Chúng tôi sang Liên Xô vào đầu những năm 70 của thế kỷ trước. Để học tiếng Nga, ngoài mấy tập giáo trình in roneo có thêm phần từ vựng ở Hà Nội ra, chúng tôi hầu như không hề có một tập sách tra cứu nào. Quyển Từ điển Nga - Việt của soạn giả Nguyễn Năng An lúc đó không phải ai cũng có, mặc dù số lượng từ chưa nhiều, chưa đủ đáp ứng được các yêu cầu cao mà nhà trường đòi hỏi.
Chúng tôi đã cố gắng rất nhiều, rất vất vả để tiếp thu được bài giảng trên giảng đường và tự nghiên cứu, học hỏi các Thầy, Cô và bè bạn người Nga ở nhà mới có thể tra cứu được những tác phẩmtham khảo.
Sau năm năm, chúng tôi tốt nghiệp về nước, và may mắn thay, năm 1978, chúng tôi có trong tay quyển Từ điển Nga Việt hai tập của ba tác giả Alikanov, Inna Mankhanova và Ivanov. Đối với những giáo viên tiếng Nga như chúng tôi ở Trường Đại học, đây là một món quà vô giá. Chúng tôi rất dễ dàng tìm ra từ mới để soạn bài và giảng dạy. Những sinh viên của chúng tôi trong năm học dự bị, dù ai hoàn cảnh khó khăn đến đâu cũng cố mua được hai tập từ điển Nga - Việt, như là một loại sách công cụ gối đầu giường không thể nào thiếu được.
Hai tập từ điển này liên tục được Nhà Xuất bản Tiếng Nga tái bản mới đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của tầng lớp trí thứcViệt Nam, những người học tiếng Nga tại các Trường Đại học và cho hàng trăm ngàn lao động Việt Nam sang Nga làm việc. Sách được bày bán ở tất cả các Hiệu sách Ngoại văn Hà Nội và các Hiệu sách Nhân dân trên cả nước.
Khi sinh viên từ Việt Nam sang Nga du học, ngoài hành trang đơn sơ gồm mấy vật dụng được Bộ Đại họcchu cấp, bất cứ ai cũng cho vào va ly hai tập từ điển, vì mọi người đều hiểu rằng, nếu thiếu nó thì khó lòng vượt qua được những kỳ thi tiếng Nga và chuyên môn ở nước bạn.
Tôi dám khẳng định rằng, không một ai ở Việt Namnghiên cứu tiếng Nga, văn học Nga, các ngành khoa học liên quan tới tiếng Nga mà không sử dụng hai tập từ điển này.
Khi đó, dù chưa biết tác giả là ai, nhưng chúng tôi đều nghĩ rằng, họ là những nhà bác học, am tường không chỉ tiếng Nga mà hiểu biết rất tinh tế về tiếng Việt, văn hóaViệt Nam.
Mãi sau này, khi sang Nga Nghiên cứu sinh trở lại, tình cờ tôi mới được biết, được gặp các tác giả tại một Hội thảo của Viện Phương Đông, đó là ông Nguyễn Minh Cần và bà Anna Mankhanova, những người am tường Đông Tây Kim Cổ. Ông bà sống trong một căn hộ nhỏ gần khu vực Tây Nam thành phố Matxcơva, sinh hoạt, ăn mặcđạm bạc và bình dị. Ông bà không có ô tô, không có nhà nghỉ, chỉ có những vật dụng cổ lỗ thời Xô Viêt, nhưng bù lại, chất bốn quanh nhà là những giá sách khổng lồ nhiều thứ tiếng. Trong thời gian viết Luận án, khi cần tra cứu một từ khó nào không có trong Từ điển, chúng tôi gọi điện hỏi ông, và lúc nào cũng vậy, ông đều giải đáp một cách tận tình và thấu đáo.
Tôi cũng được làm quen với tác giả Ivanov, được ông chia sẻ, kể về quá trình xây dựngkế hoạch và cùng viết hai tập Từ điển với ông Alikanov và bà Mankhanova.
Còn nhớ vào năm 2006, một Giáo sư người Nga đặt vấn đề với chúng tôi về việc bổ sung, làm lại quyển Từ điển Nga Việt cho phù hợp với tình hình mới, bởi vì số lượng từ không ngừng tăng lên, các thuật ngữ khoa học kỹ thuật cần được đưa vào để đáp ứngyêu cầu của những người nghiên cứu. Hơn nữa, gần hai chục năm sau khi Liên Xô sụp đổ, số lưu học sinhViệt Nam sang Nga lên tới con số bảy ngàn, nhưng hai quyển Từ điển này không được tái bản, trừ một số cơ sở in ấn in lậu, in chui, đưa sang bán trong các Trung tâmThương mại người Việt. Chúng tôi đến gặp ông Nguyễn Minh Cần và bà Anna Mankhanova; ông bà cho biết là toàn bộ bản quyền quyển Từ điển đã thuộc và Nhà Xuật bản Tiếng Nga từ thời Liên Xô cũ, ông bà không đủ tư cách pháp nhân để đứng ra giúp cho việc tái bản.
Chúng tôi lại tìm đến Nhà Xuất bản Tiếng Nga, bà Giám đốc trả lời rằng, Nhà Xuất bản sẵn sàng cho tái bản, nhưng có một điều cần nói thật là nó đã cũ tính về mặt thời gian, nên nếu làm một cách khoa học thì phải rà soát lại và bổ sung thêm một khối lượng từ mới. Còn nếu tái bản khôngsửa chữa, thì phải trả cho họ tới 40% giá bìa. Điều này không thể nào thực hiện được, vì tira chỉ khoảng 2000, bán hết cũng chưa trả đủ tiền in. Chỉ có một cách duy nhất, đó là phải viết bổ sung được trên 25% số từ, như thế về mặt luật xuất bản của Nga, chúng tôi sẽ được toàn quyền sử dụng in ấn. Dĩ nhiên điều đó vượt quá khả năng của chúng tôi về mặt thời gian cũng như về mặt kiến thức.
Anh bạn Giáo sư người Nga và chúng tôi cùng bàn bạc và cho rằng, để thực hiện được yêu cầu này thì phải xây dựng một dự án, cần có thêm một số người tham gia làm việc trong vài ba năm, cần có một nhà tài trợ. Về sau, bởi nhiều lý do khác nhau không thuận lợi, chúng tôi đành gác lại, nói đúng hơn là không dám nghĩ đến việc tái bản lại công trình đồ sộ này.
Và chúng tôivô cùngngạc nhiên đến sửng sốt, khi sau đó ba năm, năm 2007, Quyển Từ điển Nga Việt mới gần 50 ngàn từ được ấn hành, tác giả không ai khác là ông Nguyễn Minh Cần và bà Anna Mankhanova. Cầm quyển TỪ ĐIỂN NGA – VIỆT MỚI trong tay mà bản thânchúng tôi cũng không dám nghĩ đó là một sự thật. Chúng tôivô cùng khâm phục sức lao động không mệt mỏi, trí tuệmẫn tiệp của hai tác giả khi tuổi tác đã ngoại tám mươi. Đáng khâm phục hơn nữa khi được biết, ông bà làm việc này với một khoản thù lao, nhuận bút vô cùng ít ỏi vì số lượng in ra chỉ vỏn vẹn 2000 cuốn, không hề một ai tài trợ và giúp đỡ về mặt tài chính.
Cầm quyển từ điển trong tay, chúng tôi muốn nói với các bạn rằng, chúng ta đã mất đi một nhà khoa học, một người đã có công lao rất lớn đối với nhiều thế hệnghiên cứu tiếng Nga, mà cho đến nay chưa ai có thể vượt qua được. Con người đó đã yên nghỉ đời đời.
Trong giây phút đau thương này, cho phép tôi bày tỏ sự sẻ chia niềm mất mát lớn lao đối với toàn thểgia quyến của người đã khuất; đồng thời tôi cũng muốn thay mặt tất cả những ai đã học tiếng Nga, nghiên cứu tiếng Nga, đã từng cầm trong tay hai tập Từ điển Nga – Việt, bày tỏ sự kính trọng và biết ơn đối với một nhà trí thức bậc nhất của chúng ta tại Nga: Nhà soạn từ điển Nga Việt Alikanov- Nguyễn Minh Cần.
Chúng tôi rất muốn rằng, khi có điều kiện, công trình cao quý đó sẽ được tiếp tục tái bản để góp phần vào việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu tiếng Nga cho nhiều tầng lớp và nhiều lứa tuổi người Việt Nam kể cả trong nước và ở nước Nga. Đây là việc làm rất thiết thực, là nhịp cầu nối hai nền Văn hóa Nga Việt và góp phần giúp cho chúng ta tiếp cận, học hỏi và tiếp thụ những kiến thức khoa học, kỹ thuật của nước Nga vĩ đại.
Nguyễn Minh Cần sống như một dòng suối trong veo. Anh theo mẫu người nhà nho tráng sĩ những thế kỷ trước. Như Thủ Khoa Nguyễn Hữu Huân hai lần khởi nghĩa, hai lần bị quân Pháp bắt, thong dong dặn dò vợ con trước khi chịu tử hình. Như Giải Nguyên Nguyễn Cao khi bị bắt và được dụ hàng, đã khẳng khái từ chối rồi tự mổ bụng ném vào mặt quân giặc, nói: “Ruột gan tôi như thế này, ai cũng biết cả rồi!”
Năm 17 tuổi, Nguyễn Minh Cần đã tham dự cuộc Cách Mạng Tháng Tám giành độc lập ở Huế, quê hương ông. Năm sau ông đã vào đảng Cộng Sản vì tưởng đây là con đườngduy nhất để cứu nước, làm tới ủy viên Thường Vụ Tỉnh Ủy Thừa Thiên. Rồi ra Bắc hoạt động ở ngoại thành Hà Nội, sau năm 1954 làm ủy viên Thường Vụ Thành Ủy Hà Nội, kiêm phó chủ tịch Ủy Ban Hành Chính thành phố. Trong khi ông đang học Trường Đảng Cao Cấp ở Moskva, Cộng Sản Việt Nam thanh trừng nội bộ bằng chiến dịch Chống Chủ Nghĩa Xét Lại. Năm 1964 Nguyễn Minh Cần ra khỏi đảng, xin tị nạn chính trị ở Liên Xô, làm nghề dạy học, phiên dịch và viết sách, có khi ký tên là Alikanov để qua mắt công an Việt Cộng. Ông và vợ là bà Inna Malkhanova đã tham dự các cuộc biểu tình vào Tháng Tám năm 1990, khi chế độ Cộng Sản Liên Xô đang sụp đổ. Ông thường kể trong đời mình đã dự hai lần “Cách Mạng Tháng Tám!” Từ năm 1990, ông tham giatích cực vào cuộc vận độngtự dodân chủ của người Việt Nam khắp thế giới. Ông tham dự các tập họp chính trị, viết sách viết báo cho đồng bào trong nước và hải ngoại đọc, lúc nào cũng lo gây dựng tình đoàn kết giữa những người cùng lý tưởngdân chủtự do.
Nếu được gặp anh Nguyễn Minh Cần thì mình sẽ làm gì? Tôi mới tự hỏi. Mấy năm rồi tôi vẫn tính đi Nga thêm một chuyến; để có cơ hội được gặp anh Nguyễn Minh Cần. Gặp một lần nữa trước khi anh ra đi. Khi cùng đi với Lan Hương đến thăm anh ở Moskva lần chót, đã thấy anh rất yếu, sau đó lại có tin anh phải vào bệnh viện mấy lần. Mỗi lần ở nhà thương ra, anh lại viết thư ngay, báo tin anh vẫn khỏe để giúp mọi người bình tĩnh! Và anh bàn bạc ngay những vấn đề đất nước, xin mọi người phải chú ý theo dõi, loan báo tin tức và bày tỏ ý kiến công khai.
Con người Nguyễn Minh Cần chứa một tấm lòng nhiệt thành, tận tụy vì lý tưởng; một tâm hồn ngay thẳng, đĩnh đạc, bộc trực gần như nóng nảy. Anh giản dị, chân thành, lo lắng cho công việc chung, cho tất cả bạn bè anh em. Hỏi tới chuyện nào anh cũng sẵn sàng nói và anh biết rất nhiều; không thấy anh ngần ngại hay tỏ ra muốn giữ kín một điều gì bao giờ. Anh và chị Inna là những con ngườitrong suốt.
Tôi chưa thấy anh chị nói nặng lời về một ai bao giờ, trừ hai nhân vật, với chị Inna là Stalin, với anh Cần là Hồ Chí Minh. Nhưng thực ra họ cũng không nói nặng lời. Họ chỉ kể lại những tội ác của các lãnh tụ Cộng Sản bằng giọng nói bình thản, khách quan, với những câu chuyệncụ thể, các con số, mà hai người đã để tâmnghiên cứu. Khi Vladimir lên cầm quyền được hai, ba năm anh Cần đã báo động với tôi rằng chế độ độc tài đang được tái lập, Putin sẽ là một “đại đế” mới! Khi tôi đề nghị anh viết một bài cho báo Người Việt về tình trạng này, anh đồng ý. Nhưng khi tôi ngỏ ý đưa trả tiền trước nhuận bút, anh gạt tay tôi rất mạnh, từ chối. Anh bảo khi nào viết, đăng rồi hãy trả tiền!
Lần đầu Lan Hương đưa bố con chúng tôi tới ở nhà anh chị tại Moskva trước đây hơn 20 năm, anh chị đã đưa tôi và Bão Phác đi thăm trang trại cũ của nhà văn Tolstoi, một thần tượng của chị. Anh dạy tôi trong tiếng Nga cái tên Tolstoi phải đọc chữ “o” vần đầu như chữ “a.” Cũng như Moskva vần đầu đọc “Mo” là “Ma,” tên cháu Lan Hương là Tonia cũng vậy. Anh chịcho biết vào cuối đời nhà văn đã khám phá ra giáo lý “hiện pháp lạc trú” (an trú trong hiện tại) của Phật Thích Ca; nhưng chắc không có duyên thực tập. Trên con đường hơn 300 cây số, đi mất 6, 7 giờ, xe taxi lâu lâu dừng lại. Có lúc tôi hỏi lý do, anh Cần lắc đầu, vừa cười vừa nhăn mặt: Bà ấy thấy mấy con chó hoang là phải cho chúng ăn. Đi đâu cũng mang theo bọc thức ăn cho chó! Nhìn ra, quả nhiên thấy chị Inna đang đứng giữa một bầy chó nhẩy nhót chờ đón quà! Chị Inna lập ra hội những người bảo vệ chó, đi đâu thấy chó hoang là chị đưa về nhà nuôi.
Sau khi tham ngôi nhà cũ, khu vườn mà hai ngôi mộ của Lev và Sophia Tolstoi, chúng tôibước ra về trên con đường ra cổng trang trại, hai bên cây xanh che phủ. Anh Cần đi trước, chị Inna và tôi đi sau. Đang bước đi tôi trông thấy một con sâu róm đang bò ngang đường, lủi thủimột mình. Tôi đi chậm lại, chú ý bước qua không để vô tình giẫm chân lên con sâu. Nhưng bỗng chị Inna dừng lại. Chị cúi xuống, đưa hai ngón tay phải nhắc con sâu lên, để nó trên bàn tay trái. Rồi chị bưng con sâu đi chậm chậm sang một bên đường, cẩn thận đặt con sâu đi lạc trên một cành lá xanh. Xong, chị lại tiếp tục bước đi, nói tiếp câu chuyện đang nói dở.
Đó là cung cách trong cuộc sống của anh chị Inna Malkhanova và Nguyễn Minh Cần. Sau nửa thế kỷ sống bên nhau, hai người giống nhau trong tư tưởng, trong cách nói năng bằng tiếng Nga và tiếng Việt, trong cách cư xử với mọi người. Cách đây sáu, bảy năm, tôi tới Moskva muốn đến thăm anh chị, anh nhất định tới đón tôi tận khách sạn. Năm đó đã thấy anh phải chống gậy. Anh và chị đã quy y với Thầy Như Điển ở Đức, nhận pháp danh Thiện Mẫn và Thiện Xuân. Anh chị đã lập một thiền đường và một hội Phật học ở Moskva.
Tuổi già giọt lệ như sương. Nhưng sáng nay mở email ra đọc tin anh Nguyễn Minh Cần qua đời, bao nhiêu bạn bè và các em của anh không thể cầm được giọt lệ. Chị Quản Mỹ Lan ở Pháp viết: “Nay anh Nguyễn Minh Cần ra đi là một sự hụt hẫng, là nỗi mất mát kinh khủng nhất!” Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ ở New Zealand viết: “Nguyện cầu vong linh anh Nguyễn Minh Cần được an nhàn nơi cõi phước.”
Tôi đọc mấy thư anh chị em trao đổi tỏ lòng thương tiếc anh Nguyễn Minh Cần, nghẹn ngào đứng dậy đi ra ngoài đường, vừa đi vừa tự hỏi: Nếu năm ngoái, năm kia, được đến thăm anh Nguyễn Minh Cần và chị Inna thì mình sẽ làm gì nhỉ? Chắc cũng không làm một điều gì quan trọng. Chắc tôi chỉ ngồi uống trà với anh và chị Inna, nhìn nhau cảm thông trong hơi thở và nụ cười. Gặp anh chị, trò chuyện với anh chị, giống như được tắm gội trong một dòng suối ấm áp trong trẻo của hai con người đáng yêu và đáng kính trọng.
Tôi chợt nhớ câu thơ Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê. Rồi đọc lại bài thơ Thanh Tâm Tuyền viết cho Quách Thoại: “Còn người thi sĩ đi vào miền đất lạ - không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.”
Chắc giờ này anh Nguyễn Minh Cần đang “được an nhàn nơi cõi phước” như Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ cầu nguyện. Anh sẽ được quên những chuyện trần gian, “không nhớ mảy may biển gió cát muôn trùng.” Anh đã chứng kiến bao nhiêu cảnh khổ đau của đồng bào, của đất nước. Một lần cùng đi xe qua Đại lộ Arbat ở Moscow, anh Nguyễn Minh Cần chợt chỉ tay lên, nói với tôi: “Anh Văn Doãn đã tự tử từ lầu sáu ngôi nhà này.” Sau gần 40 năm, anh Cần vẫn chưa quên người đồng chí đã từng làm tổng biên tập báo Quân Đội Nhân Dân, từng quyết định tị nạn ở Nga với anh, và đã tuyệt vọng khi mất cả quê hương lẫn lý tưởng. Riêng anh vẫn còn nghị lực sống thêm gần nửa thế kỷ, tiếp tụctheo đuổilý tưởngcuộc đời mình. Anh đã hiến dâng cả cuộc đời chỉ mong quê hương được độc lập, tự do, dân chủ. Bây giờ mong hương hồn anh Nguyễn Minh Cần không còn bị trói buộc trong “biển gió cát muôn trùng” này nữa. Những người còn ở lại sẽ tiếp tụccon đường anh đã cùng đi qua, mỗi người mang trong mình bầu máu nóng, đức trong sáng của Nguyễn Minh Cần. Anh sẽ sống mãi trong lòng đồng bào, trong phong tràophục hưng tổ quốc. Cầu nguyện anh “an nhàn nơi cõi phước.”
Thêm một người đi xa
Kính tiễn biệt nhà báo Nguyễn Minh Cần (1928-2016)
Tôi gặp anh chỉ một lần. Mười sáu năm trước, rất dễ nhớ vì năm đó là năm 2000. Bác Sĩ Lâm Thu Vân đề nghị tôi đến Montreal để góp phần trong một chương trình nhiều diễn giảthuyết trình chung quanh chủ đề “Hướng đi nào cho dân tộc Việt Nam”. Một diễn giả đến từ Nga là nhà báo Nguyễn Minh Cần.
Bên cạnh các thế hệ đàn anh, lớp trẻ chúng tôitham dựchương trình này khá đông. Ngoài tôi còn có Ls Nguyễn Xuân Phước và một số luật sư trẻ từ California. Phước bay từ Dallas sang Boston và từ Boston chúng tôi lái xe qua Canada.
Sau phần thuyết trình buổi sáng, Phước bảo tôi, “Chiều nay ông và tôi sẽ gặp riêng anh Nguyễn Minh Cần. Buổi sáng đông người nói không hết ý, ai cũng thận trọngquá đáng. Tôi lấy hẹn với ảnh rồi”. Phước gặp ai và ở đâu cũng bắt chuyện dễ dàng nhưng hôm đó lấy hẹn chẳng qua vì lòng kính trọng dành cho anh.
Chúng tôi ngồi trong phòng nhỏ. Phước ra ngoài đóng cửa lại để không bị quấy rầy. Thái độcẩn thận của Phước làm anh Nguyễn Minh Cần cũng có chút ngạc nhiên, có gì bí mật chăng. Thật ra không có gì cả. Chúng tôi đều đã đọc nhau trước và Phước rất vui tính nên cuộc hẹn diễn ra rất thoải mái dù chỉ mới gặp nhau lần đầu. Khác với buổi sáng nói năng rào đón, ba anh em nói chuyện không kiêng cữ. Anh kể khá nhiều về hành trình từ Hà Nội sang Nga từ 1962 cho đến năm 2000.
Cuối cuộc hẹn, Phước nhìn anh và hỏi một cách trân trọng “Anh có gì để lại cho bọn em không?” Anh Nguyễn Minh Cần biết đó không phải là câu hỏi dành cho người sắp chết mà là câu hỏi chân thành của những người thuộc thế hệ sau nhìn lên thế hệ trước.
Anh không trả lời trực tiếp nhưng nói rất thâm trầm về đời sốngtinh thần của anh, về đạo Phật, về Niệm Phật Đường Thảo Đường vừa được hoàn thành. Anh chỉ muốn để lại kinh nghiệm, kiến thức nhưng tương lai Việt Nam sẽ đặt nặng trên vai của các thế hệ hôm nay. Anh thuộc về quá khứ. Anh sẽ tiếp tục viết những nhận định chính trị và về chế độ CS nhưng không phải với tư cách là người hoạt động mà để giúp tăng thêm hành trang kiến thức cho các thế hệ đang đấu tranh cho tự dodân chủ.
Tôi và Phước không dám nói gì về đời sốngtinh thần của anh nhưng mong anh cố gắngtiếp tục đóng góp cho công cuộc vận độngdân chủ còn nhiều khó khăn và cũng bởi vì đảng CS ngày nay cũng chính là đảng CS mà anh đã đương đầu mấy mươi năm trước. Anh đồng ý và từ đó giữ liên lac, đọc nhau và không quên nhau như mới đây anh còn nhắc trong bài viết về Gs Nguyễn Ngọc Bích. Anh rất buồn khi nghe tin anh Nguyễn Ngọc Bích ra đi. Anh mất đi một người bạn đã nhiều lần gặp gỡ. Qua anh Nguyễn Ngọc Bích, anh cảm nhận được giá trị của nền giáo dục ở miền Nam Việt Nam trước 1975.
Tôi ngậm ngùi đọc bài anh viết về Gs Nguyễn Ngọc Bích và rồi ngậm ngùi hơn khi biết tin anh cũng vừa ra đi.
Cả ba người trong chuyến xe lịch sử mà tôi gặp, anh, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích và Luật sư Nguyễn Xuân Phước đều lần lượt qua đời. Rồi ai nữa, không ai biết, nhưng có một điều mà tôi, và chắc nhiều người cũng đồng ý, vì đời ngườivô cùng ngắn ngũi hãy sống hết lòngvới nhau như mình sẽ không còn sống ngày mai.
Xin chia buồn cùng tang quyến và cầu nguyện hương linh cư sĩ Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần siêu thăng Tịnh Độ.
Boston, Hoa Kỳ 16-5-2016 Trần Trung Đạo ----------------------------
LỊCH SỬ LẠI MẤT THÊM MỘT NHÂN CHỨNG
Nhà văn Vũ Thư Hiên hiện đang sống tại Pháp đã viết bài đặng trên trang facebook của mình để nói lên những cảm xúc của mình khi nghe tin chú Nguyễn Minh Cần vĩnh viễn ra đi. Hiện đã có trên 900 lời chia buồn của bè bạn khắp nơi gửi qua facebook của chú để chia buồn cùng gia đình chú Nguyễn Minh Cần.Dưới đây chúng tôi xin đọc một số đoạn trong bài viết của nhà văn Vũ Thư Hiên.
Thế là Nguyễn Minh Cần đã đi xa. Đành rằng đã 88 tuổi trời, ông có chia tay với chúng ta âu cũng là lẽ thường. Nhưng mới hôm nào còn được nghe tiếng ông sang sảng bên kia đầu dây, mà hôm nay không còn có thể trò chuyện với ông nữa, thì tin ông mất vẫn cứ làm tôi choáng váng, như thể tin không thực. Cảm giác của con người là vậy - chúng ta quen thấy mọi vật như một cái gì đó vĩnh hằng, cho đến khi không thấy nữa mới biết là không còn. Cuộc đời Nguyễn Minh Cần gắn liền vớilịch sửViệt Namcận đại. Rõi theo những khúc quanh của cuộc đời ông bằng con mắt chăm chú ta có thể thấy những bước dịch chuyển của tư duy hướng Thiện của những người như ông trong bối cảnh cái Ác lộng hành. Nguyễn Minh Cần tham gia cuộc đấu tranh cho giải phóng dân tộc rất sớm. Trong phong trào này ông trở thành đảng viên cộng sản cũng rất sớm. Năm 18 tuổi ông đã được bầu làm uỷ viên thường vụ thành uỷ thành phố Huế. Năm 25 tuổi đã là uỷ viên thường vụ thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch thành phố. Những người được đảng cộng sản tín nhiệm như ông không phải hãn hữu, nhưng cũng không nhiều. Nói tóm lại, Nguyễn Minh Cần được đảng đánh giá cao, được đặt vào hàng những đảng viên ưu tú. Để bồi dưỡng cho hàng ngũ kế cận, năm 1962 ông được cử đi sang Liên Xô (cũ) học tại Trường đảng cao cấp ở Moskva. Đảng không tin tưởng Nguyễn Minh Cần còn tin tưởng ai. Thế mà đùng một cái, người đảng viên ưu tú ấy, cùng với một số đảng viên cũng ưu tú không kém, vào một ngày đẹp trời bỗng trở thành “phản động”. Cứ thông đồng bén giọt, trên chính trựờng Việt Nam ắt ta gặp một Nguyễn Minh Cần ở tầng cao nhất trong hệ thống cai trị, chứ không phải Nguyễn Minh Cần mà ta quen biết. Không biết đảng có ngạc nhiên với sự thay đổi đột ngột trong người đảng viên ưu tú của mình không, chứ dân thường ngạc nhiên lắm. Từ ngạc nhiên đến tò mò, từ tò mò đến tìm hiểu là những bước ngắn. Tìm hiểu rồi, người ta mới ngộ ra: Thay vì phải sùng bái đảng, coi đảng là lý tưởng, họ lại coi đảng không hơn bộ quần áo, cần thì mặc, thấy nó chật, nó rách, thì vứt. Nguyễn Minh Cần là một trong số người này. Bộ quần áo cộng sản thấy chật rồi, rách rồi, thì ông quẳng đi. Chỗ thích hợp cho nó, theo ông, là thùng ráclịch sử. Bộ máy mật thám của đảng toàn năng đã làm việc rất tốt. Tôi vào tù. Nguyễn Minh Cần sống lưu vong. Năm 1992 chúng tôi gặp lại nhau. Lần gặp gỡ này đáng nhớ. Nó là lần gặp lại của hai người trước sơ, nay đã thành thân - chúng tôi giờ có chung một con đường. Ngày trước tôi chỉ biết một Nguyễn Minh Cần, thường vụ thành uỷ, phó chủ tịch thành phố Hà Nội, phụ trách mảng nông thôn, và cũng chỉ gặp ông trong những cuộc họp báo. Khi ấy Nguyễn Minh Cần là quan, tôi là dân. Chúng tôi có vài cuộc trò chuyện bên lề, là hết. Sơ là sơ thế thôi, có biết nhau, nhưng không hề là bạn. Giờ đây, chúng tôi có nhiều chuyện để hàn huyên - nhiều nhất là những chuyện thâm cung bí sử mà trước đây mỗi người chỉ được biết một mảng, biết mà không nói ra, không dám nói ra, vì… bộ quần áo đang mặc. Nay vứt nó đi rồi, chúng tôibàn luậnthoải mái, thênh thang. Chẳng hạn như chuyện cái chết thương tâm của bà hoàng hậu cuối cùng của triều Nguyễn… Ái Quốc. Cùng sống ở Moskva, chúng tôigặp nhau thường. Từ những chuyện trò tâm sự tôi hiểu ông: Nguyễn Minh Cần đã tìm được con đường đúng cho mình nhờ lý trí thì ít mà nhờ trái tim thì nhiều. Bước ngoặt đến, đảng không thuyết phục được ông thì đảng bắt ép ông phải tuân theo. Ông không còn lựa chọn nào khác là phải vạch trần những sai trái của đảng, rồi đến lúc ông phải tuyên bố ly khai nó. Cuộc sống lưu vong, lại ở trong một nước cũng vẫn là cộng sản, không hề dễ dàng. Nhất là đối với những người không chỉ ly khai đảng của họ, mà còn ly khai với cả lý thuyết mác-xít mà Đảng cộng sản Liên Xô vẫn còn coi là kinh thánh. Người ta cho nhóm đảng viên cộng sản Việt Nam ly khai được tị nạn chính trị trong bối cảnh giữa hai đảng có những bất đồng. Một khi những bất đồng được dàn xếp xong, hiểm hoạ bị trục xuất về Việt Nam vẫn như thanh gươm Damocles lủng lẳng trên đầu Nguyễn Minh Cần và những người bạn ông. Chuyện này dài, nhiều chi tiếtđau lòng, không biết Nguyễn Minh Cần có ghi lại đâu đó không? Năm 1993, ông lập Hội “Phật giáo Thảo đường” đầu tiên ở Moskva. “Ở mọi nước cộng sản ta đều thấy hiện tượngxã hội xuống cấp, suy đồi - ông tâm sự - Nguyên nhân là mọi con đường dẫn tới cái Thiện tâm linh đã bị huỷ hoại tận gốc. Mọi xã hội cộng sản rồi sẽ tiêu vong, điều đó tất yếu, nhưng cái còn lại sau sự sụp đổ của nó mới là cái đáng sợ hơn hết - sự trống vắng mọi niềm tin. Phật giáo là một minh triết tâm linh, không phải một tôn giáo có tổ chức, nó là phương thuốc tốt cho một xã hội tan nát”. Để lập Hội “Phật giáo Thảo đường” nhỏ bé, chỉ là một căn hộ bình thường, đủ chỗ cho một số không nhiều những tín hữu đầu tiên đến tu tập, ông không có một xu dính túi. Tôi đưa ông một số tiền nhỏ. Ông nói đây là tiền vay và ông sẽ trả. Quả nhiên, năm sau ông đem trả tôi số tiền tôi ủng hộ, nói thế nào ông cũng không chịu. “Khi tôi trả được, có nghĩa là “Phật giáo Thảo đường” đã hoạt động, đã có sự đóng góp của các tín hữu đồng đạo. Ông mừng cho chúng tôi đi”.
Mỗi con người đi xa (tôi không muốn, tôi buồn khi phải đặt bút viết chữ “mất”) bao giờ cũng để lại trong tôi một ấn tượng, như món quà cuối cùng. Ấn tượng về Nguyễn Minh Cần là hình ảnh một con ngườitrong sáng. Có được lương tâmtrong sáng ấy là do ông có một trái tim rất Thiện. Chả thế mà ông chọn cho mình pháp danh Thiện Mẫn. ----------------------
Lời Phân Ưu của quýThân Hữu đối với Hương Linh Bác Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần & Tang Quyến
(Chị My Loan đọc phần này)
Chú Nguyễn Minh Cần là Chủ Tịch, sáng lập viên Hội Phật GiáoThảo Đường,
Bình luận gia chính trị về tình hìnhthế giới và Việt Nam cho nhiều đài và báo.
Thành viên sáng lập tổ chức Họp Mặt Dân Chủ,
Phóng viên đài RFI, RFA trong nhiều năm.
Với tính cáchchân thật, cởi mở và dễ gần, chú Nguyễn Minh Cần được anh em, bè bạn cùng làm việc ở khắp nơi yêu quý, kính trọng coi như người anh cả. Trước sự ra đi của chú, tất cả bè bạn ở khắp nơi trên thế giới đều vô cùngthương tiếc, chỉ trong vòng 3 ngày sau khi chú Nguyễn Minh Cần ra đi, đã có 650 lời chia buồn gửi vào facebook của một thân hữu.
(Khôi đọc phần này)
Từ Washington, ông Nguyễn Mậu Trinh viết:
Từng giai-đoạn, anh Nguyễn Minh Cần đã sống với thái-độ tỉnh-táo và hành-động dứt khoát hiếm thấy, đáng quý : hăng say với tuổi trẻ, chín chắn khi đã lớn và nhẹ-nhàng lúc về già.
Anh là tấm gương sáng cho thanh-niên hôm nay, cho người lạc lối bên kia và cho tuổi cao-niên vẫn loay-hoay về mình.
(Chị My Loan đọc phần này)
Từ Hoa Thịnh Đốn nhà văn Trương Anh Thụy gửi lời chia buồn như sau:
Anh Nguyễn Minh Cần trọng kính, Sự nghiệp đấu tranh giànhTự Do, Dân Chủ cho Quê Hương của một người yêu nước như Anh thì chẳng bao giờ là đủ hay là hết, vì thế cho nên xin Anh cứ thanh thản ra đi để lại cho đàn em kế tiếp... Cuốn sách “ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM QUA NHỮNG BIẾN ĐỘNG TRONG PHONG TRÀO CỘNG SẢN QUỐC TẾ” mà Anh là tác giả vừa được đưa vào nhà in, xin Anh phù hộ cho nó được vào tràn ngập trong nước, ….!
Xin chia sẻ nỗi đau buồn cùng chị Inna, các cháu Tịnh-Hằng cùng toàn thể thành viên Ban Quản Trị Hội Phật GiáoThảo Đường. Cầu xin hương linh Anh sớm đươc vãng sinh nơi đất Phật.
(Khôi đọc phần này)
Từ Boston ông Trần Trung Đạo đã gửi đến những dòng chia xẻ như sau:
Tôi gặp Anh chỉ một lần ở Canada năm 2000 nhưng vẫn còn nhớ rõ. Hôm đó, Anh, Ls Nguyễn Xuân Phước và tôi ngồi trong một phòng nhỏ và nói chuyện suốt mấy tiếng đồng hồ. Chúng tôi cần học hỏi và Anh cũng cần san sẻ tấm lòng, chuyển giaoước vọng chung của đất nước cho thế hệ sau. Cuối cuộc hẹn, Nguyễn Xuân Phước nhìn Anh và hỏi một cách trân trọng “Anh có gì để lại cho bọn em không?” Anh Nguyễn Minh Cần biết đó không phải là câu hỏi dành cho người sắp chết mà là câu hỏi chân thành của những người thuộc thế hệ sau nhìn lên thế hệ trước. Anh không trả lời trực tiếp nhưng nói rất thâm trầm về đời sốngtinh thần của Anh, về đạo Phật, về Niệm Phật Đường Thảo Đường vừa được hoàn thành. Anh chỉ muốn để lại kinh nghiệm, kiến thức nhưng tương lai Việt Nam sẽ đặt nặng trên vai của các thế hệ hôm nay. Anh thuộc về quá khứ. Anh sẽ tiếp tục viết những nhận định chính trị và về chế độ cộng sản nhưng không phải với tư cách là người hoạt động mà để giúp tăng thêm hành trang kiến thức cho các thế hệ đang đấu tranh cho tự dodân chủ. Chúng tôi cám ơn Anh. Cám ơn tấm lòng của Anh dành cho đất nước. Yêu nước không bao giờ quá trễ. Anh chọn đúng thời điểm để đứng về phía tự do, dân chủ và từ đó Anh đi cùng dân tộc. Mười sáu năm sau, chúng tôi “gặp” lại nhau khi làm kỷ yếu tưởng niệm Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích, một người bạn thân thiết của Anh và là người anh kính quý của tôi. Tôi ngậm ngùi đọc bài Anh viết về Anh Bích và rồi ngậm ngùi hơn khi biết tin Anh cũng vừa ra đi. Cả ba người trong chuyến xe lịch sử mà tôi gặp, Anh, Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích và Luật sư Nguyễn Xuân Phước đều lần lượt qua đời. Rồi ai nữa, không ai biết, nhưng có một điều mà tôi, và chắc nhiều người cũng đồng ý, vì đời ngườivô cùng ngắn ngũi hãy sống hết lòngvới nhau như mình sẽ không còn sống ngày mai. Kính cầu nguyện hương linh cư sĩ Thiện Mẫn Nguyễn Minh Cần siêu thăng Tịnh Độ.
Chị My Loan đọc đoạn này:
Từ California nhà văn Nhật Tiến gửi lời chia buồn như sau:
Xin phân ưu cùng tang quyến.
Xin cầu chúc hương linh người quá cố sớm tiêu diêu miền cực lạc.
Ước mong các Đảng viên đương nhiệm của Đảng CSVN sớm noi gương Chí sĩ Nguyễn Minh Cần để góp phần đem lại Tự Do, Dân Chủ và Nhân Quyền cho Việt Nam.
KHôi đọc phần này:
Từ Hoa Thịnh Đốn, nhà văn Uyên Thao viết:
"Hết sức đau buồn trước tin anh Nguyễn Minh Cẩn đã vĩnh viễn rời xa chúng ta.
Xin được chia xẻ cùng tòan thể tang quyến sự mất mát lớn lao này .
Chân thànhcầu chúc hương linh anh Nguyễn Minh Cần sớm về cõi Tây Phương Cực Lạc."
Chị My Loan đọc đoạn này:
Từ Niu Dilân (New Zealand) Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ gửi đến những lời thương tiếc dưới đây:
Anh Nguyễn Minh Cần đúng là hình ảnhtiêu biểu cho một Kẻ Sĩ Của Thời Đại.
Tôi không bao giờ quên được lần đầu gặp anh tại nhà của anh Trần Quốc Bảo ở Arcaida. Cali năm nào.
Hôm đó, chúng tôi ngồi nói chuyện suốt buổi chiều dưới bóng cây trước sân nhà anh Bảo. Đêm đó anh em ngồi bên ấm trà nói chuyện đến quá nữa đêm. Anh Nguyễn Minh Cần nhận được trọn vẹn sự thương mến và kính phục của tôi.
Tôi xin thành kínhchia buồn với gia đình và tang quyến. Cầu xin cho anh sớm được an nhàn nơi cõi phước. Một người như anh Nguyễn Minh cần thì Phật cũng đón và Chúa cũng rước.
Thương tiếc anh
Lm Nguyễn Hữu Lễ
Khôi đọc đoạn dưới đây:
Từ Hoa Kỳ Ông Đỗ Trọng Linh gửi đến lời chia buồn như sau:
Xin chia buồn cùng tang quyến chí sĩ Nguyễn Minh Cần, người can đảm dấn
thân tranh đầu cho dân tộc khi còn rất trẻ và tiếp tục đấu tranh cho dân tộc
đến cuối đời, mất mát này không chỉ với gia đình ông mà còn là một mất
mát lớn cho những người cùng chí hướng
Xin được nghiêng mình tưởng nhớ ông
Chị My Loan đọc đoạn này:
Không chỉ có bè bạn từ nước ngoài gửi lời chia buồn trước sự ra đi của chú Nguyễn Minh Cần, rất nhiều nhà hoạt độngxã hội, nhà văn, nhà thơ từ trong nước cũng gửi đến đây những lời phân ưu
Từ Đà Lạt ông Mai Thái Lĩnh đã viết:
Xin chuyển lời chia buồn của các bạn ở Đà Lạt đến gia đình anh Nguyễn Minh Cần và các bạn hữu của anh Cần. (Vợ anh Cần là người Nga nên có lẽ chỉ có các anh chị ở ngoại quốc mới có điều kiệnliên lạc và phân ưu với gia đình).
Dù sao thì anh Cần cũng đã sống khá thọ (88 tuổi, theo âm lịch là 89 tuổi). Tôi cũng không hiểu bản thân mình có thể sống đến từng ấy tuổi hay không, và đến lúc đó thì chế độ này có thay đổi hay không? Nhưng thay đổi được một chế độ toàn trị kiểu châu Á như Việt Nam thì không phải chỉ muốn là được. Cần phải biến điều đó thành ý chí của một số đông người, đủ đông để có thể làm thay đổi chế độ.
Chúng ta đều là người đã có tuổi (thất thậpcổ lai hy), vì vậy chỉ có thể tâm niệm một điều: không bao giờ rời xa con đường đã chọn, và cố giữ cho đếnhơi thởcuối cùng. Điều ấy xem ra cũng rất khó chứ không phải dễ dàng…
Anh Nguyễn Minh Cần đã hoàn tấthành trình của mình - một sự lựa chọn không thỏa hiệp. Đó là điều đáng trân trọng đối với một trí thức. Và đó cũng là tấm gương đáng cho những người khác noi theo.
Khôi đọc đoạn dưới đây:
Từ trong nước, ông Hà Sĩ Phu gửi đến những dòng sau:
Làm ơn chuyển giúp chúng tôi lời chia buồn thiết tha đến gia đình bác Nguyễn Minh Cần, một chứng nhânlịch sử về sự lựa chọnlịch sử, về sự phân ly tất yếu giữa những người trí thứcchân chính với cái con đường Cộng sản ảo tưởng, bậc thầy về lừa mỵ.
Bác Minh Cần vừa mới ký vào một văn bản phản đối nhân vụ Cá chết miền Trung mới đây thôi mà bác đã từ biệt chúng ta! Chúc linh hồn bác Minh Cần bất tử, bác sống mãi trong lòng những người Việt Nam yêu nước..
Kính thư
Hà Sỹ Phu
Chị My Loan đọc đoạn này:
Từ Pháp bà Quản Mỹ Lan đã viết:
Ông Nguyễn Minh Cần (1928-2016) sinh sống tại một nước Cộng Sản (Liên Xô) nhưng được cộng đồng người Việt hải ngoại biết đến như một nhà báo. Trước khi là nhà báo ông là một nhà chính trị ( Uỷ viên Thường vụ Thành uỷ Hà Nội, kiêm phó chủ tịch Uỷ ban Hành chính thành phố Hà Nội.) nhưng trước khi là một nhà chính trị ông là một người Việt Nam, một người Việt Nam yêu nước.
Con người chính trị Nguyễn Minh Cần khi đang ở vị trí sáng chói trong đảng CS đã tỉnh ngộ khi sang học tại trường đảng cao cấp của Liên Xô và ông đã dứt khoáttừ bỏ cái đảng (1964) mà ông đã góp phần hình thành.
Chính lương tâm của một con ngườitrung thực đã đưa ông đến quyết định này.
Ông mất khi được mọi ngừi quý trọng, thương yêu.
Ông mất khi sứ mạng tìm tự do, dân chủ, nhân quyền cho đất nước chưa hoàn tất.
Thế hệ sau ông phải lãnh nhận sứ mạng cao quý này, tiếp nốicon đường ông đã đi dở dang..
Khôi đọc đoạn dưới đây:
Ông Tiêu Dao Bảo Cự gửi lời chia buồn như sau:
Xin chia buồn cùng chị Cần, gia đình và thân hữu của anh Cần.
Anh Cần là người CS "giác ngộ" sớm và đã đóng góp nhiều vào việc vạch trần sai lầm của chế độ CSVN.
Anh cũng đã lớn tuổi rồi nên theo mệnh trời thôi. Nhưng chúng ta luôn hi vọng vào triết lý cũng là thực tiễn "tre già măng mọc".
Chị My Loan đọc đoạn này:
Từ Hà Nội, bác sĩ Phạm Hồng Sơn viết:
Vâng. Không tránh được, các thế hệcon người cứ lần lượt ra đi trong khi vận nước trầm luân. Buồn quá!
Không hiểu gia đình, thân hữu của một người en exil lâu như thế sẽ tổ chức tang lễ ra sao (?).
Nếu có chia buồn được với gia đình, mong chị giúp chuyển lời chia buồn của em nhé. Cảm ơn chị!
Khôi đọc đoạn dưới đây:
Nhà thơ Bùi Minh Quốc gửi đến những lời phân ưu như sau:
Xin chuyển giùm lời chia buồn của tôi đến gia đình anh Nguyễn Minh Cần. Sự nghiệp đấu tranh giànhtự do, dân chủ, nhân quyền trên đất nước VN mà anh Nguyễn Minh Cần là một trong những người tiêu biểu đi tiên phong luôn được các thế hệtiếp nối và không ngừng phát triển, tôi thấy rõ thế và tin ở sức mạnh tất thắng của chính nghĩa; với niềm tin này, tôi tiễn đưa anh Cần thong dong về cõi vĩnh hằng. =----------------------
Một đời người đầy ý nghĩa
(Những lời tiễn biệt chú Nguyễn Minh Cần)
Kính bạch chư TônĐức Tăng, Ni đã từ xa tới đây chứng minh cho tang lễ của chú Thiện Mẫn
Kính thưa quý bà conphật tử cùng toàn thể các cô, bác, anh,chị, em bè bạn xa gần đến đây chia tay với chú Nguyễn Minh cần.
Lần cuối cùng gặp chú, ngày 25-4, chú Nguyễn Minh Cần chuyển cho tôi tập giấy tờ của chùa và nói rằng, đây chú chuyển cho cháu toàn bộ giấy tờ của chùa nhé. Chú hoàn thànhnhiệm vụ rồi đấy. Nhẹ cả người! Nói rồi chú cười rất thoải mái, ngồi ngả người trên ghé, đúng dáng vẻ nhẹ cả người thật.
Hóa ra đó là những lời cuối cùng tôi được nghe chú nói. Đó cũng là lời chốt lại cho một đời người, một đời người đầy ý nghĩa của chú. Chú đã hoàn thành sứ mệnh mà cuộc đời trao cho chú với đầy đủ cả Dũng, Trí và Bi.
Cả cuộc đời chú đã hoàn thành chữ “Dũng” thật hoàn hảo. Năm 1945 khi chưa được 17 tuồi, vẫn còn là một học sinh, chú Nguyễn Minh Cần đã tham gia khởi nghĩa ở quê nhà, góp phần dành lại độc lập cho đất nước. Tuổi 17, cái tuổi mà con người tưởng như chỉ biết ăn, biết chơi, chú đã là một chiến sỹ, không sợ hiểm nguy, tham gia những công việc của các bậc cha chú. Suốt 6 năm trường kỳtham gia kháng chiến, chú đã không hề nản lòng nhụt chí.
Chú đã sống với chữ Dũng của một đấng nam nhi như thế.
Năm 1962, lúc đó đã là phó chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, chú sang Liên Xô du học tại trường đảng cao cấp. Với lứa tuổi đó, với cương vị đó, nếu chú coi trọng địa vị thì chú sẽ đi rất xa. Thế nhưng những năm tháng học trong trường đảng, được tiếp xúc với những tài liệu về Stalin, chú đã dám nói lên quan điểm riêng của mình, ủng hộ đường lối chống tệ sùng báicá nhân của Liên Xô lúc đó, ủng hộ những gì mà chú thấy nhân bản hơn, công bằng hơn.
Sau này khi Liên Xô bắt đầu quá trình cải tổ, đổi mới với khẩu hiệu Perestroika của Tổng bí thư Gorbachov, chú đã tích cựcủng hộ đường lối dân chủ của Liên Xô, và sau này là nước Nga. Những ngày chế độ dân chủ của nước Nga bị nguy hiểm, chú không ngần ngại đi biểu tình, tham gia phòng tuyến của phong tràodân chủ ở Nga, tham giabảo vệ nước Nga.
Rất nhiều năm chú không xin vào quốc tịch Nga, chú vẫn mong có ngày được trở vềViệt Nam đóng góp công sức cho Tổ quốc thân yêu của mình. Sau này khi có điều kiện chú đã dành tất cả nhiệt huyết, thời gian cho công cuộc vận độngdân chủ ở Việt Nam. Chú là một chứng nhân của một thời kỳlịch sử nhiều sự kiện ở Việt Nam. Thời giantrôi qua những nhân chứng sống này rồi sẽ lần lượt ra đi, chú biết như vậy nên mấy chục năm qua cho đến tận trước ngày vào viện và ra đi vĩnh viễn, chú đã miệt mài làm việc không kể ngày đêm để viết lại những gì chú đã là nhân chúng, nhữnggì chú đã biết. Đây cuốn “công lý đòi hỏi” được in năm 1997 để nói lên bao chuyện oan trái, bao nhiêu nỗi đau của những nạn nhân các vụ án oan khiên từ vụ nhân văn giai phẩm những năm 50 đến vụ án xét lại chống đảng những năm 60 thế kỷ trước. Đây cuốn “chuyện nước non” in năm 1999 chú đã dành bao nhiêu tâm trí để viết lên những suy nghĩ về những chính sách mới hiện nay của đất nước, để bàn về phong tràodân chủ trong nước. Nhưng cuốn sách quan trọng nhất của chú là cuốn “đảng cộng sản Việt Nam qua những biến động của phong trào cộng sản quốc tế” để viết về 70 năm hình thành và phát triển của đảng cộng sản. Một cuốn sách vô cùng quan trọng về những gì chưa được viết, về những gì chưa được nói, để thế hệmai sau biết những gì đã xảy ra chân thực và đầy đủ. Như chú viết trong lời tựa của cuốn sách, “Người viết tự thấy mình có trách nhiệm nói lên SỰ THẬT về những vấn đề này thay cho bạn bè thân mến của mình cùng chí hướng, cùng tư tưởng, cùng quan điểm đã nằm xuống mà không có điều kiện nói ra.”
Chính vì cảm nhận được trách nhiệm của lương tâm mình với lịch sử, với bè bạn với những thế hệmai sau, Chú đã bắt đầu viết cuốn sách này từ năm 2000, suốt mười mấy năm qua chú đã làm việc ngày đêm, tiết kiệm từng phút để kịp hoàn thành cuốn sách. Và chú đã vừa kịp hoàn thành cuốn sách trước khi ra đi ít lâu. Hiện nay cuốn sách đã được lên khuôn, và ít ngày nữa sẽ được ra mắt độc giả. Chú đã thực hànhhoàn hảo chữ Dũng của lương tâm như thế đấy.
Chú Cần là người một nhà khoa học với đúng nghĩa của từ cao quý này. Chú làm việc cẩn thận, có hệ thống, có trách nhiệm và đặc biệt với lương tâm của một người cầm bút, chỉ viết những gì mình biết, những gì đã được kiểm chứng.
Yêu ai thì bảo là yêu.
Ghét ai thì bảo là ghét.
Dù ai ngon ngọt nuông chiều, cũng không nói yêu thành ghét.
Dù ai cầm dao dọa giết, cũng không nói ghét thành yêu.
Chỉ nhìn danh mục sách chú dịch, viết thôi cũng đủ hình dung được khối lượng khổng lồ công việc chú đã làm: 125 cuốn sách dịch, 6 cuốn sách nghiên cứu, hàng ngàn bài báo.
Nhưng công trìnhđáng giá nhất của chú là cùng với cô Inna tìm rađạo Phật, con đường tu tậptâm linh cho chính mình. Chú không chỉ tìm racon đườngtâm linh cho mình, mà còn dành hết hơn 20 năm cuối đời mình cho việc tổ chức, hoằng dương đạo Phật ở Moskva này. Nếu không có sự hy sinhhết lòng, tận tụy hết lòng của chú thì không thể có Hội Phật GiáoThảo Đường và ngôi chùa Thảo Đường ngày hôm nay. Suốt hơn 20 năm, chú không hề bỏ một ngày rằm, ngày mồng 1 nào không lên chùa tụng kinh. Chùa dù vắng, dù đông, dù mưa, dù nắng chú đều có mặt đầy đủ, đúng giờ, làm lễ cho mọi người. Chú vui với chùa, buồn với chùa, lo lắng cho ngôi chùa như cho ngôi nhà yêu quý của mình. Chỉ 2 tháng trước khi ra đi, dù còn rất yếu sau cơn nhồi máu cơ tim hồi tháng 11 năm trước, chú vẫn nhận trách nhiệmđiều hành Chùa khi mọi người đề nghị. Chú nói, chú đã phát nguyệnphục vụ chùa đến hơi thởcuối cùng nên dù rất mệt chú vẫn cố gắngcáng đáng.
Chú đã là sống một cuộc đời của người đầy trí tuệ như thế đấy.
Hôm chú ra đi về cõi vĩnh hằng, tôi đến nhà để mang cho chú một bộ quần áo. Tìm cả tủ, tôi không thấy một chiếc áo nào còn tươm tất. Tất cả đều đã sờn vải, bạc mầu. Vậy mà hôm cuối cùng gặp chú, chú vừa tươi cười đưa cho tôi 5000 rúp, tiền tiết kiệm từ số lương hưu ít ỏi để cúng cho quỹ xây chùa. Đã mấy chục năm nay, chú vẫn luôn tiết kiệm tiền lương hưu của mình để ủng hộ chùa như thế. Toàn bộ tiền tiết kiệm của hai cô chú cho lúc tuổi già, chú đã cúng dường cho việc mua đất và xây dựng chùa Thảo Đường. Chú nói, chết là hết, có gì phải lo đâu, hãy để những đồng tiền này mang lại lợi ích cho những người còn sống. Trong mấy năm qua Chú đã ủng hộ cho quỹ xây chùa 100000 rúp và 8760 đô la mỹ.
Rất nhiều năm qua chú cùng vợ là cô Inna đã luôn tích cực làm các hoạt độngtừ thiện. Chú và cô quyên góp quần áo, đồ dùng cho nạn nhân động đất ở Armenia,nạn nhân phóng xạ ở Chernobyl, nạn nhân chiến tranh ở Chechnya, người vô gia cư ở Moskva. Mỗi người nghèo chỉ viết một mảnh giấy rất nhỏ để cám ơn cô, chú, vậy mà túi chứng từ làm từ thiện của chú và cô đã nặng gần chục kg giấy. Không chỉ giúp người nghèo, chú còn cứu giúp chó, mèo hoang, nuôi chim, nuôi sóc trong rừng khi mùa đông hiếm thức ăn. Trong nhà chú luôn luôn có 2 thùng rác. Một thùng rác để vứt vào thùng rác chung, và 1 thùng rác dễ phân hủy để mang bỏ vào rừng nuôi đất.
Chú đã học được hạnh từ bi rộng lớn của đạo Phật và thực hành chữ Bi thật chuyên cần và hoàn hảo như thế.
Sáng hôm 13-5, khi vừa được báo chú Cần đã không còn nữa, tôi đã đến gặp bác sỹ trực và hỏi điều gì xảy ra với chú những giờ phút cuối cùng. Bác sỹ nói rằng tối hôm đó mọi việc diễn ra bình thường, an ổn, chú không đau đớn gì, đột nhiên đến 4 giờ sáng chú khó thở và đến 5 giờ thì trút hơi thởcuối cùng. Chú ra đi trong sự tỉnh táo và bình yên, không đau đớn gì. Những gì cần làm đã làm xong, những gì phải làm đã hoàn thành. Không còn gì phải nuối tiếc.
Chú Cần ơi, chúng cháu sẽ thay chú chăm sóc cô Inna, tiếp tục công việc hoàn thành ngôi chùa Thảo Đường, xin chú hãy yên tâm CAO ĐĂNG PHẬT QUỐC, trở vềtrong vòng tay yêu thương của Phật, trở về nơi cõi an vui vĩnh hằng và tiếp tụccon đường tu tập của mình cho đến ngày viên thànhđạo quả. --------------------
LỜI CUỐI CHO CHÚ
Kính thưa chư Tôn Đức,
Thưa toàn thểanh chị em đạo hữu, bằng hữu và tang quyến.
Không hiểu vì sao khi chú mất, tôi lại nghĩ mình cần phải viết điều gì đó cho chú, và chính tôi mới hợp nhất trong vai trò người viết này. Có lẽ vì trong quan hệ giữa tôi và chú có cả hai cực Dương và Âm thuần tịnh nhất để tạo nên một khối chân thực. Chính tôi là người chống và phê bình chú nhiều nhất và cũng chính tôi đã thấu được lòng yêu thươngchân thành của chú đến người Việt ở đây và nỗi khát khao đem Phật pháp đến cho họ.
Và tôi viết những dòng này cho chú.
Chú ơi!
Vậy là chú đã rời bỏ chốn này, kiếp này!
Nhiều người nói chú mất đi mà còn nhiều việc dở dang, nhiều hoài bão chưa thành. Nhưng con không nghĩ vậy, hãy tin con, chú đã đến cuộc đời này và chú hoàn thànhtrách nhiệm một cách tốt đẹp và trọn vẹn.
Dở dang chi khi Hội Phật GiáoThảo Đường càng ngày càng lớn mạnh. Hội chúng ta dưới sự dẫn dắt của chú trở thành Hội có nhiều Phật tửam hiểu sâu về Phật Pháp và tinh tấn trong tu tập.
Hoài bão nào chưa thành khi tâm nguyện lớn nhất của chú là thấy được ngôi chùa trên đất Nga đã trên đường hoàn tất và quá trình hoàn thiện sẽ tiến hành và kết thúc trong nay mai.
Nhớ khi xưa chú run run đưa tất cả số tiền dành dụm của hai cô chú cúng dường cho việc xây chùa mà chúng con học tinh thầnBỐ THÍ.
Nhớ đến những hoạt động thường nhật của chú và sự kính cẩn trước chư Tôn Đức của chú mà chúng con học được TRÌ GIỚI.
Nhớ hình bóng xiêu vẹo của chú, dáng đi nghiêng nghiêng mà vẫn cố đảnh lễ chư Phật, vẫn cố làm chủ lễ, chúng con thấy mình cần phảiTINH TẤN.
Nhớ những ngày Tết Nguyên Đán về mà chú cháu mình vài mống người vẫn kiên trìtụng kinh, niệm Phật, quyết không lơ là với Phập pháp, chúng con được thử thách đức NHẪN NHỤC.
Nhớ những tháng năm mùa đông giá lạnh, chú rét mướt mang thức ăn đi nuôi chim, sóc, mang rác phân huỷ được vào rừng để làm tốt đất, chẳng có việc gì hữu ích mà chú không làm; sống tỉnh giác trong từng hành động, từng hơi thở, chúng con có niềm tin vào THIỀN ĐỊNH.
Nhớ bao nhiêu năm trời giữa những khởi sắc mạnh của các tôn giáo tại nước Nga sau chiến tranh lạnh, chú bền bỉ đi tìm con đườngtâm linh và đạo giải thoát thật sự, rồi quyết định nương vào Tam Bảo, vào Phật, Pháp, Tăng, và chọn được hai vị lãnh đạotinh thầnhoàn hảo cả trí tuệ và từ bi là Hòa thượng Thích Minh Tâm và Hòa thượng Thích Như Điển, chúng con như được tưới mát bởi suối nguồn của TRÍ TUỆ.
Và bao nhiêu công trình chú để lại cho đời thật đúng là tấm gương soi trong sáng, thánh thiện nhất cho việc trả một cách hoàn hảoTỨ TRỌNG ÂN.
Vâng, vậy thì chú hỡi, chú đã mang đến cho đời này nhiều NIỀM VUI, NIỀM THƯƠNG YÊU, NIỀM CHIA SẺ và NIỀM HẠNH PHÚC. Và CHÚ ĐÃ HOÀN THÀNHTRÁCH NHIỆM CỦA KIẾP NHÂN SINH NÀY MỘT CÁCH TỐT ĐẸP, CHÂN THÀNH VÀ TRỌN VẸN.
Giờ chú hãy yên lòng ra đi.
Con không khóc cho chú đâu. Tại sao khóc? Khi người đạo hữu của chúng con đã sống một cuộc đời có ý nghĩa?!!
Con không khóc cho chú đâu. Tại sao khóc? Khi người cha, người chú của chúng con đã chiến đấu cho cuộc đời thêm đẹp hơn?!!
Con không khóc cho chú đâu. Tại sao khóc? Khi người lãnh đạo của chúng con đã hoàn tấttrách nhiệm của mình một cách xuất sắc.
Giờ chú hãy vui vẻ mà ra đi.
Chúng con sẽ không khóc đâu mà sẽ ngồi đây bên chú để hướng dẫn và cùng đồng hành với chú để đưa chú về chốn Cực Lạc nơi không còn khổ đau nữa.
Bước vào thế giớivong linhmột thế giới tràn ngập tâm thức, những vong linh vẫn còn vất vưởng chắc chú sợ hãi lắm phải không? Những ngọn gió nghiệp quật xuống quật lên làm chú kinh hoàng phải không? Đừng sợ, chú thương mến, chư Tôn Đức củng các đạo hữu khác đang cùng ngồi đây cầu nguyện cho chú.
Chú đang thấy người thân khóc thương, và nghĩ có thể bấu víu cầu cứu họ. Không đâu chú, đã bước vào thế giớitâm thức thì không ai ở cõi trần này còn giúp chú được nữa. Hãy định tâm để nghe những lời kinh kệ, cầu nguyện người khác đang tụng niệm cho chú. Và cố gắngtụng niệm theo.
Chú đang thấy đâu đó những ánh sáng chói rực, nóng bỏng phải không? Đừng sợ! Chính những ánh sáng chói chang, rực rỡ nhất đó lại là ánh sáng của hào quang các chư Phật. Khi nghe tiếng niệm Phật của chúng con, chú cố niệm theo hồng danh của Đức PhậtA Di Đà rồi phóng hết sức bình sinh như tên bắn vào đó. Và...
CHÀO MỪNG CHÚ ĐẾN VỚI CÕI TỊNH ĐỘ TÂY PHƯƠNG CỰC LẠC QUỐC.
Vâng con tin chắc chú sẽ ra đi trong tư thế của người dũng cảm, trong trí huệ của người con Phật và trong tinh thần “HOA KHAI KIẾN PHẬT”.
Nguyện cho chú vãng sinhCực Lạc Quốc!
Nguyện sẽ gặp lại chú trên cõi Tịnh Độ của Đức PhậtA Di Đà.
Mỗi khi có dịp gặp và ngồi nói chuyện về tỉnh Khánh Hòa, Quách Tấn đều nhắc cho tôi biết là, Khánh Hòa có 2 người tiếng tăm đã vượt biên giới là Hòa thượng Thích Quảng Đức và Bác sĩ Yersin.
“Nói Thiền tôngViệt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
Bài viết này xin mạn phép trao đổi cùng những hành giảsơ phát tâmtu trìpháp môn niệm Phật. Và vấn đề “Động” hay “Tịnh” cũng là một trở ngại lớn của người dụng cônghành trìpháp môn niệm Phật.
Giới đàn là một nghi lễ để truyền trao giới pháp cho các giới tử là những người xuất gia theo đạo Phật. Để thành tựu được một giới đàn, phải có đủ 3 yếu tố: Tam sư, thất chứng và giới tử.
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rốidựa trênviệc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng tathực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
Vesak là tiếng Sinhalese của người dân đảo quốc Sri Lanka (Tích Lan), tiếng Pali là Vesakha, tiếng Phạn (Sanskrit) là Vaisakha, Vesak là tên gọi của một tháng theo lịch xưa của nước Ấn Độ trong thời Đức Phật
Đạo Phậtxuất hiện ở thế gian, khởi đầu từ vườn Lâm-tỳ-ni, xứ Nepal, Ấn Độ cổ (nay là Brumindai vùng Terai), và bừng sáng tại Bồ đề Đạo tràng, nước Magadhi (Ma-kiệtđà),
Thực tậpthiền định và chánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
Trong quá trình nghiên cứukinh Đại thừa nói chung và pháp mônTịnh độ nói riêng, với những gì biết được, tôi cũng “suy luận” ra là có cõi Tây phương Cực lạc của Đức PhậtA Di Đà.
Có rất nhiều bạn trên thế giới hiện nay hoặc vì một lý do nào đó, có thể chủ quan hoặc khách quan, đã mang tâm oán hậncha mẹ, người đã rứt ruột sinh ra mình.
Đọc trong mùa Vu Lan, cũng là đọc trong tất cả mọi thời. Bởi vì Vu Lan, dựa vào tích Ngài Mục Kiền Liên vào cõi ngạ quỷ tìm cứu mẹ, là nơi lửa cháy không ngừng, nơi đói khát không ngừng
Mặc dù Đức Phật đã xuất hiện trên hành tinh trái đất màchúng ta đang có mặt cách nay 2.642 năm về trước, và hiện nay đang bước sang thập niên thứ 2 ...
Có nhiều câu hỏi về tái sanh thường được nêu ra đối với các Phật tử. Có tái sanh không? Nếu có, có thể nhớ chuyện kiếp trước không? Cái gì tái sanh? Có thân trung ấm hay không?
Nhân ngày lễ vía Xuất gia của Đức Phật, nhằm vào ngày mồng Tám tháng Hai mỗi năm, tôi xin tóm lược lại một vài sự kiện mà trong Kinh Phật Bản Hạnh đã ghi lại để làm quà cho tất cả quý Phật Tửxa gần.
Nếu Trái Đất mỗi ngày không múa điệu nghê thường lả lướt quanh Vầng Thái Dươngrực rỡ thì có lẽ con người cũng chẳng chiêm ngưỡng được vẻ đẹp kỳ diệu của xuân hạ thu đông.
Thiền nhân và thi nhân đều có thể sáng tạo thơ hay. Thơ của các thiền sư thường là sự phóng thích chút bản ngãcuối cùng, nên nó không sanh từ vọng tưởng.
Cũng như Phật Đản, để phù hợp với cuộc sống, sinh hoạt tại hải ngoại, Vu Lan cũng không còn là ngày mà là mùa. Từ giữa tháng 7 kéo dài cho đến cuối tháng 9 khắp năm châu đâu đâu cũng tưng bừng lễ hội Vu Lan
Luyện tập thiền định có thể làm giảm tình trạngcăng thẳngtâm thần, các xúc cảm tiêu cực và cải thiện giấc ngủ, các hiệu ứng này có thể tạo ra các tác độngtích cực đối với quá trình lão hóa của não bộ.
Hàng năm, từ trung tuần tháng 12 dương lịch, các tự viện khắp nơi đều hoan hỷ chuẩn bị tổ chức các khóa tu để cúng dường lễ vía Đức PhậtA Di Đà, vị Phật đã phát 48 đại nguyệncứu độchúng sanh
Sống trong thời đạivăn minh, con ngườicần phảihọc hỏi để theo kịp trào lưu tiến bộ trong nhiều lãnh vực như Y học, Não học, Tâm lý học, Địa chấn học, Thiên văn học, Vũ trụ học v.v
Mỗi người con của Phật xin hãy tinh tấntu học để báo đáp thâm ân Tam Bảo; báo đáp ơn sinh thànhdưỡng dục; nổ lực góp phần vào xây dựngcộng đồng nhơn loại...
Chỉ vài phút tập tỉnh thức trong các việc nhỏ đời thường, sau này sẽ trở thành những hành trang Phật giáo cực kỳ quý giá cho các em vào đối mặt cuộc đời.
Tinh thầntu chứng, cũng như phụng sựtha nhânxây dựng quê hương đất nước, Phật Giáo Việt Nam đã khẳng định sự hiện hữu của mình hơn 2000 năm trên suốt dòng lịch sử của dân tộc Việt...
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn chung nhau một hiện tại.
Mỗi cuối năm khi hoa mai, hoa đào bắt đầu nở, khi ngoài trời vài cơn gió hiu hiu lạnh nhẹ nhàng lướt qua trên cành cây ngọn trúc, thì chúng ta biết là mùa Xuân đang về.
hật giáo truyền nhập Tây tạng được xem nhưchính thức từ vua Srong-btsan sGam-po (569–649?/605–649 Tl?); nhưng phải đợi hơn một thế kỷ sau, dưới triều vua...
Pháp môn Tịnh-độ là một trong 84 vạn pháp môn mà Đức Phật Thích-Ca "phương tiện" chỉ bày cho thập phươngchúng sanh kể cã cõi ta-bà nầy hành trì để giải thoát "sanh tử-luân hồi"
Đại LễPhật Đản Phật Lịch 2560 do Giáo Hội PGVNTN Hoa Kỳ và các chùa tại địa phương tổ chức vào ngày 01.05.2016 tại Mile Square Park, 16801 Euclid Street, Fountain Valley 92708
We use cookies to help us understand ease of use and relevance of content. This ensures that we can give you the best experience on our website. If you continue, we'll assume that you are happy to receive cookies for this purpose.