Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bài Giảng Thứ Ba

03 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10189)
Bài Giảng Thứ Ba


Life, Death and After Death
S
NG, CHT và SAU KHI CHT
Lama Thubten Yeshe
Vô Huệ Nguyên chuyển ngữ - Phổ Từ Diệu Hương hiệu đính
Việt Nalanda Foundation ấn tống và phát hành tại Hoa Kỳ 2009 

BÀI GIẢNG THỨ BA

Trong cuộc đời, chúng ta đã tạo nên rất nhiều kinh nghiệm hão huyền, tại lúc chết chúng ta lại sản xuất ra những phản ứng sai lầm, lú lẫn. Vì càng về già, bốn nguyên tố càng bị chìm lặn đi, lại càng tăng thêm sự lầm lẫn, lại càng mất đi sự sáng suốt. Càng về già, những cảm nhận của các cơ quan trong người càng yếu đi; bốn nguyên tố bắt đầu ngưng hoạt động. Người thì mất thị giác hoặc nhìn cái này ra cái kia, người thì đi lại khó khăn hoặc không còn có sự kiểm soát bình thường.

Khi chúng tôi nói “nguyên tố đất (địa đại) chìm đi” thì chỉ là ngôn từ. Ðiều này có nghĩa là những thành phần cứng --- xương cốt trong thân thể --- bắt đầu hư hoại. Những cơ quan cảm nhận của người già bị hư hoại, chúng không còn có khả năng nhìn rõ ràng, làm việc đúng. Nguyên tố địa đại đã bắt đầu bị suy thoái --- có thể ngay cả khi còn trẻ!

Không phải chỉ có những giác quan bị suy thoái mà ngũ uẩn --- những nhận thức của năm giác quan --- cũng trở nên yếu dần, vì thế chúng mang lại những lầm lẫnhư ảo. Ngay cả xúc giác cũng bị suy thoái, không còn cho chúng ta những khoái cảm. Khi chúng ta bị nhiễm trùng hay bị bệnh, những thứ như thức ăn, mầu sắc, hình dáng...vân vân...cũng không còn cho chúng ta những khoái cảm mà thường ngày vẫn có. Chúng ta không còn cảm giác với những đối tượng hấp dẫn, ngay cả khi đứng trước một bông hoa tươi thắm. Bông hoa ngay ở đây mà chúng ta cũng chẳng còn hứng thú gì. Có khi nó còn làm chúng ta thêm bực mình: “Bông hoa đỏ này đáng ghét, đem vất nó đi!” Những người bị bệnh, những người bị khó chịu ở trong người thường có những phản ứng như vậy.

Sự suy thoái của tứ đạinguyên nhân của những kinh nghiệm nội tâm, chúng cho những ảo ảnh, như sương khói, như lửa chập chờn. Tất cả đều là những kinh nghiệm ở bên trong, ở nội tâm, mặc dù không có lửa ở bên ngoài. Do đó, người bệnh cảm thấy nóng, thấy lạnh nên họ cứ lẩm bẩm: “Hãy đổ nước đi,” hay “ Hãy dập tắt lửa đi.” Sự lầm lẫn xẩy ra ở bên trong. Họ cảm thấy lửa đang cháy, đang thiêu đốt họ ở bên trong. Ðó là những ảo cảnh đang xẩy ra ở bên trong. Họ thấy như có lửa, có nước thật sự, nên những nhận xét của tâm thức chỉ toàn là những sai lạc, huyễn ảo. Nếu chúng ta có thể tưởng tượng được những hình ảnh này, chúng ta sẽ hiểu rất rõ.

Thông thường, cái tôi của chúng ta cứ muốn nắm bắt những đối tượng. Nhưng ở thời điểm tan rã của tứ đại thì những đối tượng ở bên ngoài đều biến mất. Chúng ta chỉ thấy, chỉ kinh nghiệm những hình ảnh giả đầy huyễn ảo. Chúng ta mất hết những cái chúng ta muốn nắm bắt, muốn chiếm đoạt nên chúng ta đâm ra sợ hãi. Cùng lúc đó chúng ta cũng không còn nhận ra chúng ta nữa. Trong lúc chúng ta đang cảm nghiệm sự chìm dần của tứ đại cùng những ảo ảnh của chúng để lại thì chúng ta hãy nhớ rằng năm giác quan và năm nhận thức cũng đang suy thoái. Nên biết rằng cả một đời chúng ta ôm ấp cái tôi của chúng ta thì giờ đây nó đang từ từ biến mất, chúng ta mất nó, chúng ta đâm ra sợ hãi, sợ hãi vô cùng. Trong đời sống thường ngày, cái tôi là bạn chí thân của chúng ta, nó luôn luôn làm cho chúng ta cảm thấy an lòng. Nhưng giờ đây, khi mà tất cả mọi sự đang tàn phai, đang tan rã thì cả bên trong lẫn bên ngoài đều cho chúng ta sự sợ hãi, chúng ta mất hết nơi bám víu, chúng ta mất hết điểm tựa, chúng ta mất hết sự an toàn.

Bằng sự thực hành thiền định, chúng ta tự giáo dục chúng ta những gì sẽ xẩy ra trong lúc chết để chúng ta nhận diện được những sự việc gây ra ảo giác trong tâm thức chúng ta. Hãy nhận biết rằng những ảo giác này không phải tự chúng mà có được và chúng ta cũng chẳng có liên hệ gì với những đối tượng hão huyền đó, nhận biết này giúp chúng ta hiểu rõ hơn về không tính.

Chúng ta không nên nghĩ rằng “CÁI-TÔI-ÐANG-CÓ-ÐÂY” là có thật. Chúng tôi cố gắng dùng những từ ngữ giáo dục như “không có nhị-nguyên TÔI.” Chúng tôi cố gắng đặt vào quý vị: “không có cái TÔI hiện hữu.” Chúng tôi cố gắng giải thích một cách thông minh, nhưng tại thời điểm chết, sự thúc đẩy thông minh này không còn cần thiết, vì chúng ta sẽ mất cái hiện hữu của chúng ta một cách rất tự nhiên. Ðó là lý do tại sao trong lúc thiền, có rất nhiều người chứng nghiệm được trạng thái mất cái tôi của họ và họ đâm ra sợ hãi. Ðó là điều rất tốt, chúng ta nên sợ!

Những ông sư Tây Tạng muốn làm cho quý vị sợ. Người Tây phương không thích sợ. Tuy nhiên, chúng tôi có tài làm cho quý vị sợ. Ðã có rất nhiều người có kinh nghiệm này. Tại sao chúng ta lại sợ khi mất một cái gì? Mất cái tôi có nghĩa là mất cái tự hữu hay mất cái ý niệm bền chắc về một cái tôi --- đó là điều làm chúng ta run sợ. Cái phóng tưởng, cái vọng tưởng về một cái tôi có thật đang run sợ. Ðó không phải là cái không nhị-nguyên hay cái bản tính tự nhiên của chúng ta run sợ, chính tâm vọng tưởng đang run sợ.

Trong lúc Lạt ma Je Tsong Khapa đang giảng dạy về không tính thì một người đệ tử ruột của ngài ngộ không tính. Ngay trong lúc đang nghe giảng, ông ta run lên vì ông ta cảm thấy mình biến mất, hoàn toàn biến mất. Nên ông ta liền ôm lấy chính ông ta và cả người ông ta run lên. Lắng nghe sự giảng dạy về không tínhchứng nghiệm về không tính đến cùng một lúc. Nên có những sự kiện như vậy. Do đó, sự khám phá ra bản tính tự nhiên của chúng ta sẽ phá đổ tất cả những ý niệm vững chắc về một cái tôi huyễn ảo.

Người Tây phương có rất nhiều nghĩa khác nhau về từ ngữ “Mất cái tự ngã, mất cái tôi.” Có hàng trăm lối giải thích khác nhau về chữ “Bản ngã, tôi, thằng tôi, tự ngã,...TÔI!” Bởi vì đã có những định kiến nên chúng ta nhất định cho bản tính của chúng ta “Tôi là thế này!” Chúng ta tự cho “cái tôi” thường hằng bất biến, không bao giờ mất, tự có như vậy đời đời kiếp kiếp. Tương tự như vậy, khi người Thiên Chúa giáo diễn tả về linh hồn, họ đã sáng tạo nên một cái tôi, họ nghĩ, “Tôi thế này, thế kia, đây là tôi.” Họ đã có sẵn có một ý niệm rất mạnh về họ là ai, họ là cái gì. Cái “tôi” này không hiện hữu, không có, nó chỉ là một phóng tưởng về một cái tôi của riêng chúng ta.

Thí dụ, khi một người tự giới thiệu, họ nói, “tôi như vậy đó, là chồng của một bà như vậy đó,” ông ta trình bày một khái niệm về cái tôi của ông ta như là một người chồng tự hiện hữu. Do đó, ông ta tự coi ông ta một cách vững chắc là người chồng như vậy và ngay khi đó ông ta xây dựng, ông ta phóng chiếu hình ảnh người vợ của ông ta cũng phải như vậy. Ông ta xác nhận ông ta trong chiều hướng đó và tin tưởng rằng “vợ tôi cũng phải như vậy, một người vợ tự hiện hữu như vậy.” Kết quả, ý niệm này đã mang đến toàn là đau khổ. Cho tới khi nào sự có mặt của tôi còn tùy thuộc vào sự có mặt của vợ tôi, sự hiện hữu của vợ tôi còn lệ thuộc vào sự hiện hữu của tôi thì khi vợ tôi mất đi tôi cũng phải mất đi! Quý vị có hiểu không? Vậy, khi ông ta cho ông ta là một người chồng như thế nào thì ông ta cũng phóng tưởng người vợ phải như vậy. Rồi khi ông ta không được là người chồng như vậy, người vợ của ông ta không như ông ta tưởng, chúng khác, chúng đã thay đổi, chúng luôn luôn thay đổi mỗi ngày, ông ta liền nổi cáu với thực tại, ông ta liền nổi sùng với sự thật.

Ngay cả những người trẻ tuổi Tây phương cũng có sự mơ hồ, lầm lạc này. Khi vừa mở mắt, họ đã hỏi, “Tôi sẽ làm cái gì ở xã hội Thụy điển này? Tôi sẽ là một kỹ sư? một khoa học gia?...” Họ muốn xác nhận họ với một vài cái gì đó. Họ cảm thấy, “Tôi muốn một chức vụ.” Những người bạn trẻ rất bối rối bởi vì xã hội này nói với họ, “anh phải như thế, chị phải như vậy.” Một đàng họ tin cái này, đàng khác họ lại tin cái kia. Ðúng ra, họ muốn có một cách nào đó để xác nhận họ nhưng họ không tìm ra cách nào cả, dù là một sự xác nhận tạm thời, rồi họ trở nên điên loạn. Họ dùng thuốc, họ cảm thấy mất hết hy vọng: “Tôi không xác định được tôi, tốt hơn tôi nên bỏ cuộc.” Ðiều này không có nghĩa là họ không có một cái tôi. Họ đã có một cái tôi rồi. Tuy nhiên, cái tôi của họ muốn xác nhận một cái khác nữa. Họ đã sẵn có một định kiến về họ là ai, nhưng họ vẫn muốn thêm nữa, một cái hay hơn nữa để bỏ thêm vào cái kho ý niệm của họ, nhưng họ đã không tìm thấy cái nào. 

Hình ảnh ôm giữ cái tôi như là một thực thể tự hiện hữu này rất dễ nhận ra. Không khó lắm. Ngay bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy cái hình ảnhchúng ta muốn là, hay hình ảnh về một cái tôi mà chúng ta hằng mơ tưởng. Ngay ở đây, ngay bây giờ, chúng ta hãy phân tích, kiểm chứng xem sao. Ngay từ khi chúng ta có một ý niệm về hình ảnh của chính chúng tachúng ta bắt đầu có vấn đề. Chúng ta luôn luôn tự mâu thuẫn, “tôi vẫn chưa tốt đủ,” nguyên nhânchúng ta đang ôm giữ, bám chấp. Nếu chúng ta tự kiểm điểm theo phương pháp này, chúng ta có thể hiểu được chúng ta đã bị lừa dối như thế nào, sự kiểm điểm cho chúng ta biết chúng ta chưa hề chạm được sự thật --- quý vị có thể biết ngay bây giờ. Vì chúng ta tự cho chúng ta một phóng tưởng giới hạn, một hình ảnh giới hạn nên điều này trở nên một nền tảng căn bản cho tất cả mọi thứ: giới hạn về tình yêu, giới hạn về trí tuệ, giới hạn về lòng từ bi... Chúng ta đã thiết lập một căn bản giới hạn cho chính chúng ta, chúng ta đã trở nên chật hẹp, quá hạn hẹp. Vì lý do đó, tất cả mọi thứ trong cuộc đời của chúng ta --- đời sống, trí tuệ, tình yêu...--- cũng trở nên chật hẹp. Bởi vì chúng ta đã tự giới hạn chúng ta chật hẹp như vậy.

Vào lúc chết, khi mà tứ đại bắt đầu chìm thì tất cả những ý niệm thô kệch về chúng ta, về những lạc thú của chúng ta, về những sinh hoạt của chúng ta, về bạn bè của chúng ta, về sự an toàn, về tình yêu, về lòng từ bi,... tất cả đều tan biến hết. Ðó là lý do tại sao chúng tôi nói khi mà phong đại (khí) chìm vào tâm thức, thì 80 hình ảnh u mê về cái tôi biến mất. Khi đó 80 hình ảnh này chấm dứt. Tại nội tâm, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự vắng lặng vĩ đại, chúng ta sẽ kinh nghiệm được sự trống rỗng vĩ đại, như bầu trời xanh kia; chúng ta sẽ chứng nghiệm được, sẽ kinh nghiệm được ở bên trong hoàn toàn rỗng lặng. Bình thường, chúng ta quá bận rộn với những ý niệm ô nhiễm, với 80 hình ảnh u mê, nên không còn chỗ để nhìn thấy sự thật.

Vào lúc chết, tất cả những ý niệm về nhị-nguyên đều biến mất, kết quả là chúng ta chạm được sự thật. Ðó là những gì chúng ta sẽ kinh quá vào lúc chết. Cũng thế, năng lượng vật chất của chúng ta thường ngày đi sai đường, lạc lối, bị ô nhiễm, bị thất thoát. Nhưng tại lúc chết, tất cả những nguồn năng lượng này được kết tụ lại một cách tự nhiên vào kinh mạch chính, kinh mạch trung ương (shushuma) nên chúng ta sẽ kinh nghiệm được đại lạc, sự rỗng lặng tuyệt đối. Ðó là lý do tại sao Mật tông thường chăm chú vào việc đưa năng lượng vào kinh mạch trung ương. Chúng ta đặt hết sự chú ý vào các luân xa để dẫn năng lượng vào kinh mạch trung ương. Mỗi khi chúng ta tập trung vào luân xa rốn, luân xa trái tim, luân xa cổ họng, luân xa ở giữa hai chân mày, luân xa đỉnh đầu là chúng ta thẩm thấu vào thể vi tế, vào kinh mạch trung ương, rót tất cả năng lượng vào đó, chấm dứt ngay tất cả những hướng đi sai lạc của năng lượng. Vì thế những vị hành giả du già nam (yogis) cũng như nữ (yoginis) kiểm soát năng lượng của họ bằng cách thiền đi vào kinh mạch trung ương, trong lúc thiền họ có những kinh nghiệm giống y như lúc chết.

Sau khi tứ đại đã chìm hẳn, hơi thở liền ngưng. Bốn hình ảnh (visions) bắt đầu xuất hiện: hình ảnh có mầu trắng, đỏ, đen và trong sáng. Bốn hình ảnh này sẽ hội tụ tại kinh mạch trung ương. Hình ảnh có mầu trắng phản ảnh năng lượng trắng, tượng trưng cho cha; tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được không gian bao la rỗng lặng, giống như những tia sáng trắng. Cũng như thế, mầu đỏ phản ảnh năng lượng đỏ, sẽ hội tụ vào kinh mạch trung ương, mầu đỏ tượng trưng cho mẹ; tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được màu đỏ trong không gian bao la. Mật tông giải thích rằng trong mỗi người chúng ta đều có những nguồn năng lượng âm dương kết hợp này, hai năng lượng này luôn luôn có trong chúng ta. Sau khi hình ảnh đỏ biến mất, hình ảnh đen sẽ xuất hiện rất ngắn ngủi.

Rồi hình ảnh trong sáng đến, có nghĩa là tâm thức của người chết sẽ kinh nghiệm được toàn thể sự bao la vĩ đại của không gian rỗng lặng. Vào trong không gian rỗng lặng này sẽ kinh nghiệm được, sẽ cảm nghiệm được trạng thái rỗng lặng như-như, cũng gọi là chứng nghiệm ánh sáng trong suốt. Trong cả thời gian kinh nghiệm ánh sáng trong suốt này tâm thức của người chết sẽ không còn biết được bất cứ một cảm giác trần tục nào nữa. Sẽ không còn một chút ý niệm nào về một người đàn bà đẹp, một người đàn ông lịch sự của Thụy điển, cũng chẳng còn một tiệm buôn bán nào ở đây; cũng không còn một buổi hội họp nào trong tòa nhà Liên Hiệp Quốc; tại giây phút đó không còn một chút gì bận bịu của Thụy điển. Trong lúc kinh nghiệm ánh sáng trong suốt này, tất cả mọi hình thức của cái tôi đều tan biến hết --- tôi hãnh diện, tôi tham lam, tôi ganh tị, tôi ...tôi... đều tan biến. Tất cả những trầm uất, hình ảnh đen tối biến mất; tâm thức của người chết chỉ kinh nghiệm duy nhất trạng thái rỗng lặng như-như mà thôi.

Bây giờ, đây là điều vô cùng quan trọng nên hiểu. Khi chúng ta đang bị ô nhiễm, chúng ta không tỉnh thức. Chúng ta cứng ngắc, chẳng có một chút uyển chuyển nào, không cởi mở, chúng ta lầm lạc, vì thế chúng ta không trong sạch. Nên tất cả những thức giác chỉ kinh nghiệm được sự đen tối. Nhưng phải hiểu rằng chúng ta vẫn trong sạch, chúng ta vẫn luôn luôn biết ánh sáng đang ở ngay trước chúng ta. Tôi tin chắc chắn rằng quý vị biết điều này, kinh nghiệm được điều đó, nhưng, vì vô minh, mà chúng ta bị ô nhiễm, chúng ta không còn thấy gì cả. Khi tâm chúng ta trong sạch thì ngay lúc đó ánh sáng sẽ chiếu soi. Nếu chúng ta lầm lẫn, sai lạc và không trong sạch thì những hình ảnh ô nhiễm sẽ xuất hiện ngay lập tức trong tâm của chúng ta và ngay trước mặt chúng ta. Ðây là một điều vô cùng quan trọng mà chúng ta phải hiểu, phải biết.

Khi chúng ta cảm thấy u uất, nặng nề ở bên trong là tâm của chúng ta không còn hoạt động. Trong lúc chúng ta cảm thấy đời tràn đầy u tối, mặc dù chúng ta có đi ra ngoài trời trong sáng kia chúng ta cũng chẳng thấy gì, chỉ thấy một mầu đen. Nhưng khi tâm hồn trong sáng thoải mái, dù bầu trời có âm u chúng ta cũng vẫn cảm thấy tươi vui. Ðây là tất cả những gì tôi muốn trình bày với quý vị. Có bao nhiêu người trong quý vị ở đây có được kinh nghiệm này? Ðiều này rất đơn giản. Tôi không bao giờ nói những chuyện cao xa ở mãi trên kia. Hãy tỉnh thức!

Càng bối rối, lầm lẫn trong cuộc đời, càng xác định được những phản ảnh trong cuộc sống. Cũng giống như vậy, nội tâm càng trong sạch an tịnh, ngoại cảnh càng an vui, hạnh phúc. Quý vị hãy tự phân tích lấy, điều này rất đơn giản. Ðây không phải là kinh nghiệm của thiền định mà chính là những cảm nhận trong cuộc sống. Mỗi khi chúng ta xuống tinh thần, rất tiêu cực, chúng ta có thể nhìn thấy một cách rất dễ dàng đời sống ở bên ngoài cũng phản ảnh như vậy. Nhưng khi tâm hồn lành mạnh, trong sáng thì những cảnh sống ở bên ngoài cũng dễ dàng vui tươi, cũng xẩy ra trong sáng. Ðó là điều quan trọng nhưng rất dễ hiểu. Hiện tượng này không quá cao, không khó hiểu. Nó rất dễ cảm nhận. Chúng ta đang nói về tiêu cựctích cực, vui và buồn, phải chăng đây là công việc của chúng ta? Công việc của chúng tacố gắng trở lên tích cực; vậy hãy cố gắng phân tích lãnh vực này, làn sóng này.

Tôi sẽ trình bày theo một khía cạnh khác. Chúng ta đã đọc tiểu sử của rất nhiều Lạt ma, họ luôn luôn có những linh ảnh trong sáng về các vị thần linh, như Phật, Văn Thù Sư Lợi, Quan Thế Âm...vân vân...Họ luôn luôn có những linh ảnh trong sáng này xuất hiện ra với họ. Nhưng chúng ta lại luôn luôn có những hình ảnh tức giận, tham lam, ganh ghét hoặc vô minh xuất hiện. Ðây là điều rất dễ hiểuđơn giản, phải không quý vị? Mặc dù chúng ta là người nhưng có những người luôn luôn có những linh ảnh trong sáng, có những người lại luôn luôn thấy những hình ảnh đen tối. Chẳng có gì quá phức tạp trong vấn đề này, rất dễ hiểu.

Nếu chúng ta chú trọng và nhận xét thật kỹ vào những kiểu mẫu mà chúng ta thường có, thường gặp như những linh ảnh, âm thanh, hình ảnh... xuất hiện trong tâm thức chúng ta thì chúng ta có thể phân tích được những giấc mơ và những hình ảnh đó. Ðiều này không khó lắm khi chúng ta muốn tìm hiểu ý nghĩa những gì xuất hiện trong tâm của chúng ta. Ðó là việc ích lợi nếu chúng ta phân tích chúng. Ðây là điều vô cùng quan trọng để chúng ta học hỏi về nghiệp. Mặc dù chúng ta vẫn nói: “nghiệp như thế này, thế này...,” nghiệp như thế này, thế này không gây được sự chú ý ở chúng ta, nhưng khi kinh nghiệm được nghiệp, chúng ta sẽ làm chủ được sự hiểu biết, chúng ta sẽ làm chủ được sự tỉnh thức, chúng ta sẽ làm chủ được tâm thức của chúng ta về bất cứ sự việc gì sẽ xẩy ra cho cuộc đời của chúng ta, trong từng ngày từng tháng --- kinh nghiệm sẽ giúp chúng ta hiểu được nghiệp.

Chúng ta đã được nghe, có rất nhiều đại thiền giả vẫn ở trong trạng thái thiền định mặc dù ông ta đã chết. Khi họ đạt tới trạng thái rỗng lặng như-như, kinh nghiệm ánh sáng trong suốt (clear light, tịnh quang,) vị hành giả ở ngay trong đó. Họ có thể ở trong trạng thái đó cả ngày, cả tuần hay có khi cả tháng. Vì thế, mặc dầu hơi thở đã ngưng nhưng họ vẫn còn sống cho nhiều tuần nhiều tháng. Cho tới khi nào họ còn ở trong trạng thái thiền định là họ còn sống, họ chưa chết.

Vậy, điều quan trọng cho những thiền giả Thụy sĩ là hãy thay đổi luật nhân quyền của họ. Nói cách khác, họ cần xin phép chính quyền Thụy sĩ! “Lạt ma nói thế có nghĩa gì, khi ngài nói ‘xin phép để thiền?’ Chúng tôi không cần, chúng tôi đã có phép rồi.” Sau khi chết, đừng đụng chạm vào thân xác của những thiền giả cho đến khi năng lượng thoát ra khỏi mũi của họ hay bất cứ phần nào trên thân thể của họ. Ðó là giấy phép mà quý vị cần.

Chúng tôi cũng có một cách giải thích khác: có một số Lạt ma lại nói rằng kinh nghiệm ánh sáng trong suốt (trạng thái rỗng lặng như-như) là kinh nghiệm không tính; người khác lại cho rằng đó là kinh nghiệm không tính giả, nó không phải là kinh nghiệm không tính thật. Họ tranh luận về điểm này. Vậy, làm thế nào người ta có thể nói họ kinh nghiệm được không tính? Có lẽ không phải việc của chúng ta để tranh cãi về việc ta có kinh nghiệm được không tính hay là không kinh nghiệm được không tính. Công việc của chúng tachấm dứt những ý niệm cứng ngắc và những u mê. Ở ngay cái giây phút chúng ta kinh nghiệm được nhất thể, bất nhị hay không có một cái tôi hiện hữu –- đó là chocolate Thụy sĩ --- thế là đủ rồi. Vậy chúng ta không nên tranh luận nữa.

Chúng ta có thể nói với nhau, theo kiểu thông minh hóa, tôi có thể hỏi, “Kinh nghiệm của anh về không tính là gì?” Anh có thể trả lời, “Ô, kinh nghiệm của tôi về không tính là lúc tôi không có bạn trai, bạn gái hay không cần một thỏi sô cô la.” Tôi hỏi lại, “Tại sao?” và cuộc tranh luận bắt đầu, “Không cần một thỏi sô cô la, đó không phải là không tính.” Quý vị có hiểu không? Tôi có thể tranh luận kiểu khác, “Không có vấn đề gì về chính trị --- đó là kinh nghiệm của anh về không tính. Hừm... Ðó không phải là không tính.” Chúng ta có thể tranh luận bằng bất cứ cách nào. Có thể tôi đang cố gắng thuyết phục anh rằng đó không phải là kinh nghiệm về không tính.

Bây giờ, với sự thực hành, chúng ta đang xây dựng một kinh nghiệm về không tính từ cái-không-là-gì cả. Chúng ta cần phải xây dựng kinh nghiệm về không tính. Chúng ta cần phải xây dựng một chút kinh nghiệm về không tính --- từ kinh nghiệm không tính thời trẻ con, kinh nghiệm không tính thời thanh thiếu niên, kinh nghiệm không tính thời trung niên, kinh nghiệm không tính thời lão niên, đến một kinh nghiệm không tính vĩ đại. Chúng ta đang nói về kinh nghiệm, không phải về sự thông minh. Những người thông minh nghĩ không tính phải như thế này thế kia, nên khi họ có kinh nghiệm không tính, họ bảo nó không đúng! Ðó chỉ là cách thông minh hóa không tính mà thôi. Ðó không phải là lối trình bày mạch lạc về một kinh nghiệm. Sự mạch lạc có nghĩa là chúng ta bắt đầu từ từ, từ từ, từ từ. Chúng ta xây dựng từ từ mỗi lúc một chút kinh nghiệm về không tínhgiảm bớt đi, giảm bớt đi những ý niệm cứng ngắc. Vì thế, dùng trí thông minh để nói về không tính và thực sự kinh nghiệm không tính  hoàn toàn khác nhau.

Ngay tại lúc kinh nghiệm về ánh sáng trong suốt (clear light) ngưng, là có sự xuất hiện ngược lại. Người chết báét đầu thấy mầu trắng, đỏ rồi đen, rồi ánh sáng trong. Bây giờ, khi ánh sáng trong ngưng thì mầu đen hay mầu tối sẽ khởi lên. Rồi từ mầu tối này, chuyển qua mầu đỏ rồi trắng, rồi tất cả các ảo ảnh đều xuất hiện.

Bây giờ chúng ta bắt đầu nói về thân trung ấm (bardo). Ðừng vội vàng, đừng hối hả, tôi muốn quý vị hiểu vấn đề này một cách thật rõ ràng, thật trong sáng. Trong tiến trình của sự chết, ngay tại thời điểm kinh nghiệm ánh sáng trong suốt ngừng, chừng một giây, chúng ta liền trở thành thân trong thân trung ấm (bardo body.) Chúng ta sẽ kinh nghiệm mầu đen, đến mầu đỏ rồi chuyển qua mầu trắng. Cái tôi của chúng ta cũng hiện diện ở đây. Trong trạng thái đầy ô nhiễm này, nếu chúng ta chú ý và nhạy cảm, chúng ta sẽ thấy một vài loại mầu sắc nữa. Thí dụ, nếu lòng tham hay sự ganh ghét nổi lên mạnh bạo thì nó sẽ chế ngự mầu sắc khác. Vì thế chúng ta nên để ý đến những loại hình ảnh này. Kinh nghiệm trong tiến trình của sự chết cũng giống như trong lúc ngủ. Tiến trình này không chỉ xuất hiện trong lúc chết mà nó còn xuất hiện trong lúc ngủ hay lúc chúng ta bị ngất xỉu. Mỗi khi chúng ta bị kích thích mạnh, chúng ta cũng có những kinh nghiệm như lúc chết. Chúng ta nên thận trọng. Mặc dầu chúng ta đã có những kinh nghiệm về sự chết rất nhiều lần, trong nhiều kiếp, nhưng chúng ta đã không biết, đã không có đủ sự chú ý để nhận biết nó. Nên chúng ta đã không hiểu được những kinh nghiệm riêng của chúng ta.

Như chúng ta thấy đó, tiến trình của sự chết không có gì là bất thường hoặc quá xa lạ. Chúng ta đã trải qua rất nhiều lần, mỗi khi đạt đến tuyệt đỉnh (orgasm) chúng takinh nghiệm về sự chết. Ðã từng kinh quá những nguyên tố trong người bị chìm mất và đã thấy mầu trắng, đỏ, đen rồi trong sáng xuất hiệnchúng ta không biết bởi vì còn đang sung sướng trong vô minh mà không để ý đến những kinh nghiệm kia. Nếu chúng tanhạy cảm và thực sự theo dõi từng hành động của chúng ta, chúng ta sẽ nhận ra được những cái chết này xẩy ra trong đời sống thường ngày của chúng ta. Chúng ta đã từng có kinh nghiệm --- ngay cả trước khi biết đến thiền.

Chúng ta đã từng có rất nhiều kinh nghiệm quí giá --- thật sự là như vậy. Tôi không nói rằng chúng ta là những đại thiền giả nhưng tất cả chúng ta đã từng có những kinh nghiệm quí báu. Thật là quan trọng khi biết được những điều này, thật là quan trọng để chú ý đến chúng và cũng thật là quan trọng nếu gợi lại được những kinh nghiệm quí giá này. Như thế, chúng ta sẽ tự tin hơn và đời sống tâm linh của chúng ta cũng sẽ lớn mạnh hơn. Chúng sẽ giúp chúng ta hơn. Nếu không như vậy, chúng ta đã tiêu phí, đã vất đi biết bao nhiêu điều giá trị vào thùng rác như những người Thụy điển vất rác đi mỗi ngày. Thật là hoang phí. Chúng ta có rất nhiều kinh nghiệm tâm linhchúng ta cứ vất đi, trong khi đó chúng ta lại đem vào người, khoác vào người những chiếc mền nặng nề trong từng giây từng phút. Cái gì chúng ta là, cái gì chúng ta kinh nghiệm được, chúng ta không thể mua được bằng tiền; chúng thật sự rất quí giá cho chúng ta. Nhưng thay vì như vậy, chúng ta lại cố gắng quên chúng đi, vất chúng đi mà đi khoác vào người những cái mà không phải là chúng ta --- thật là điên cuồng!

Bây giờ, tốt hơn, chúng ta hãy trở về công việc của chúng ta. Hãy quán tưởng OM AH HUNG. Hãy cố gắng quán tưởng OM mầu trắng đang ở trong giữa khối óc của chúng ta. Hãy nhận thức rằng mầu trắng OM là nguồn năng lượng tinh khiết của những lời nói thánh thiện, âm thanh thánh thiệnthân thể thánh thiện của chư Phật, chư Bồ Tát hay của bất cứ vị nào mà chúng ta nghĩ rằng thanh tịnh  

Sau khi tụng âm OM, hãy tưởng tượng những tia sáng trắng đầy năng lượng OM đang tràn vào thân thể của chúng ta, rồi vào kinh mạch trung ương của chúng ta, thấm nhập hết vào thân thể chúng ta. Như vậy tất cả những ý niệm, tất cả những nguồn năng lượng bị ô nhiễm của thân xác sẽ được thanh tẩy trọn vẹn. Toàn thể thân xác của chúng ta từ đỉnh đầu đến ngón chân, ngón tay đều được thấm nhuần sự an tịnh, sự an lạc của những tia sáng trắng này. Hãy cảm nhận như vậy. Hãy tụng âm OM khoảng hai đến ba phút trong lúc thiền để thanh tịnh thân xác. Ngay sau khi ngưng tụng mật chú OM, hãy chỉ tỉnh thức, đừng nghĩ đến tốt hay xấu, không phản ứng gì cả, không đối thoại (nội tâm) gì cả, hãy dành tất cả sự chú ý vào ánh sáng tâm thức tại giữa não bộ. Hãy ở đó. Hãy chỉ tỉnh thức, rồi ra đi --- mà không một chút trì trệ, xao lãng nào cả.

Trước khi chấm dứt bài giảng này, chúng ta hãy cùng nhau thiền một chút. Không cần phải gò bó, hãy tự nhiên, hãy thực sự thoải mái, hãy để cho năng lượng trôi chảy tự nhiên, hãy chỉ là. Hãy để cho năng lượng của hơi thở được tự nhiên luân chuyển. Ðừng nghĩ rằng chúng ta đang thiền, đừng nghĩ rằng chúng ta là một thiền giả. Ðừng nghĩ chúng ta là một người khiêm tốn. Ðừng nghĩ chúng ta là người chấp ngã. Ðừng nghĩ bất cứ một cái gì, một vấn đề gì. Hãy chỉ là! Hãy chỉ đang là! 

Hãy để hai tay của quý vị ở vị trí nào cũng được, sao cho thật thoải mái; hãy nhắm mắt lại. Hãy quán tưởng mầu trắng OM đang ở trong óc của chúng ta. Tụng âm OM liên tục trong khoảng ba phút. Ðồng thời, từ OM, nguồn năng lượng an lạc Kundalini* đang tràn lan khắp thân thể chúng ta, đi đến đâu nó thanh tẩy tất cả những ô nhiễm đến đó. Hãy quán tưởng toàn thân thể của chúng ta đang tràn ngập ánh sáng. Ðây là việc làm vô cùng quan trọng. Tất cả đều tràn ngập những tia sáng năng lượng. Năng lượng sáng này giúp chúng ta phá đổ tất cả những ý niệm nhị nguyên kiên cố kết tụ lâu đời lâu kiếp ở chúng ta.

 (Lặp lại âm OM )

Ðược rồi. Hãy ở trong trạng thái tỉnh thức --- rồi thôi, đừng nghĩ gì cả, đừng mong đợi gì cả. Hãy là!

 ( Mọi người thiền )

Sự tỉnh thức dẫn chúng ta đến trạng thái zero, không còn bản ngã, trống không, vắng lặng, không. Hãy tỉnh thức, rồi hãy ra khỏi trạng thái này.

 ( Mọi người tiếp tục thiền )

Ðược rồi. Tốt hơn hãy ngừng ở đây không thì chúng ta biến mất hết.

Cám ơn quý vị nhiều lắm.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10117)
Những ai mới bước chân vào cửa Thiền tông đôi khi thường bỡ ngỡ vì thấy pháp tu này có nhiều điểm có vẻ khác biệt so với các tông phái khác trong đạo Phật... Tâm Thái
(Xem: 10516)
Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người... Nguyện san Chánh Pháp - Số Xuân 2014
(Xem: 10135)
Thi hào Vương Duy (701-761) cùng với Đỗ Phủ (712-770) và Lý Bạch (701-762) là ba thi nhân cự phách dưới triều đại của Đường Huyền Tông (685-762)... Hoang Phong
(Xem: 20399)
Trong ngôn ngữ Việt Nam, từ “đau khổ” được dùng để chỉ trạng thái bất như ý, khó chịu và buồn phiền cùng cực... Nguyễn Hữu Đức
(Xem: 11654)
Thiền không xa lạ đối với giới Phật học trong suốt hơn hai ngàn năm qua. Cá nhân tôi, trong những năm gần đây cũng áp dụng Thiền song song với thuốc cần thiết để chữa bệnh, kết quả rất tốt... Hồng Quang
(Xem: 13792)
48 Lời Nguyện của Phật A Di Đà song ngữ Việt - Anh; Hán dịch: Khương Tăng Khải, Việt dịch: HT Thích Trí Tịnh; Sưu tập: Tuệ Uyển
(Xem: 19129)
Kính nguyện quyển sách nhỏ này có thể giúp đỡ thật sự những đồng tu, đại đức có duyên, được lìa khổ được vui, liễu sanh thoát tử... Pháp Sư Tịnh Không
(Xem: 46715)
Thiền tông lấy bản tâm làm chủ, nên sự tu hành của Thiền sư là sống trở lại với ông chủ của mình, trong mọi hành động, mọi thời gian... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 12095)
Thiền cứu tôi từ tuyệt vọng hơn một lần. Trong những giai đoạn bệnh hoạn trầm trọng nhất, tôi đã được cứu bằng nhận thức rằng kinh nghiệm đau đớn chỉ là nhất thời... Huỳnh Kim Quang
(Xem: 11675)
100 Bài Kệ Niệm Phật - Liên Tông Thập Nhị Tổ Triệt Ngộ Ðại Sư, Thích Thiền Tâm dịch
(Xem: 23085)
Niệm Phật Vô Tướng - Lí Luận và Nhập Môn Pháp Môn Niệm Phật Viên Thông của Bồ Tát Đại Thế Chí, Nguyên tác: Tiêu Bình Thật cư sĩ, Cư sĩ Hạnh Cơ dịch
(Xem: 17857)
Ông Bàng Uẩn (tên Trung Hoa là P'ang Yun, theo cuốn A Man of Zen, của R.F. Sasaki, Y. Iriya và D.R. Fraser) người huyện Hành Dương, Trung Hoa, tự là Ðạo Huyền (Tao-hsuan) sinh khoảng năm 740 và chết năm 808... Dương Đình Hỷ
(Xem: 10159)
"Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên, Đói đến thì ăn, mệt ngủ liền. Trong nhà có báu thôi tìm kiếm, Đối cảnh không tâm chớ hỏi thiền." Thích Đạt Ma Phổ Giác
(Xem: 17766)
Bài khảo luận này là của tác giả Wendy Woods, sinh quán Toronto, Canada, chủ nhân của Watershed Training Solutions, một công ty do bà sáng lập vào năm 2003... Tâm Huy Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13936)
“Nếu chúng ta chia quả đất này thành từng mảnh nhỏ như những hạt cỏ, số lượng những mảnh này không lớn bằng số lượng lần mà mỗi chúng sanh đã là cha mẹ ta”... Karen Villanueva, Nguyên Hiệp dịch
(Xem: 14050)
"Một lòng kính lạy Phật Đà, Ngàn đời con nguyện ở nhà Như Lai, Con hằng mặc áo Như Lai, Con ngồi pháp tọa Như Lai muôn đời"... Tịnh Bình
(Xem: 15113)
Càng lớn con càng thương Mẹ hơn, Tình dâng cao vút đỉnh liên sơn, Tháng năm đời có thêm cay đắng, Mẹ gánh oằn vai chút chẳng sờn... Thích Minh Tuệ
(Xem: 20301)
Thời gian trôi, tiếng đồn về Mẹ ngài bèn gửi thư đi cho ngài: "Con ơi! Mẹ nghĩ kỹ rồi Hiến mình cho Phật, cho nơi đạo mầu
(Xem: 18297)
Thiền sư bước đến lặng yên, Rồi dùng thiền trượng gõ lên quan tài Người ta nghe tiếng của ngài...
(Xem: 17413)
Khuyên con chữ hiếu lo tròn Không thời quả báo sẽ luôn dữ dằn Từ đây kính mẹ, ăn năn Ai hơn mẹ quý, ai bằng tình thâm
(Xem: 18179)
Viết về cuộc đời giác ngộ của những Thiền Sư là viết về một cái không vĩ đại, rỗng suốt, trong veo... Như Hùng
(Xem: 12724)
Một thời đức Phật ngự tại núi Kỳ Xà Quật gần thành Vương Xá nước Ma Kiệt với mấy nghìn Tỳ Kheo, mấy vạn Bồ Tát, và vô số trăm nghìn Chư Thiên rải hoa trỗi nhạc cúng dường Phật... Toàn Không
(Xem: 12857)
Những lời khuyên này, ta muốn nói với Dagmema. Hãy bình tâm, đừng trộn lẫn tâm ấy với những gì thế tục. Hãy đánh thức sự kiên địnhbuông bỏ niềm đau.
(Xem: 13426)
Xuân qua thu lại, cùng thời gian này vào năm tới, vô số người sẽ gặp phải cái chết của mình. Ai có thể quả quyết rằng bạn không phải là một người trong số đó?
(Xem: 17044)
Đây là một cuốn sách quý, đúc kết kinh ngiệm trên 25 năm giảng dạy Phật pháp và hướng dẫn hành thiền của Thiền sư Ajaham tại Úc và các nước Đông Nam Á...
(Xem: 11485)
Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện...
(Xem: 18296)
“Niệm Phật” là pháp môn lấy ngay cái nhân địa Phật để tu thành Phật, nhờ đó mà chúng sanh tiết kiệm cả triệu đời khổ cực tu hành trong sanh tử tử sanh...
(Xem: 18599)
Đạo sư Padma nói: Hãy thực hành Pháp thập thiện và hãy có niềm tin vào cái nên tránh và cái nên làm theo các loại hậu quả trắng và đen của những hành động ấy.
(Xem: 21386)
Theo giáo lý đạo Phật, tâm là nhân tố chính trong mọi sự kiện hay việc xảy ra. Một tâm lừa dối là nguyên nhân của mọi kinh nghiệm mùi vị của samsara...
(Xem: 22170)
Bồ đề tâm, nghĩa là “tư tưởng giác ngộ”, nó có hai phương diện, một hướng đến tất cả chúng sanh và một tập trung vào trí huệ.
(Xem: 16877)
Nghi quỹ tu Pháp Đức Phật - Bổn Sư Shakya Năng Nhân Vương này có tên là “Kho tàng gia trì - Nghi quỹ Đức Phật” được dịch từ Tạng văn sang Việt văn...
(Xem: 12564)
Mỗi năm gần đến ngày Phật đản, Phật tử chúng ta lại có dịp suy ngẫm về bối cảnh lịch sử - xã hội, trong đó Đức Phật thị hiệnđạo Phật ra đời...
(Xem: 15337)
Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn. Nhất thiết thế gian, Sinh lão bệnh tử... HT Thích Thanh Từ
(Xem: 24622)
Năm 623 trước Dương lịch, vào ngày trăng tròn tháng năm, tức ngày rằm tháng tư Âm lịch, tại vườn Lâm Tỳ Ni (Lumbini) xứ Ấn Độ...
(Xem: 14240)
Ý nghĩa ra đời của Thái tử là một hàm ý trọng đại xác định Phật tính trong mỗi chúng sanh khi đã hoàn giác thì cái “duy ngã” đó là một tối thượng...
(Xem: 11648)
Thiền Và Chỉ Quán - Nguyên tác: Thiên Thai Trí Khải, Paul L. Swanson biên soạn, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm dịch
(Xem: 19742)
Pháp bản như vô pháp, Phi hữu diệc phi vô, Nhược nhân tri thử pháp, Chúng sanh dữ Phật đồng... Thiền sư Huệ Sinh
(Xem: 13425)
Đức Phật, vô cùng thực tếthiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại.
(Xem: 22810)
Chúng ta nên thiền quán về đức Tara để trưởng dưỡng Bồ đề tâm từ sâu thẳm trong trong tim, phát triển tình yêu thươnglòng bi mẫn mạnh mẽ, đích thực...
(Xem: 19006)
Đức Văn Thù được kính ngưỡng là vị Bản Tôn của Trí tuệ Căn bản. Trí tuệ Văn Thù chính là Trí tuệ của mười phương ba đời chư Phật.
(Xem: 18464)
Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp nhất giữa trí tuệtừ bi...
(Xem: 21628)
Những Đạo sưcuộc đời được ghi chép trong quyển sách này là một số vị trong nhiều cá nhân hiếm hoi mà chúng ta có được ở Tây Tạng...
(Xem: 20533)
Hương quyện của đất trời, sắc màu của trần gian, hai bờ của phân ly, hai ngã của mê ngộ, một sự thảnh thơi nhẹ bước...
(Xem: 20037)
Thực hành Bổn tôn là phương pháp đặc biệt và lớn lao để nhanh chóng chuyển hóa những sự hiện hữu thế tục mê mờ thành sự giác ngộ.
(Xem: 14079)
Được thành lập vào cuối những năm 1960, trải qua 50 năm có lẽ, đến nay Thubten Choling là một trung tâm đào tạo Phật giáo Tây Tạng hàng đầu của trường phái Nyingma...
(Xem: 15010)
Sau khi định tâm, tôi nhắm mắt tưởng nhớ đến Thánh: “Hôm nay con thấy vô cùng hạnh phúc được đặt chân lên Tu viện, nơi Thánh Trulshik và các vị đạotu hành...
(Xem: 13797)
Phật tử nên tin sâu vào nhân quả, tin vào đạo lý vô thường, duyên sinh, huyễn mộng của các pháp... Thích Thông Huệ
(Xem: 15112)
Khác với Trung Quốc và một số quốc gia khác, rồng không hiện hữu nơi niềm tin của người Ấn... Nghiệp Đức
(Xem: 17243)
Theo những nghiên cứu lâu dàicẩn trọng, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã mạnh mẽ can ngăn các Phật tử Tây Tạng trong việc xoa dịu tinh linh hung tợn được gọi là Shugden (Dolgyal).
(Xem: 15300)
Nụ cười của Ngài cũng là sự thể hiện hai đức hạnh quý báu trong đạo Phật, đó là hỷ, xả. Có hỷ, xả chúng ta mới nở nụ cười vui tươi chân thật, hạnh phúc, an lạc.
(Xem: 12822)
Những lời thuyết giảng của vị sư già đã mang lại cho chị một tâm hồn phong phú, bén nhạy và nhiều yêu thương hơn.
(Xem: 15884)
Từ bi không chỉ là đồng cảm. Trên thực tế, nó là tâm hiểu được sự bình đẳng, bình đẳng giữa bản thân và người khác, giữa tốt và xấu, bình đẳng trong mọi hiện tượng nhị nguyên.
(Xem: 12999)
Lama Lhundrup dùng sự biểu hiện của bệnh tật để thực hành pháp Tonglen cho chúng sanh, và Ngài thường bảo người khác gởi hết cho Ngài mọi sự lo âu...
(Xem: 13139)
Những người mới bắt đầu nên tập trung vào việc chắc chắn rằng động cơ của họ là thanh tịnh, và cầu nguyện chí thành đến vị thầy gốc. Đây là thực hành tốt nhất.
(Xem: 15025)
Mùa xuân gần kề với niềm tin sức sống mới. Hãy tu để chuyển nghiệp! Đức Phật đã dạy như vậy! Bất kỳ hoàn cảnh nào chúng ta cũng có thể tu được...
(Xem: 22651)
Luận văn trẻ trung tuyệt vời này đưa ra phương pháp tiếp cận dựa trên truyền thống, vạch ra các giai đoạn của con đường.
(Xem: 7160)
An-ban thiền được thành lập trên nền tảng là kinh An-ban Thủ Ý và kinh Ấm Trì Nhập. Ngài An Thế Cao dịch có kinh An-ban Thủ Ý, Ấm Trì Nhập chuyên nói về thiền định...
(Xem: 19367)
Tara là hiện thân lòng từ bi của chư Phật ba thời, quá khứ, hiện tạivị lai. Bà là vị Thánh nữ có khả năng thực hiệnhoàn thành mọi hoạt động giác ngộ của chư Phật.
(Xem: 37710)
Thật ra, là hoàn toàn sai lầm khi nói rằng tôn nam này kết hợp với tôn nữ kia. Đúng ra phải nói rằng trong Tự Tánh hiển lộ ra một hình tướng bất nhị.
(Xem: 9176)
Nguyên tác Hoa ngữ của “66 cầu thiền ngữ” này là “Lục thập lục điều kinh điển thiền ngữ”
(Xem: 8683)
Giả sử khi tôi thành Phật, nước tôi còn có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
(Xem: 17903)
Không tách lìa hiện tướngtánh không. Đây chính là chánh kiến, chẳng còn gì sở đắc được hơn.
(Xem: 14876)
Thiền là một con đò dùng để đưa người rời bỏ bờ khổ đau và vô minh để tới bờ của an lạcgiải thoát...
(Xem: 27054)
Về môn Niệm Phật, tuy giản dị nhưng rất rộng sâu. Điều cần yếu là phải chí thành tha thiết, thì đạo cảm ứng mới thông nhau, hiện đời mới được sự lợi ích chân thật.
(Xem: 19949)
Do nhờ định lực niệm Phật của mình cảm ứng với từ lực của Đức Phật A-Di-Đà thì lập tức cảnh “ác đạo” sẽ được chuyển hóa thành cảnh “Cực lạc”...
(Xem: 15270)
Một câu niệm Phậttâm yếu của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni. Tâm yếu, cũng gọi là tông, là yếu chỉ tức sắc tức không của cảnh giới chân tâm...
(Xem: 15487)
Một câu A Di Đà Lộ tánh diệu chân như Sắc xuân nơi hoa sáng Muôn tượng ẩn gương xưa.
(Xem: 26797)
Tâm chân thành là tâm Phật, bạn với Phật là đồng tâm. Bốn hoằng thệ nguyện là đồng nguyện với Phật...
(Xem: 14569)
Nếu ta tiếp cận Pháp như những đứa trẻ con, ta có thể nhớ lại giây phút đầu tiên ta gặp Giáo Pháp, nó trở nên quan trọng đối với ta ra sao...
(Xem: 19714)
Mục đích chính yếu của sự hóa hiện của một vị tái sanh là để tiếp tục công việc chưa hoàn tất của vị tiền nhiệm để hộ trì Giáo pháp và [hóa độ] chúng sinh.
(Xem: 14638)
Đức Tara nhanh chóng giúp bạn thành công trong việc đạt được hạnh phúc tối hậu của giác ngộ. Bạn nhận lãnh rất nhiều công đức tốt lành, hay nguyên nhân của hạnh phúc...
(Xem: 18661)
Mắt mở nửa chừng, hãy dịu dàng cảm nhận từng hơi thở vào và ra. Và cảm nhận rằng toàn thân bạn đang dịu dàng thở.
(Xem: 15936)
Nếu giáo Pháp của Đức Phật vẫn còn hiện hữu và con có một niềm tin vững chắc thì đơn giản con đã tích lũy rất nhiều công đức trong quá khứ.
(Xem: 16359)
Danh hiệu Phật Bồ Tát đại từ đại bi vô lượng vô biên biểu trưng trí tuệ của tự tánh vô lượng vô biên, đức năng vô lượng vô biên...
(Xem: 19366)
Cầu vãng sanh tức là cầu “Nhất niệm tương ưng nhất niệm Phật”, tương ứng với đại nguyện của Đức A-Di-Đà Phật để Đức A-Di-Đà Phật độ thoát chúng ta.
(Xem: 19739)
Pháp môn của Phật bình đẳng, đó là Khế Lý. Ứng hợp được với căn cơ của mình, chọn lựa cho đúng, hành cho đúng theo khả năng của mình là Khế Cơ, chúng ta được thành tựu.
(Xem: 19909)
Để cho người bệnh có được một cái vốn căn bản, thì đầu tiên chúng ta nên cố gắng hướng dẫn cho người hộ niệm cái vốn căn bản vững vàng trước.
(Xem: 18609)
Quyết chí tử hạ thủ công phu, lấy bốn chữ A-di-đà Phật hay sáu chữ Nam-mô A-di-đà Phật làm bổn mạng của mình, ngày đêm dõng mãnh Lão thật niệm Phật, không mỏi mệt...
(Xem: 29836)
Sự khai triển của Phật giáo đại thừa kết hợp với các dân tộc có nền văn hóa khác nhau đưa đến sự xuất hiện nhiều trình độ hiểu biết Phật giáo rất đặc sắc.
(Xem: 14578)
Tôi thấy thầy trao cho Út Huy gói quà, thằng nhóc vừa đưa tay nhận lấy, thầy lại móc túi áo lấy ra một chai dầu nóng dúi vào tay nó. Xong, thầy xoa đầu nó âu yếm...
(Xem: 17768)
“Lời Cầu nguyện Đức Kim Cương Trì” là tập hợp hai bài giảng riêng biệt của ngài Tai Situpa. - Người dịch: Nguyên Toàn - Hiệu đính: Thanh Liên.
(Xem: 32439)
Tịnh độ giáo là một tông phái thuộc Phật giáo Đại thừa, tín ngưỡng về sự hiện hữu của chư Phật và tịnh độ của các Ngài; hiện tại nương nhờ lòng từ bi nhiếp thụ của Phật-đà...
(Xem: 15277)
Quán các pháp chẳng thường chẳng đoạn, cũng chẳng phải có, chẳng phải không, chỗ tâm hành diệt, ngôn thuyết cũng bặt dứt. Đó gọi là quán sâu xa thanh tịnh.
(Xem: 17314)
Quyển "Thiền tông quyết nghi tập" này do thiền sư Đoạn Vân Trí Triệt soạn vào đời Nguyên, được ấn hành vào niên hiệu Khang Hi thứ 6 (1667) đời Thanh...
(Xem: 29770)
Những lời khuyên dạy trong những trang sau đây đều căn cứ trên kinh nghiệm thực hành của Ngài Thiền Sư Ashin Tejaniya.
(Xem: 31548)
Qua quyển sách mỏng này, Susan đã chia sẻ rất chân thật các tâm trạng mà bà phải trải qua trong tuổi già...
(Xem: 64714)
Một thuở nọ Thế-tôn an-trụ Xá-vệ thành Kỳ-thụ viên trung, Mục-liên mới đặng lục-thông, Muốn cho cha mẹ khỏi vòng trầm-luân.
(Xem: 32811)
Đức Phật dạy chúng ta hãy vất bỏ mọi thái cực. Đó là con đường thực hành chân chính, dẫn đến nơi thoát khỏi sanh tử. Không có khoái lạc và đau khổ trên đường này...
(Xem: 20239)
Niệm Phật đúng pháp là tâm tiếng hiệp khắn nhau. Tiếng ở đâu thì tâm ở đó, tâm ở đâu thì tiếng ở đó.
(Xem: 18533)
Hiện tại chúng ta đang sở hữu thân người quý giá và đã gặp được giáo lý Phật Đà. Nhờ sự gia trìlòng từ ái của chư đạo sư, chúng ta có thể thọ nhận, nghiên cứuthực hành giáo pháp.
(Xem: 30824)
Từng Bước Nở Hoa Sen - Chén trà trong hai tay, Chánh niệm nâng tròn đầy, Thân và tâm an trú, Bây giờ ở đây... Thích Nhất Hạnh
(Xem: 19927)
Thực hành Kim Cương thừa được bắt đầu thông qua một quán đảnh. Để hiệu quả, quán đảnh đòi hỏi sự chứng ngộ của đạo sư, bậc trao truyền nó, cũng như sự tin tưởngtrí thông minh của đệ tử nhận nó.
(Xem: 45911)
Thái độ nói ôn hòa điềm đạm sẽ làm tăng thêm uy tín cho người nói, gây dựng được một thiện cảm để người ta muốn nghe. Cuối cùng cái cốt lõiý thức của ta qua lời nói...
(Xem: 32604)
Khi bạn duy trì được chánh niệm trong mọi lúc, tâm bạn sẽ luôn luôn mạnh mẽ và đầy sức sống, rất trong sángan lạc. Bạn cảm thấy nội tâm mình vô cùng thanh tịnh và cao thượng.
(Xem: 39359)
Đa Văn từ lâu được nổi tiếng là nghe nhiều, nhớ giỏi. Hôm kia, chẳng biết suy nghĩ được điều gì mà chú hăm hở chạy vào gặp nhà sư, lễ phép và khách sáo nói...
(Xem: 40459)
Mục đích của cuộc đời chúng ta là để trưởng thành, là để giải quyết các vấn đề của mình một cách chánh niệmý nghĩa. Trí tuệ sẽ đến và chánh niệm cũng đến cùng.
(Xem: 50150)
Khi bạn tiếp tục tiến tới trên đạo lộ một cách đúng đắn, với ý định trở thành một con người giác ngộ, bạn phải kiểm soát tâm theo đúng cách...
(Xem: 19098)
Hệ thống Phật giáo Đại thừa được hình thành vào khoảng trước sau thế kỷ thứ nhất ở những vùng Nam Ấn Độ với chủ trương “Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa chúng sinh”...
(Xem: 18566)
Luật nhân quả khiến chúng ta phải trải qua những kết quả của việc ta đã làm. Những nơi mà chúng ta trải qua sự chín muồi của nghiệp được gọi là sáu cõi luân hồi.
(Xem: 20697)
Việc chúng ta được sinh ra làm người mang lại cho ta cơ hội và thuận lợi để thực hành Pháp và cho ta con đường dẫn tới truyền thống bao lasâu xa của Phật Pháp.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant