay thế khác, dù tiêu cực hay tích cực chúng ta phải nhìn chúng qua lăng kính duyên khởi...
(Xem: 18959)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 14809)
Lúc bấy giờ Ma-hê-thủ-la Thiên ở nơi thiên thượng cùng các tiên nữ vui vẻ dạo chơi, tấu các âm nhạc. Thoạt nhiên nơi trong búi tóc hóa ra một thiên nữ, dung nhan đoan trang...
(Xem: 43950)
Lúc bấy giờ, khắp vì lợi ích tất cả chúng sanh, đức Thế tôn nói đà-ra-ni rằng: Na mồ một đà nẫm Ma đế đa na nga đa Bác ra đát dũ đát bán na nẫm...
(Xem: 57108)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 47587)
Thật ra sanh tử là do tâm thức vô minh của chúng ta “quán tưởng” ra là có tự tánh, là có thật, như ví dụ “hư không khônghoa đốm mà thấy ra có hoa đốm”.
(Xem: 13702)
Phật quả đòi hỏi những thành tựu phi thường về thân và tâm. Cho nên, việc truyền những phẩm đức siêu việt này vào trong pho tượng trở nên nổi bật trong những buổi lễ quán đảnh.
(Xem: 14650)
Nẳng mồ tát phạ đát tha nghiệt đá nẫm Nẵng mồ nẵng mạc tát phạ một đà mạo địa tát đát-phạ tỳ dược Một đà đạt mạ tăng chi tỳ dược, đát nhĩ dã tha...
(Xem: 29083)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33388)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 15446)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 31297)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 12563)
Là một Đạo sư không bộ phái vĩ đại trong thời hiện đại, Chögyam Trungpa Rinpochay đã diễn tả một cách súc tích rằng Kongtrul đã thay đổi thái độ của các Phật tử...
(Xem: 40502)
Như thật tôi nghe: Một thời đức Phật ở tại Pháp Giả Ðại Bồ-đề Ðạo tràng thuộc nước Ma-già-đà, vừa thành Chánh giác cùng các Bồ-tát Ma-ha-tát chúng gồm có tám vạn người...
(Xem: 43508)
"Có đà-ra-ni tên là Túc Mạng Trí. Nếu có chúng sanh nghe đà-ra-ni này mà hay chí tâm thọ trì, thì bao nhiêu nghiệp tội cực nặng trong một ngàn kiếp thảy đều tiêu diệt.
(Xem: 46731)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 14457)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant