Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

15. Tiến trình chết

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11690)
15. Tiến trình chết


Padmasambhava nói :

Con người đối mặt với hai thứ chết : chết phi thời và chết do chấm sứt thọ mạng. Chết phi thời có thể tránh nhờ những phương pháp để kéo dài thọ mạng. Tuy nhiên, khi nguyên nhân cái chết là thọ mạng tận, thì bạn như một cây đèn đã hết dầu. Không thể nào tránh cái chết bằng cách lừa bịp nó, bạn phải sẵn sàng ra đi.

Bây giờ ta hãy nhìn vào hai nguyên nhân sự chết : thọ mạng hết và một chướng ngại hay tai nạn đưa đời ta đến một kết thúc phi thời.
 
 

Thọ mạng tận

Do nghiệp lực, chúng ta mỗi người đều có một thọ mạng, và khi nó chấm dứt, thì thực vô cùng khó mà kéo dài đời sống. Tuy vậy, một người đã kiện toàn thực tập yoga có thể vượt cả giới hạn ấy, và thực sự kéo dài dược thọ mạng. Có truyền thống là, đôi khi những bậc thầy được bổn sư họ báo cho biết họ sẽ sống bao lâu. Nhưng họ cũng biết rằng nhờ năng lực tu luyện, nhờ sự thuần tịnh của mối liên hệ giữa họ với đệ tử họ nhờ công đức, họ có thể kéo dài thọ mạng. Thầy tôi tiên đoán Dilgo Rinpoche sẽ sống đến tuổi 80, nhưng nếu xa hơn là nhờ tu tập. Dilgo Rinpoche đã sống tới 82 tuổi. Dudjom Rinpoche được thầy bảo cho biết sẽ thọ 73 tuổi, nhưng ngài đã sống đến tuổi 82.
 
 

Chết phi thời

Người ta bảo, nếu do trở ngại nào đó mà ta có thể chết bất đắc kỳ, thì cái chết ấy có thể dễ dàng tránh được, miễn là ta biết trước. Trong giáo lý về Trung Ấm và y học Tây Tạng, chúng ta có thể tìm thấy những mô tả về những dấu hiệu báo trước cái chết, có dấu hiệu báo trước hàng năm, hoặc tháng, có khi tuần hay ngày. Những điềm báo này gồm những dấu hiệu vật lý, vài loại chiêm bao đặc biệt, và những điều tra đặc biệt xử dụng hình ảnh cái bóng. (CT. – Quan sát cái bóng của mình trên nền trời vào lúc bình minh hay trăng sơ tuần). Rủi thay chỉ một ít người có khả năng chuyên môn mới có thể đoán giải những dấu hiệu này. Mục đích là để báo cho một người biết mạng sống của họ lâm nguy, và báo động cho họ nên dùng các pháp môn để kéo dài thọ mạng, trước khi những chướng ngại ấy xảy đến.

Bất cứ pháp tu nào ta làm, cũng có thể giúp kéo dài thọ mạng và đem lại sức khỏe. Một hành giả thiện xảo nhờ năng lực công phu của mình, thường cảm thấy lành mạnh về tâm lý, cảm xúctâm linh, và đấy là nguồn suối lớn nhất để chữa trị và sự che chở lớn nhất chống lại bệnh tật.

Cũng có những pháp tu đặc biệt kéo dài thọ mạng, dùng năng lực thiền địnhquán tưởng để hô triệu sinh lực từ tứ đạivũ trụ. Khi nghị lực chúng ta suy yếu và thiếu quân bình, pháp môn này cũng làm tăng cường và điều hòa lại cơ thể, và cũng kéo dài thọ mạng ta. Cũng có nhiều pháp để tăng cường mạng sống.

Một pháp mônphóng sanh những con vật sắp bị giết. Pháp này rất phổ thôngTây Tạng và vùng Hy Mã Lạp Sơn, ở đấy người ta thường mua cá để thả. Việc này căn cứ trên luật nhân quả nghiệp báo tự nhiên là : giết hại mạng sống của kẻ khác thì rút ngắn mạng sống của chính mình, và phóng sinh thì sẽ kéo dài thọ mạng.
 
 

Trung gian đau đớn của sự chết

Trung Ấm này kéo dài từ khi ta mắc một bệnh nan y thời cuối cùng, hoặc một tình huống sẽ chấm dứt bằng cái chết, đến lúc hơi thở bên trong chấm dứt. Nó được gọi là “đau đớn” vì nếu ta không chuẩn bị, thì nó có thể thành một kinh nghiệm vô cùng đau khổ.

Ngay cả đối với một hành giả, toàn thể tiến trình chết cũng vẫn đau khổ, vì mất cái thân xác ở đời có thể là một kinh nghiệm rất gay go. Nhưng nếu chúng ta đã được chỉ dẫn về ý nghĩa sự chết, ta sẽ biết có một niềm hy vọng lớn lao như thế nào khi Ánh sáng Căn bản ló dạng vào lúc chết. Tuy nhiên, vẫn còn một điều bất trắc là không biết ta có nhận ra được ánh sáng ấy hay không. Vì vậy, thực quan trọng để ổn định nhận thức về tự tánh tâm nhờ thực tập thiền trong lúc ta còn sống.

Nhưng nhiều người trong chúng ta không có cái may mắn gặp được nền giáo lý này, và ta không có một khái niệm nào về ý nghĩa thực thụ của sự chết. Khi chúng ta thình lình nhận ra rằng toàn thể cuộc đời ta, toàn thể thực tại của ta, đang biến mất, thì điều ấy thực kinh khủng : Chúng ta không biết ta sẽ ra sao, sẽ đi về đâu. Không có một thứ gì trong kinh nghiệm trước đấy của ta đã chuẩn bị cho ta đón nhận cái chết. Như bất cứ ai đã từng săn sóc người hấp hối đều biết, sự lo sợ của ta chỉ tổ tăng thêm nỗi đau thể xác. Nếu chúng ta đã không lo cho đời sống của ta, hay ta đã có hành động xấu xa tác hại, tiêu cực, thì lúc đó ta sẽ cảm thấy hối hận, phạm tội, sợ hãi. Bởi thế, nhờ có chút quen thuộc với giáo lý này về các cõi Trung Ấm mà ta sẽ được an tâm phần nào, được cảm hứnghy vọng, cho dù ta chưa từng tu tập hay thực chứng giáo lý ấy.

Ðối với những hành giả thuần tục, biết rõ cái gì sẽ xảy đến, thì không những chết không có gì đau đớn đáng sợ mà còn chính là thời điểm mà họ đang chờ chực sẵn ; họ đối mặt với cái chết một cách thản nhiên, còn có hỷ lạc nữa. Tôi nhớ câu chuyện Dudjom Rinpoche kể về cái chể của một hành giả đã ngộ đạo. Ông đã đau ốm vài hôm, bác sĩ đến xem mạch và khám phá rằng ông sắp chết, nhưng không biết có nên nói cho ông biết hay không. Mặt ông bác sĩ xệ xuống, đừng bên giường trông có vẻ nghiêm trọng, buồn bã. Nhưng với một vẻ nồng nhiệt của trẻ thơ, hành giả năn nỉ bác sĩ cho biết sự thực tệ nhất. Bác sĩ đành nhượng bộ, nhưng cố nói như để an ủi ông : “Hãy cẩn thận, thời gian đã đến”. Bác sĩ lấy làm ngạc nhiên khi thấy mặt ông tươi hẳn lên, vui như đứa trẻ nhận được quà. “Thật sao ? Ôi, thật là một tin mừng !” . Ông nhìn lên trời và chết ngay trong một trạng thái thiền sâu xa.

Tây Tạng ai cũng biết rằng chết một cái chết đặc biệt là cách thực sự để lưu danh, nếu ta chưa thể làm gì có tiếng tăm trong lúc sống. Tôi nghe nói về một người quyết định chết một cách phi phàm, bằng một kiểu vĩ đại. Ông biết thông thường các bậc thầy sẽ chỉ rõ lúc nào thì họ chết, và triệu tập môn đệ. Bởi thế, người này cũng tụ hội tất cả bạn bè đến ăn một bữa tiệc lớn xung quanh tử sàng của ông. Ông ngồi đấy trong tư thế thiền để chờ chết, nhưng không có gì xảy đến. Sau nhiều giờ, các thực khách đâm ra mệt mỏi vì chờ đợi, và bảo nhau : “Ta hãy kởi sự ăn thôi”. Họ bỏ thức ăn đầy đĩa, rồi nhìn người sắp chết mà bảo : “Ông ta sắp chết, không cần phải ăn đâu” . Thì giờ trôi qua mà vẫn không có dấu hiệu gì về cái chết, người “sắp chết” cũng thấy đói bụng và lo sợ sẽ không còn gì để ăn. Ông ta tụt xuống khỏi giường và tham gia bữa tiệc. Cái màn “dự tri thời chí” lớn lối của ông trở thành một trò hề.

Những hành giả thiện xảo có thể tự lo liệu lấy khi họ chết, nhưng những người thường thì cần có thầy họ ở bên giường chết, nếu không thì một bạn đạo có thể nhắc nhở họ tinh yếu của việc tu hành và giúp họ thấy được tự tánh tâm.

chúng ta là ai, cũng vẫn rất lợi lạc nếu làm quen với tiến trình chết. Nếu chúng ta hiểu biết các giai đoạn của sự chết, ta sẽ biết rằng tất cả những kinh nghiệm lạ lùng mà ta đang kinh quá trong lúc chết, chỉ là một phần của một tiến trình tự nhiên. Khi tiến trình ấy bắt đầu, nó báo hiệu cái chết sắp đến, và nhắc ta tỉnh giác. Và đối với một hành giả thì mỗi giai đoạn của sự chết sẽ là một cột đánh dấu hiệu, nhắc cho ta nhớ cái gì đang xảy đến với ta, và nhớ thực hành pháp vào mỗi thời điểm như vậy.
 
 

Tiến trình chết

Tiến trình chết được giải thích cặn kẽ trong nhiều kinh sách Tây Tạng. Cốt yếu nó gồm hai giai đoạn tan rã : một sự tan rã bên ngoài, khi các căn và tứ đại phân tán ; và một sự tan rã bên trong, thuộc về các ý tưởngcảm xúc thô và tế. Nhưng trước hết ta cần hiểu rõ những thành phần của thể xác và tâm thức ta, những thứ sẽ phân tán vào lúc chết.

Toàn thể sinh tồn của ta được quyết định bởi các đại chủng : đất, nước, lửa, gió và khoảng không. Nhờ các đại chủng này mà thân thể thành hìnhtồn tại, và khi chúng tan rã thì chúng ta chết. Chúng ta quen thuộc với những đại chủng bên ngoài, những thứ định đoạt cách thế chúng ta sống, nhưng điều đáng chú ý là những đại chủng bên ngoài này tác động ảnh hưởng lên các đại chủng bên trong cơ thể ta như thế nào. Và tiềm năng cùng tính chất của năm đại chủng này cũng hiện hữu trong tâm chúng ta. Khả năng của tâm thức để làm nền tảng cho mọi kinh nghiệm là cái khả năng của đất ; tính tương tục và dễ thích nghi của nó là nước ; tính sáng suốt và khả năng nhận thức của nó là lửa ; tính chuyển động liên tục của nó là gió ; và tính trống rỗng vô giới hạn của nó là hư không.

Sau đây, giải thích cơ thể vật lý của chúng ta hình thành như thế nào. Một văn bản y khoa cổ của Tây Tạng nói :

“Các thức thuộc về giác quan khởi lên từ trong tâm. Thịt, xương, khứu giác và mùi được tạo thành do địa đại. Máu, vị giác, vị và chất lỏng khởi lên từ thủy đại. Hơi ấm, màu, thị giáchình sắc được hình thành từ hỏa đại. Hơi thở, xúc giác và đối tượng vật lý được tạo thành từ phong đại. Những lỗ hổng trong thân, thính giácâm thanh được tạo thành từ không đại”.

(Ambrosia Heart Tantra, p.33)

 Kalu Rinpoche viết : “Tóm lại, chính từ nơi tâm, biểu trưng tính chất năm đại chủng, mà cơ thể vật lý phát triển. Chính cơ thể vật lý cũng thấm nhuần năm tính chất này, và chính vì cái phức thể tâm/vật này mà chúng ta nhận thức được ngoại giới - cái thế giới cũng gồm năm đại chủng đất, nước, lửa, gió và hư không như vậy”.

Truyền thống Mật tông Tây Tạng nêu lên một giải thích về thân xác hoàn toàn khác với lối giải thíchchúng ta vẫn quen thuộc. Ðây là một hệ thống tâm vật lý, gồm một mạng lưới năng động với những huyệt đạo vi tế, “khí” hay nội khí, và tinh thần. Những thứ này Phạn ngữ gọi là nadi, prana và bindu (tinh khí thần) ; Tạng ngữ gọi là tsa, lung và tikleù. Chúng ta quen thuộc với một thứ tương tự trong y học và châm cứu Trung quốc là các kinh mạch và khí.

Thân người được các bậc thầy ví như một đô thị, các kinh mạch giống như đường sá, gió như ngựa, tâm như người cỡi. Có 72.000 kinh mạch vi tế trong thân thể, nhưng có 3 kinh mạch chính : trung ương, chạy dọc cột sống, và kinh mạch bên trái và phải chạy hai bên kinh mạch trung ương. Hai kinh mạch phải, trái cuộn quanh kinh mạch giữa tại một số điểm để làm thành một dãy “gút” . Dọc theo kinh mạch chính có một số “luân xa” chakras, trung tâm năng lượng, từ đấy những kinh mạch phân ra như những cọng dù. Qua những kinh mạch ấy, “khí” tuôn chảy, còn gọi là nội khí. Có 5 khí gốc và 5 khí ngành ngọn. Mỗi khí gốc nâng đỡ một đại chủng và chịu trách nhiệm về một vận hành của cơ thể con người. Những khí ngành ngọn giúp cho các giác quan hoạt động. Những khí nào chảy qua tất cả các kinh mạch, ngoại trừ kinh mạch giữa, thì được gọi là bất tịnh, vì gợi lên những mẫu tư duy nghị nguyên, tiêu cực. Những khí ở huyệt đạo trung ương gọi là “khí của trí tuệ”.

“Tinh chất” chứa đựng trong các huyệt đạo. Có tinh đỏ và trắng. Chỗ chứa chính thức của tinh trắng là cái đỉnh đầu, và tinh đỏ ở nơi lỗ rốn.

Trong thực hành yoga cao cấp, hệ thống này được hành giả quán rất rõ. Bằng cách làm cho khí vào trong huyệt đạo trung ương nhờ năng lực thiền định, một hành giả có thể trực nhận ánh sáng hay “Ðiểm Linh Quang” của tự tánh tâm. Ðiều này làm được vì tâm thức cỡi trên khí. Bằng cách hướng tâm về một chỗ đặc biệt nào trên cơ thể mình, hành giả có thể đưa khí đến đấy. Với cách ấy, hành giả đang mô phỏng cái điều xảy ra lúc chết : khi những gút trong các huyệt đạo được bung ra, khí chảy vào huyệt đạo trung ương, và hành giả đốn ngộ tức thì.

Digo Khientse Rinpoche kể câu chuyện về một bậc thầy nhập thất ở một tu viện thuộc tỉnh Kham, vị này ở gần các anh của ngài. Bậc thầy này đã hoàn tất pháp yoga về các huyệt đạo, khí và tinh thần. Một hôm ông hỏi thị giả : “Bây giờ ta sắp chết, con hãy giở lịch xem ngày nào tốt” . Vị thị giả kinh ngạc, nhưng không dám trái lời thầy. Ông xem lịch và trả lời rằng ngày thứ hai, sau đó là ngày các sao đều tốt lành. Bậc thầy bảo : “Còn ba hôm nữa. Ðược rồi, ta có thể chết”. Khi người hầu ở lại trong phòng ngài vài phút sau, ông đã thấy ngài ngồi thiền bất động trông như đã chết. Không có hơi thở nhưng còn một nhịp mạch rất yếu. Người hầu quyết định không làm gì, chỉ chờ đợi. Vào giữa trưa, thình lình ông nghe một tiếng thở ra rất sâu, và thầy ông trở lại tình trạng bình thường, nói chuyện với ông một cách vui vẻ, và đòi bữa ăn trưa, mà ông thưởng thức rất thú vị. Ông đã nín thở suốt một buổi sáng thiền định.

Lý do ông làm việc ấy là vì thọ mạng chúng ta được tính ra một số lượng có hạn những hơi thở, và bậc thầy khi biết ông gần chết đã nín thở để có thể kéo đến ngày tốt ông sẽ thở hơi cuối cùng. Sau bữa trưa, ông thở vào một hơi thật sâu, rồi giữ nó cho tới chiều. Ông làm như vậy ngày hôm sau, và sau nữa. Khi ngày thứ hai đến, ông hỏi : “Hôm nay có tốt ngày không ?” . “Tốt ạ” . Ðệ tử đáp. Ông bảo : “Tốt, vậy ta sẽ đi” . Và hôm ấy, không một dấu hiệu đau ốm nào, ông từ trần trong thiền định.

Khi có một cái thân vật lý thì ta cũng có năm uẩn - những nhóm làm nên toàn thể hiện hữu vật lýtâm lý của ta. Chúng là những thành phần của kinh nghiệm ta, chỗ nương cho sự chấp thủ bản ngã, và cũng là nền tảng cho nỗi khổ sinh tử. Ðó là hình dáng, cảm giác, nhận thức, tri thức, và tâm ý (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) . “Năm uẩn biểu hiện cơ cấu miên viễn của tâm lý con người cũng như mẫu mực tiến hóa của nó, và mẫu mực tiến hóa của nhân loại. Năm uẩn còn liên hệ đến những chướng ngại thuộc nhiều loại khác nhau : chướng ngại về tâm linh, về vật chất và về cảm xúc” . Chúng được khảo sát sâu rộng trong nền Tâm lý học Phật giáo.

Tất cả những kết hợp ấy sẽ tan rã khi chúng ta chết. Tiến trình chết là một tiến trình duyên sinh phức tạp, trong đó những nhóm thuộc các khía cạnh tương quan trong thân và tâm ta phân tán đồng thời. Khi phong đại biến mất thì những thân hành và các giác quan suy sụp. Những trung tâm năng lượng sụp đổ, và vì không có những luồng gió nâng đỡ chúng, nên các đại chủng liên tiếp tan rã từ thô nhất đến tế nhất. Kết quả là mỗi giai đoạn của quá trình tan rã đều có hiệu quả vật lýtâm lý trên người sắp chết, và được phản chiếu bằng những triệu chứng vật lý bên ngoài cũng như kinh nghiệm tâm lý bên trong.

Ðôi lúc các bạn hỏi tôi : “Những người như chúng tôi có thể trông thấy những triệu chứng bên ngoài này nơi một người bạn hay bà con sắp chết không ?” . Các học trò tôi săn sóc người hấp hối đã cho biết rằng một vài dấu hiệu vật lý mô tả dưới đây đã được thấy tại các Tiếp dẫn đường và bệnh viện. Tuy nhiên, những giai đoạn của sự tan rã bên ngoài có thể xảy ra cực kỳ nhanh chóng và không rõ rệt lắm, và phần đông người săn sóc người chết trong thế giới ngày nay không cần để ý tìm kiếm những dấu hiệu ấy. Những y tá trong những bệnh viện rộn ràng thường dựa vào trực giác của họ và nhiều yếu tố khác, như thái độ của bác sĩ, của các thành viên gia đình bệnh nhân, hay tâm trạng người bệnh, để đoán biết người nào sắp chết. Họ cũng quan sát một vài dấu hiệu vật lý - song không theo một hệ thống nào - như là màu da đổi khác, một mùi gì đó, một sự đổi khác trong hơi thở. Tuy nhiên, những dược liệu tân thời rất có thể che lấp những dấu hiệu mà giáo lý Tây Tạng mô tả. Và lạ thay, lại có rất ít nghiên cứuTây phương về đề tài rất quan trọng này. Ðiều ấy phải chăng chứng tỏ tiến trình chết rất ít được hiểu biếttôn trọng ?
 
 

Tư thế chết

Theo truyền thống thì tư thế để chết là nằm nghiêng bên mặt, như dáng nằm sư tử. Ðó là thế nằm của Phật lúc nhập Niết-bàn. Bàn tay trái nghỉ trên vế trái ; tay mặt để dưới cằm, bít lỗ mũi phải lại. Hai ống chân duỗi ra và hơi cong lại. Bên hông phải có vài huyệt đạo vi tế làm tăng thêm “gió nghiệp” vọng tưởng. Nằm lên trên chúng trong dáng nằm sư tử và bít lỗ mũi phải là làm bế tắc những huyệt đạo ấy, khiến cho một người dễ dàng nhận ra ánh sáng khi nó xuất hiện vào lúc chết. Ðiều ấy cũng giúp cho thần thức từ giã thân xác qua ngõ mở trên đỉnh đầu, khi tất cả các chỗ mở khác - qua đó thần thức có thể thoát ra - đều bít lại.
 
 

Sự tan rã bên ngoài : các giác quantứ đại

Sự tan rã bên ngoài xảy ra khi các giác quantứ đại phân tán. Chúng ta thực sự kinh quá điều này như thế nào khi chết ?

Ðiều trước tiên chúng ta có thể ý thức là các giác quan ta ngưng hoạt động như thế nào. Nếu người đứng xung quanh giường ta đang nói chuyện, sẽ đến một lúc ta có thể nghe âm thanh tiếng nói họ, mà không thể nghe ra một lời nào. Ðây là dấu hiệu nhĩ thức đã ngưng hoạt động. Ta nhìn một vật trước mặt, mà chỉ có thể thấy hình dạng lờ mờ, không rõ chi tiết. Ðấy là dấu hiệu nhãn thức đã suy. Và việc cũng xảy ra tương tự đối với các khả năng ngửi, nếm, sờ. Khi các giác quan không còn được cảm nhận một cách trọn vẹn, đó là giai đoạn đầu tiên của tiến trình tan rã.

Bốn giai đoạn tan rã kế tiếp đi kèm với sự tan rã của bốn đại :

Ðịa đại :

Thân xác chúng ta khởi sự mất hết sức mạnh. Chúng ta kiệt quệ, không còn chút năng lực nào ; không thể đứng lên, ngồi thẳng, hay cầm bất cứ vật gì. Ta không còn giữ được cái đầu của ta. Ta cảm thấy như mình đang té xuống, đang nhận chìm xuống đất, hay đang bị một sức nặng ghê gớm nghiền nát. Kinh điển mô tả như là trái núi khổng lồ đang ép xuống người ta, và ta đang bị nó nghiền nát. Ta cảm thấy nặng nề, khó chịu trong bất cứ tư thế nào. Ta có thể yêu cầu đỡ ta lên, chồng gối cao lên, lấy hết mền trên người ra. Màu da của ta phai nhạt và một màu tái xanh xuất hiện. Má ta hóp lại, và những vết đen xuất hiện trên răng. Càng lúc ta càng thấy khó mở mắt nhắm mắt. Khi sắc uẩn phân tán, ta trở nên yếu đuối mong manh. Tâm ta giao động, nói nhảm, nhưng rồi lại chìm vào hôn trầm.

Ðấy là những dấu hiệu địa đại đang rút vào thủy đại. Ðiều này có nghĩa rằng gió liên hệ đến địa đại đang trở thành ít có khả năng cung cấp một nền tảng cho ý thức và khả năng của thủy đại bây giờ rõ rệt hơn. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” xuất hiện trong tâm lúc đó là thấy một hình ảnh chập chờn.

Thủy đại :

Chúng ta khởi sự mất khả năng kiểm soát chất lỏng trong thân. Mũi ta bắt đầu chảy nước, và miệng rỏ nước miếng. Có thể có nước mắt chảy ra, và ta cũng có thể mất hết sự tự chế. Ta không thể nào di động cái lưỡi. Mắt ta khởi sự cảm thấy khô cạn trong lỗ mắt. Môi ta thụt vào, không còn chút sắc máu ; miệng và cổ họng bế tắc. Những lỗ mủi ta lún vào, và ta cảm thấy rất khát nước. Ta run rẩy, co giật. Mùi tử khí bắt đầu phảng phất xung quanh. Khi thọ uẩn phân tán, thì những cảm giác của thân yếu dần ; khi khổ khi vui ; lúc nóng lúc lạnh. Tâm ta đâm ra mờ mịt, bất mãn, cáu tức, và nóng nảy. Một vài kinh điển nói chúng ta cảm thấy như mình bị dìm trong đại dương hay cuốn trôi trong dòng nước lớn.

Thủy đại đang tan rã vào hỏa đại, bây giờ hỏa đại thắng lướt và có khả năng nâng đỡ tâm thức. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là người sắp chết thấy một đám mờ như khói cuộn.

Hỏa đại :

Miệng và mũi chúng ta hoàn toàn khô cạn. Tất cả hơi ấm trong cơ thể bắt đầu mất dần, từ chân tay cho đến tim. Có thể có một luồng khói xuất từ đỉnh đầu. Hơi thở lạnh giá khi qua miệng và mũi. Ta không còn có thể uống hay tiêu hóa bất cứ thứ gì. Tưởng uẩn đang phân tán, và tâm ta lơ lửng giữa sáng suốt và mê mờ. Ta không thể nhớ được tên bà con, bè bạn, hay nhận ra họ là ai. Càng lúc ta càng khó nhận ra cái gì bên ngoài, vì âm thanh và cái thấy lẫn lộn.

Kalu Rinpoche viết : “Ðối với người sắp chết, kinh nghiệm bên trong là như thể bị nuốt chửng trong một ngọn lửa lớn, ở giữa một cái hỏa lò hừng hực, hay toàn thế giới đang bị thiêu đốt”.

Hỏa đại đang tan vào phong đại, nên bây giờ nó không có thể làm nền tảng cho tâm thức được nữa, mà khả năng của phong đại thì rõ rệt hơn. Bởi thế dấu hiệu bí mật là những đóm sáng chập chờn trên một ngọn lửa mở ra, như những con đom đóm.

Phong đại :

Càng lúc càng khó thở. Không khí dường như thoát ra ngõ yết hầu chúng ta. Chúng ta khởi sự thở hào hển. Nhưng hơi thở vào càng lúc càng ngắn và khó nhọc, hơi thở ra càng lúc càng dài. Mắt chúng ta trợn trừng lên, và chúng ta hoàn toàn bất động. Khi hành uẩn phân tán, tâm trở nên hoang dã, không biết gì về thế giới bên ngoài. Mọi sự trở nên một khối mờ mịt. Cảm giác liên lạc cuối cùng của chúng ta với hoàn cảnh vật lý đang tan mất. Chúng ta khởi sự có những ảo giác và thấy các cảnh tượng : Nếu trong đời ta đã tạo nhiều nghiệp ác, ta có thể trông thấy những hình thù ghê rợn. Những ám ảnh và những giây phút kinh hãi của đời ta bây giờ quay lại, và có khi chúng ta cố la lên vì kinh hoàng. Nếu chúng ta đã sống đời có lòng tử tế xót thương, thì chúng ta có thể kinh nghiệm những cảnh thiên đường đầy hỷ lạc, và “gặp” những bạn bè thân yêu, hoặc những bậc giác ngộ. Với những người đã sống đời lương thiện, thì khi chết có sự an bình thay vì hãi sợ. Kallu Rinpoche viết : “Kinh nghiệm nội tâm đối với người sắp chết là một ngọn cuồng phong quét sạch toàn thế giới, kể cả chính mình, một trận gió xoáy cuốn hút toàn vũ trụ”.

Ðiều đang xảy đến là phong đại đang tan vào tâm thức. Những ngọn gió đều tập hợp lại trong “gió nâng đỡ đời sống” nằm ở tim. Bởi thế, “dấu hiệu bí mật” là (người chết) thấy một ngọn đuốc hay đèn đỏ rực. Hơi thở vào càng nông cạn, hơi thở ra càng sâu. Ở thời điểm này, máu tụ lại đi vào trong “kinh mạch của sự sống” nằm chính giữa tim ta. Ba giọt máu lần lượt tụ lại, gây nên ba hơi thở ra cuối cùng. Rồi thình lình, hơi thở chúng ta chấm dứt. Chỉ một chút hơi ấm còn ở lại nơi tim ta. Mọi dấu hiệu của sự sống không còn, và đây là điểm mà sự xét nghiệm lâm sàng cho là “chết”. Nhưng những bậc thầy Tây Tạng nói đến một tiến trình bên trong vẫn còn tiếp diễn. Thời gian giữa sự ngưng thở và thời gian chấm dứt “hơi thở bên trong” được cho là “khoảng chừng bữa ăn”, tức khoảng 20 phút. Nhưng không có gì chắc chắn, và toàn thể tiến trình này có thể xảy ra rất nhanh.
 
 

Sự tan rã bên trong

Trong quá trình tan rã nội tâm, ở đấy những tâm trạng và cảm xúc từ thô đến tế tan rã, có bốn tầng lớp tâm thức vi tế được gặp gỡ. Ở dây tiến trình chết phản ảnh ngược lại với tiến trình đầu thai. Khi tinh huyết cha mẹ gặp gỡ, tâm thức ta do nghiệp thúc đẩy, bị kéo vào. Trong thời kỳ phát triển bào thai, tinh chất của cha, một hạt nhân “trắng và phúc lạc” an trú trong luân xa ở đỉnh đầu, trên cùng của huyệt đạo trung ương. Tinh chất của người mẹ, một hạt nhân “đỏ và nóng”, an trú trong luân xa được nói là năm dưới rốn chừng bốn ngón tay. Chính từ nơi hai tinh chất này mà những giai đoạn kế tiếp của sự tan rã xảy ra. Với sự biến mất của ngọn gió giữ nó lại đấy, tinh chất màu trắng đi xuống huyệt đạo về phía trái tim. Bên ngoài có tướng màu “trắng” hiện ra như “một bầu trời trong sáng dưới ánh trăng” . Bên trong, ý thức chúng ta trở nên vô cùng sáng suốt, và tất cả những tâm trạng do sân giận, gồm 33 thứ, đi đến chấm dứt. Giai đoạn này gọi là “Xuất hiện”. Rồi tinh chất của mẹ bắt đầu đi lên qua huyệt đạo trung ương, khi ngọn gió giữ nó nguyên chỗ đã biến mất. Tướng bên ngoài là một màu “đỏ” như mặt trời chiếu trên nền trời trong. Bên trong, có một cảm giác phúc lạc phát sinh, và những tâm trạng do tham dục, gồm 40 thứ tất cả, ngưng hoạt động. Giai đoạn này gọi là “Tăng trưởng” .

Khi hai tinh chất đỏ trắng gặp gỡ ở tim, tâm thức được kèm theo trong ấy. Tulku Urgyen Rinpoche, một bậc thầy lỗi lạc ở Nepal, nói : “Kinh nghiệm ấy giống như bầu trời và trái đất gặp nhau” . Bên ngoài, chúng ta thấy xuất hiện một màu “đen” giống như một bầu trời trống rỗng chìm trong màn đêm dày đặc. Tướng bên trong là một trạng thái tâm thức không có tư tưởng. Bảy trạng thái tâm do ngu sivọng tưởng đi đến chấm dứt. Ðiều này được gọi là “Thành tựu”. Khi chúng ta hơi tỉnh giác trở lại, Ánh sáng Căn bản lóe lên như một bầu trời vô nhiễm không mây mù. Ðôi khi đấy gọi là “tâm với ánh sáng trong của sự chết”. Ðức Dalai Lama nói : “Tâm thức này là tâm thức sâu xa nhất. Chúng ta gọi nó là Phật tính, suối nguồn thực sự của mọi thức. Dòng tương tục của tâm thức này kéo dài ngay cả đến khi thành Phật quả.
 
 

Cái chết của “các độc tố”

Thế thì cái gì xảy ra khi ta chết ? Nó giống như ta trở về trạng thái nguyên ủy của ta, mọi sự đều tan rã, khi thân và tâm đã được gỡ rối. Ba độc tham, sân, si cùng chết, có nghĩa là tất cả những cảm xúc tiêu cực, gốc rễ của sinh tử, thực sự chấm dứt, và khi ấy có một khoảng hở.

Và tiến trình ấy đưa chúng ta đi đâu ? Ði trở về nền tảng nguyên ủy của tự tánh tâm, trong tất cả vẻ đơn giản tự nhiênthuần khiết của nó. Bấy giờ mọi thứ che mờ nó đã bị dời bỏ, và bản lai diện mục của chúng ta hiển lộ.

Một trạng thái tương tự có thể xảy ra như đã giải thích ở chương 5 “Ðưa tâm về nhà”, khi chúng ta thực hành thiền quán và có những kinh nghiệm hỷ lạc, trong sáng, vô tưởng : điều này chứng tỏ tham, sân, si đã tạm thời tan rã.

Khi tham, sân, si chết, thì chúng ta càng trở nên thanh tịnh. Một vài bậc thầy giải thích rằng, đối với một hành giả Dzogchen thì những giai đoạn xuất hiện, tăng trưởngthành tựu là những dấu hiệu của của sự biểu hiện dần dần của Rigpa hay Tính giác (Tâm bản nhiên). Khi những gì che mờ bản tánh của tâm chết đi thì ánh sáng của Rigpa dần khởi sự xuất hiệntăng trưởng. Toàn thể tiến trình trở nên một tiến trình phát triển của trạng thái ánh sáng gắn liền với sự nhận chân của hành giả đối với ánh sáng ấy, sự sáng suốt của Tính giác hay tâm bản nhiên.

Trong Mật tông có một lối thực tập khác trong tiến trình tan rã. Trong pháp thực hành yoga về tinh khí thần, hành giả Mật tông chuẩn bị cho tiến trình chết bằng cách kích thích những thay đổi tâm thức trong quá trình tan rã, mà cao điểm là kinh nghiệm về ánh sáng hay “Ðiểm Linh Quang”. Hành giả cũng tìm cách duy trì sự tỉnh giác đối với những đổi thay ấy khi ngủ. Vì điều quan trọng cần nhớ là chuỗi trạng thái tâm thức tuần tự sâu dần này không những chỉ diễn ra khi chúng ta chết. Nó còn xảy đến mà ta thường không để ý, trong khi ta ngủ, hoặc khi ta du hành từ những tầng tâm thức thô đến tế, trong thiền định. Một vài bậc thầy lại chứng minh rằng nó còn xảy ra ngay trong tiến trình tâm lý của trạng thái tỉnh thức hàng ngày.

Sự kể chi tiết tiến trình tan rã có vẻ phức tạp, nhưng sẽ có lợi ích lớn nếu ta thực sự quen thuộc với nó. Ðối với những hành giả Mật tông, có một loạt những thực tập đặc biệt để làm vào mỗi giai đoạn của quá trình tan rã. Chẳng hạn, bạn có thể chuyển tiến trình chết thành một pháp tu Ðạo sư Du-già. Với mỗi giai đoạn của sự tan rã bên ngoài, bạn phát khởi tâm sùng kínhcầu nguyện với bậc thầy, quán hình ảnh thầy trong các trung tâm năng lượng (luân xa) khác nhau. Khi địa đại tan rã, hiện tượng ảo ảnh xuất hiện, bạn quán thấy trong tim bạn. Khi thủy đại phân tán và dấu hiệu khói xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở rốn. Khi hỏa đại phân tán và tướng đom đóm xuất hiện, bạn quán thấy nơi luân xa ở trán. Và khi phong đại phân tán, tướng ngọn đuốc xuất hiện, bạn tập trung hoàn toàn vào sự chuyển di tâm thức bạn vào tâm giác ngộ của thầy.

Về các giai đoạn chết, có nhiều mô tả hơi khác về chi tiết và thứ tự. Những gì tôi giải thích ở đây là theo mô tả thông thường, nhưng nó cũng có thể đổi khác tùy từng cá nhân. Tôi nhớ khi Samten, thị giả thầy tôi chết, chuỗi tiến trình rất rõ rệt. Nhưng những thay đổi có thể xảy ra do hậu quả chứng bệnh đặc biệt của người chết, và tình trạng các huyệt đạo, khí lực và tinh thần. Các bậc thầy nói rằng, tất cả chúng sanh, cho đến loài côn trùng nhỏ nhất cũng trải qua tiến trình này. Trong trường hợp chết bất ngờ hay chết vì tai nạn, tiến trình này cũng vẫn xảy ra, nhưng cực kỳ nhanh chóng.

Tôi đã thấy rằng cách dễ nhất để hiểu cái gì xảy ra trong tiến trình chết, với sự tan rã bên trong và bên ngoài của nó, là xem nó như một phát triển tuần tự và sự sinh khởi của những tầng lớp tâm thức càng lúc càng vi tế dần. Mỗi tầng lớp nổi lên trên sự tan rã liên tục của hợp thể thân tâm, khi tiến trình tuần tự di chuyển về hướng ở đấy có sự hiển lộ cái tâm vi tế hơn tất cả : Ánh sáng căn bản hay Ðiểm Linh Quang.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11387)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11552)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13543)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14124)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10309)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10772)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11326)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11279)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11439)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9968)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10707)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11318)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42212)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10487)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11864)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10009)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10454)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10620)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45763)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32112)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11325)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10705)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11321)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10632)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13459)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12374)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11022)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10617)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12310)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11169)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11844)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10542)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10238)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10583)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10804)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27390)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17787)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11873)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12288)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10443)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11698)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10427)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10786)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10151)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10648)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10769)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11223)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10402)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10689)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11473)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18254)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10522)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12846)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11751)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29188)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28591)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28301)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13318)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22776)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13434)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11578)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13817)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25722)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26081)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22311)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14481)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11804)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11489)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33187)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12033)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39627)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22487)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11957)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14229)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13347)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12072)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10399)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11230)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13309)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34523)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12622)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12227)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13532)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12621)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12981)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16298)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11747)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant