Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

21. Tiến trình phổ quát

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 12033)
21. Tiến trình phổ quát


Bốn mươi năm sau khi Trung Quốc chiếm cứ Tây Tạng, thế giới vẫn còn không biết gì về những chuyện xảy ra, không biết gì về tầm mức kinh hoàng, phá hoại, và sự diệt chủnghệ thống mà dân tộc Tây Tạng đã và đang chịu đựng. Trên một triệu người trong số 6 triệu dân Tây Tạng đã chết dưới bàn tay Trung Quốc ; những khu rừng rộng lớn của xứ Tây Tạng, cũng cần thiết như rừng Amazon đối với sinh thái quả địa cầu, đã bị đốn trụi, đời sống thiên nhiên hầu như đã bị tàn phá hoàn toàn, bình nguyên và sông ngòi đã bị ô nhiễm vì phế thải hạt nhân, đại đa số tu viện trong số sáu ngàn rưỡi ngôi tu viện đã bị phá hủy, dân tộc Tây Tạng đang đối diện họa diệt vong, và vẻ huy hoàng của nền văn hóa Tây Tạng trên đất mẹ hầu như hoàn toàn bị xóa sạch.

 Ngay từ đầu, lúc Trung Quốc chiếm đóng Tây Tạng vào thập niên 1950, nhiều sự tàn bạo dã man đã xảy ra. Những bậc thầy tâm linh, tăng ni, là những mục tiêu trước hết, vì Trung Cọng muốn trước tiên là làm cho dân mất tinh thần bằng cách xóa sạch mọi dấu vết đời sống tôn giáo. Nhiều, thật nhiều câu chuyện đã đến nơi tôi trải qua bao năm nay, về những cái chết phi thường, cảm động, trong những hoàn cảnh tệ hại nhất. Những cái chết này đã làm chứng cho vẻ sáng chói của sự thật mà người Trung Quốc lấy làm tức tối đã không phá nổi.

 Ở phần đất tỉnh Kham của Tây Tạng, nơi tôi xuất thân, có một vị khenpo (trú trì) già, đã trải nhiều năm nhập thất trong núi. Người Trung Quốc tuyên bố họ sắp “trừng phạt” ngài - mà ai cũng hiểu có nghĩa là tra tấn và giết chết - và gửi đến nơi ẩn cư một tiểu đội để bắt. Vị trú trì quá yếu, không thể đi bộ, nên người Trung Quốc tìm cho ngài một con ngựa già gầy để đi cuộc hành trình cuối của ngài. Họ trói ngài ngồi trên lưng ngựa và dắt ngựa đi xuống con đường để đến trại quân. Ngài khởi sự hát. Người Trung Quốc không hiểu được lời ca, nhưng những tu sĩ cùng bị bắt với ngài về sau đã kể ngài hát “bài ca chứng đạo”, những bài ca tuyệt đẹp tuôn phát tự nhiên từ những chiều sâu và niềm hỷ lạc của sự đắc đạo. Từ từ đoàn người đi theo con đường ngoằn ngoèo xuống núi, những người lính lầm lũi đi trong sự im lặng như đá, nhiều tu sĩ khóc, nhưng vị trú trì vẫn hát suốt quảng đường.

 Chẳng bao lâu trước khi đoàn người đến trại binh, ngài ngưng hát và nhắm mắt. Toán người lại tiếp tục đi trong im lặng. Khi đi qua cổng để vào trại, họ mới biết ngài đã viên tịch. Ngài đã lặng lẽ từ giã nhục thân.

 Ngài đã biết cái gì để làm cho ngài bình an đến thế, khi đối diện cái chết ? Cái gì đã đem lại cho ngài niềm vui và vô úy để ca hát vào những giây phút cuối cùng ? Có lẽ ngài đã hát một bài kiểu như những câu thơ từ “Tia sáng Vô nhiễm”, di bút của Longchenpa, bậc thầy Dzogchen vào thế kỷ 14 :

 Trong bầu trời đêm không mây, mảnh trăng đầy

 “Vua của các vì sao” sắp sửa lên…
 Gương mặt đấng từ bi của con, Liên Hoa Sanh
 Dẫn con đi, tỏa ra niềm đón chào đôn hậu
 Niềm hỷ lạc của tôi trước cái chết
 Còn vô vàn lớn hơn thương gia được của
 Hơn các vị vua trời khi thắng trận
 Hơn các bậc hiền nhân được hỷ lạc trong thiền
 Nhu du khách khởi hành khi đến thời
 Tôi sẽ không ở lại trong trần gian
 Mà sẽ an trú trong thành trì đại lạc bất tử
 Cuộc đời tôi đã xong, nghiệp tôi đã tận
 Những lợi ích do cầu nguyện đem lại cũng không còn
 Mọi việc thế gian đã chấm dứt, màn kịch cuộc đời đã buông
 Trong nháy mắt, tôi sẽ nhận ra tinh hoa của đời tôi
 Trong không gian thuần tịnh bao la của trung giới
 Bây giờ tôi sắp an vị trong nền tảng sự Toàn vẹn tối sơ
 Nội tài trong tôi đã làm cho tâm người hạnh phúc
 Tôi đã dùng ân phước đời này để thực hiện tất cả lợi lạc của giải thoát
 Hỡi các đệ tử cao quý, qua bao năm chung sống
 Niềm vui san sẻ chân lý đã làm thầy mãn nguyện
 Giờ đây nhân duyên với đời đang chấm dứt
 Thầy như kẻ ăn xin hài lòng với cái chết
 Đừng buồn cho thầy, mà hãy tiếp tục nguyện cầu
 Đây là những lời tâm huyết để giúp các con

 Như hoa sen nở, và các con trong niềm sùng tín như ong sà vào hút mật ngọt của niềm hỷ lạc siêu trần

 Nguyện nhờ công đức những lời này
 Khiến cho hữu tình các cõi sinh tử
 Đạt Niết-bàn trong nền tảng sự toàn vẹn tối sơ.

 Đây chắc hẳn là lời của một người đã thành tựu sự chứng ngộ cao nhất, cùng với những gì mà sự chứng ngộ ấy mang lại : niềm vui, giải thoáttrí tuệ - mục tiêu của giáo lý này và của đời người. Tôi nghĩ đến những bậc thầy như Longchenpa, và các bậc thầy tôi Jamjang Khientse, Dilgo Khientse, Dudjom Rinpoche, và tôi tưởng tượng những người đã tu chứng giống như những cánh đại bàng bay lượn vươn lên khỏi sinh tử, nhìn thấy sinh tử đúng như bản chất, nghĩa là trong một hỗ tương duyên sinh chằng chịt nhiệm mầu.

 Nhìn bằng con mắt của chim đại bàng, con mắt của thực chứng, là nhìn từ trên cao xuống một phong cảnh trong đó những ranh giới do ta tưởng tượng giữa sống và chết bây giờ hòa lẫn vào nhau và tan biến. Nhà vật lý David Bohm đã mô tả thực tại như là “sự toàn vẹn không gián đoạn trong dòng biến dịch”. Những gì được các bậc thầy thấy bằng trực giác toàn vẹn chính là dòng biến dịch ấy, cái toàn vẹn không gián đoạn ấy. Những gì mà trong vô minh chúng ta gọi là “sống”, và trong vô minh ta gọi là “chết”, chỉ là những phương diện khác nhau của cái toàn vẹn ấy. Đây là cái thấy rộng lớn có năng lực chuyển hóa, mà giáo lý Trung Ấm đã mở ra cho chúng ta, và được thể hiện bởi các bậc thầy tối thượng.

 Những mặc khải của các Trung Ấm

 Như vậy, nhìn sự chết qua con mắt thực chứng, chính là nhìn nó trong bối cảnh của sự toàn vẹn này, như một phần nhỏ của dòng biến dịch vô thủy vô chung. Tính độc nhất vô nhị, năng lực của giáo lý Trung Ấm nằm ở chỗ - qua sự chỉ rõ tiến trình cái chết - nó còn gợi cho ta cả tiến trình sự sống.

 Bây giờ ta hãy nhìn vào những gì xảy đến cho một người chết, vào từng mỗi giai đoạn trong 3 giai đoạn cao điểm của cái chết :

 1- Ở cao điểm của tiến trình chết, khi mà tứ đại, cảm giáctư tưởng đã chấm dứt hoạt động, thì bản chất tối hậu của tâm - Ánh sáng Căn bản - được hiển lộ trong giây lát.

 2- Rồi, chỉ một thoáng, tia sáng của bản tâm ấy được trình diễn, chiếu ra dưới dạng âm thanh, màu sắc và ánh sáng.

 3- Kế tiếp, tâm thức người chết tỉnh dậyđi vào Trung Ấm tái sinh ; tâm phàm tình của y trở về, khoác một hình dạng gọi là “thân ý sanh” chịu sự sai khiến của nghiệp và thói quen quá khứ. Những nghiệp này lèo lái tâm phàm tình, bám lấy những kinh nghiệm huyễn hóa trong cõi Trung Ấm, xem như cái gì rất thực và chắc chắn.

 Vậy, theo giáo lý Trung Ấm chỉ cho chúng ta, chết nghĩa là gì ? Không gì khác ngoài 3 giai đoạn của tiến trình tuần tự thể hiện của tâm thức : từ tự tính thuần tịnh của bản tâm, qua ánh sáng và năng lượng (tia tự chiếu của bản tâm), rồi đi vào sự kết tinh càng vững chắc thêm của một hình dạng tâm thức (thân ý sanh). Những gì mở ra một cách rõ rệt trong Trung Ấm chết, Trung Ấm pháp tánh, và Trung Ấm tái sanh là một tiến trình gồm 3 giai đoạn :

 - Đầu tiên, sự chấm dứt hoàn toàn hoạt động tâm vật lý đưa đến sự phô bày tinh chất tâm

 - Thứ hai, tia chiếu tự nhiên của nó.

 Và : 

 - Thứ ba là kết tinh của thân ý sanh.

 Giáo lý còn cho ta biết thêm rằng : 3 giai đoạn ấy không chỉ diễn ra trong tiến trình chết, mà còn diễn ra ngay trong tâm ta vào lúc này, vào mọi lúc - trong những tư tưởngcảm xúc của ta, và ở mọi tầng lớp kinh nghiệm tâm lý. Theo tôi, đấy là một tri kiến thực cách mạng, thay đổi cái thấy của ta về mọi sự, nếu ta hiểu được.

 Một cách khác nữa để hiểu tiến trình này là nhìn vào những gì được hiển bày vào mỗi giai đoạn của sự chết. Giáo lý nói đến 3 mức độ của hiện hữu, từ đó có ra Phạn ngữ kaya (thân). Kaya ở đây nghĩa là chiều hướng, phạm vi hay căn bản.

 Ta hãy nhìn vào tiến trình 3 giai đoạn đó :

 1- Bản chất tuyệt đối, hiển bày dưới dạng Ánh sáng Căn bản hay Điểm linh quang vào lúc chết, và được gọi là Pháp thân (Dharmakaya), chiều “chân không”, chân lýđiều kiện, trong đó ảo tưởng, vô minh hay bất cứ loại khái niệm nào, đều chưa từng xâm nhập được.

 2- Tia năng lực và ánh sáng nội tại được trưng bày một cách tự nhiên trong Bardo pháp tánh, gọi là Báo thân (Sambhogakaya), chiều phúc lạc toàn vẹn, phạm vi của “pháp hỷ sung mãn” vượt ngoài mọi giới hạn nhị nguyên, ngoài thời - không.

 3- Phạm vi ngưng đọng thành hình dáng được hiển thị trong Bardo tái sanh, gọi là Ứng thân (Nirmanakaya), chiều biến hóa không ngừng.

 Hãy nhớ bây giờ rằng khi ta nhìn vào bản chất của tâm, ta cũng thấy nó có 3 phương diện ấy : thể của nó là chân không, như bầu trời ; tướng hay bản chất của nó là tỏa sáng ; và dụng hay năng lực của nó là đại bi vô ngại ; cả 3 đều hiện diện đồng thời và hòa nhập làm một trong tính giác Rigpa. Đức Liên Hoa Sanh (Padmasambhava) mô tả nó như sau :

 Trong tính giác này, 3 thân không rời nhau và hiện diện viên mãn như một :

 - Vì Nó trống rỗng, vô sanh nên là Pháp thân.

 - Sự sáng suốt của Nó biểu trưng tia chiếu tự nội của chân không ấy, nên là Báo thân.

 - Nó khởi lên không bị chướng ngại, không gián đoạn, nên là Ứng hóa thân.

 Ba thân đầy đủ và hoàn toàn hiện diện này, chính là tinh chất của Nó.

 Như vậy, ba thân ám chỉ ba khía cạnh nội tại của tâm giác ngộ, và dĩ nhiên chúng cũng ám chỉ những khả năng khác nhau của nhận thức chúng ta. Phần đông chúng ta đều bị giới hạn trong cái thấy của mình, và chỉ nhận thức theo chiều Ứng hóa thân gồm những hình sắc và biểu hiện. Đấy là lý do tại sao đối với phần đông chúng ta, giây phút chết là một khoảng trống, một trạng thái quên lãng, vì chúng ta chưa bao giờ gặp, cũng chưa bao giờ phát triển một phương pháp để nhận ra thực tại Pháp thân, khi nó khởi lên dưới dạng Ánh sáng Căn bản hay Điểm linh quang. Chúng ta cũng không hy vọngnhận ra lĩnh vực Báo thân khi chúng xuất hiện trong Bardo pháp tánh. Bởi vì toàn thể cuộc đời ta đã được sống trong phạm vi nhận thức bất tịnh của những biểu hiện Ứng hóa thân, nên vào lúc chết ta được chuyển thẳng về lại trong chiều không gian ấy ; chúng ta thức dậy, kinh hãitán loạn, trong Trung Ấm tái sanh, trong một thân ý sanh, xem những kinh nghiệm huyễn hóa là chắc thực, cũng như trải nhiều đời trước ta đã xem chúng là thực. Bị thúc đẩy bởi nghiệp cũ một cách đáng thương, chúng ta loạng choạng tiến về phía tái sanh.

 Tuy nhiên, những vị tu chứng thì đã khởi lên một nhận thức hoàn toàn khác với chúng ta, một nhận thức trong suốt, tiến hóa, thanh tịnh đến nỗi dù họ vẫn còn mang một thân xác con người, họ đã thấy được thực tại dưới hình thức hoàn toàn thanh tịnh, trong suốt, ở trong một chiều không gian vô biên. Và đối với họ, như ta đã thấy, kinh nghiệm về cái chết không đem lại sợ hãi hay bất ngờ ; trái lại còn được tóm lấy như một cơ hội để giải thoát rốt ráo.

 Tiến trình trong giấc ngủ

 Ba giai đoạn của tiến trình mà chúng ta thấy mở ra trong các trạng thái Trung Ấm cũng có thể thấy được trong các mức độ tâm thức trong đời sống. Hãy xét chúng dưới sánh sáng những gì xảy đến trong giấc ngủ :

 1- Khi ta ngủ, các giác quan và tầng thô của tâm thức tan rã, và dần dần bản chất tuyệt đối của tâm, có thể nói là Ánh sáng Căn bản, lộ ra trong chốc lát.

 2- Kế tiếp có một chiều tâm thức, có thể so sánh với Bardo pháp tánh, vi tế đến nỗi ta thường hoàn toàn không ý thức ngay cả hiện hữu của nó. Có bao nhiêu người trong chúng ta khi ngủ, ý thức được cái lúc trước khi nằm mộng ?

 3- Đối với phần đông chúng ta, tất cả những gì ta biết được chỉ là giai đoạn kế tiếp, khi tâm trở nên hoạt động trở lại, và ta thấy mình trong một thế giới chiêm bao tương tự Trung Ấm tái sanh. Ở đây ta có một thân mộng và kinh quá những cảnh mộng mà phần lớn chịu ảnh hưởng thói quenhoạt động của ta lúc thức, tất cả ta đều tin là chắc thực, không hề nhận ra mình đang chiêm bao.
 

 Tiến trình trong tư tưởngcảm xúc

 Cũng chính tiến trình ấy có thể nhận thấy trong sự vận hành của tư tưởngcảm xúc, và cái cách chúng khởi lên :

 1- Ánh sáng Căn bản, bản chất tuyệt đối của tâm, là trạng thái tối sơ của Tính giác Rigpa, hiện hữu trước khi bất cứ ý nghĩ hay cảm xúc nào khởi lên.

 2- Trong không gianđiều kiện của nó, một năng lực căn để dấy động, tia chiếu tự nhiên của Tính giác bắt đầu khởi lên như nền tảng, khả năng và nhiên liệu cho cảm xúc sống sít.

 3- Năng lực này lúc ấy có thể khoác lấy hình dạng của ý nghĩcảm xúc, mà cuối cùng đẩy chúng ta vào hành động để tích lũy nghiệp.

 Chỉ khi hành thiền thật quen thộc, ta mới có thể thấy rõ tiến trình này :

 1- Khi ý tưởngcảm xúc tuần tự im bặt, tan vào tự tánh tâm, ta có thể thoáng thấy Tính giác trong phút chốc : đó là trạng thái tối sơ.

 2- Rồi ta để ý rằng, từ sự vắng lặng yên tĩnh của tự tánh tâm, mở ra một chuyển động (Chuyển tướng, nói trong kinh Lăng Già - DG) và một năng lực sống sít đơn thuần : đó là tia tự chiếu của tính giác.

 3- Nếu có một chấp thủ kèm theo sự sinh khởi của năng lực ấy, thì năng lực ấy đương nhiên kết tinh thành ý tưởng, ý tưởng này lại đưa chúng ta trở về hoạt động tâm thức và khái niệm.
 

 Tiến trình trong đời sống hàng ngày

 Ta đã thấy cái cách tiến trình này xảy ra trong ngủ và mộng, và trong sự hình thành ý tưởng cảm xúc. Bây giờ ta hãy nhìn nó xảy ra trong kinh nghiệm đời sống hàng ngày.

 Điều này dễ thấy nhất khi ta nhìn kỹ một động tác mừng hay giận. Hãy xem xét nó, bạn sẽ thấy luôn luôn có một khe hở trước khi một cảm xúc khởi sinh. Cái giây phút dạt dào trước khi năng lực của cảm xúc có cơ hội khởi lên, là một giây phút của tỉnh thức thuần túy, trong đó ta có thể thoáng thấy Tính giác chân thực. Trong một thoáng chốc, bùa lực của vô minh bị đánh tan, chúng ta hoàn toàn tự do thoát khỏi nhu cầu hay khả năng chấp thủ, và cả đến khái niệm “bám víu” cũng trởi thành dư thừa ở đây. Tuy nhiên, thay vì ôm lấy “tánh không” của khe hở ấy, trong đó ta có thể tìm thấy phúc lạc của sự giải thoát, không vướng bận một ý tưởng, khái niệm nào, chúng ta lại tóm lấy sự bảo đảm khả nghi của cái màn kịch cảm xúc quen thuộc dễ chịu của chúng ta, được điều khiển bởi những khuynh hướng tập quán của ta. Đấy là cái cách mà một năng lực nội tại - vô điều kiện, khởi lên từ tự tánh - đã được kết tinh thành một cảm xúc, cái cách mà sự thanh tịnh nguyên thủy bỗng bị nhuốm màu và vặn vẹo bởi cái thấy theo kiểu luân hồi sinh tử của chúng ta, để đem lại một nguồn tương tục cho những vọng tưởng tán loạn hàng ngày.

 Khi xét mọi khía cạnh của đời sống, ta sẽ thấy rằng chúng ta liên tục trải qua - trong ngủ và mộng, trong ý tưởngcảm xúc - cũng một tiến trình ấy như trong các cõi Trung Ấm. Và giáo lý Trung Ấm cho ta thấy chính điều này mang lại cho ta vô vàn cơ hội để giải thoát, bây giờ cũng như khi chết. Giáo lý chỉ cho ta thấy chính tính chất, hình dạng và sự độc đáo của tiến trình này đã đem lại hoặc cơ hội giải thoát, hoặc khả năng tiếp tục mê lầm. Vì mỗi khía cạnh của toàn thể tiến trình đều đồng thời trao cho ta cơ hội giải thoát, hoặc cơ hội trầm luân.

 Giáo lý Trung Ấm mở ra cho ta một cánh cửa, chỉ cho chúng ta làm thế nào ta có thể bước ra khỏi chu kỳ chết và tái sinh bất tận ngoài tầm kiểm soát. Giáo lý ấy nói với ta rằng, suốt quá trình các Trung Ấm của cuộc đời và của sự chết, mỗi khi ta có thể nhận raduy trì một ý thức bền bỉ về Tính giác Rigpa hay tự tánh tâm, hoặc khi ta có thể kiểm soát tâm ý được phần nào, thì ta có thể đi qua cái cửa đó để tiến đến giải thoát. Tùy theo giai đoạn của Trung Ấm, tùy theo mức độ quen thuộc của bạn đối với cái Thấy về tự tánh tâm, và tùy theo chiều sâu của sự hiểu biết về tâm, ý nghĩcảm xúc bạn, mà sự nhận ra này sẽ sai khác.

 Điều mà giáo lý Trung Ấm cũng dạy cho ta là những gì xảy ra trong tâm ta bây giờ trong đời cũng giống hệt như cái gì sẽ xảy đến trong các Trung Ấm sau khi chết vì cốt tủy vốn không có khác nhau ; sống và chết là một, ở trong cái “toàn thể không gián đoạn” và “dòng biến dịch”. Chính vì vậy mà một bậc thầy Tây Tạng vào thể kỷ 17, Tsele Natsok Rangdrol giải thích những tu tập căn để cho mỗi giai đoạn Trung Ấm - đời này, chết, pháp tánhtái sanh - theo kiểu tình trạng hiểu biết hiện tại của ta về bản chất của ý nghĩcảm xúc, về tâm và nhận thức của nó :

 Hãy nhận chân hết thảy tướng xuất hiện đều như mộng
 Chỉ do tâm ngươi chiếu ra, như huyễn, không thật
 Không bám víu gì, an trú Tính giác vượt ngoài mọi khái niệm
 Đây là tinh yếu của tu tập trong Bardo đời này
 Ngươi rồi sẽ chết, không gì thực sự hữu ích lúc đó
 Những gì ngươi kinh quá lúc chết chỉ do tâm thức biến ra.
 Không tạo ý tưởng, để chúng tan biến trong Tính giác bao la
 Đây là trọng tâm của tu tập trong Bardo cái chết.
 Bất cứ chấp thủ gì vào sinh hay diệt, thiện hay ác, đều là tâm ngươi
 Và tâm này là tia tự chiếu của Pháp thân, dù bất cứ gì sinh khởi

 Không bám vào các sinh khởi ấy, hay lập khái niệm về chúng, chấp nhận hoặc chối bỏ :

 Đây là cốt tủy sự tu tập cho Bardo pháp tánh
 Sinh tử cũng tâm ngươi, niết-bàn cũng tâm ngươi
 Mọi lạc khổ, vọng tưởng không ở đâu ngoài tâm
 Vậy hãy đạt đến sự tự chế tâm ngươi
 Đây là trọng tâm của Bardo tái sinh.

 Bây giờ ta có thể nhìn vào một Bardo đặc biệt để thấy sự tu tập thiền định của ta, sự hiểu thấu cảm xúc ý tưởng ta, và những kinh nghiệm của ta trong Bardo ấy tương quan mật thiết với nhau như thế nào, và thế nào những kinh nghiệm của ta trong Bardo ấy phản chiếu trở lại trong cuộc đời thường của ta. Có lẽ Bardo hữu ích nhất để khảo sát là Bardo pháp tánh, nơi mà năng lực thuần túy - sẽ trở thành cảm xúc - bắt đầu sanh khởi tự nhiên như tia tự chiếu của Tính giác Rigpa ; và cảm xúc là mối bận tâm ám ảnh con người trong thế giới hiện tại. Thực sự hiểu được bản chất cảm xúc là đã tiến rất xa trên đường đến giải thoát.

 Mục đích sâu xa nhất của thiền là có thể an trú không tán loạn vào trạng thái Rigpa, tự tính giác, và an trú cái Thấy (kiến) để nhận ra rằng bất cứ gì khởi lên trong tâm chỉ là sự hiển bày của tính giác ấy, cũng như mặt trời và muôn ngàn tia sáng nó chiếu ra chỉ là một, bất khả phân. Như Tsele Natsok Rangdrol nói trong câu thơ của ông về pháp tánh : “Bất cứ cái gì chấp thủ vào sinh hay diệt, tốt hay xấu, đều là tâm ngươi. Và chính cái tâm ấy là tia chiếu của Pháp thân…”

 Như vậy, khi bạn ở trong tự tánh giác, và khi cảm xúc tư tưởng khởi lên, bạn nhận ra ngay chúng là gì, từ đâu chúng tuôn phát : khi ấy bất cứ gì khởi lên đều trở thành tia tự chiếu của tuệ giác ấy. Nhưng nếu bạn mất dấu sự hiện diện của ý thức trong suốt thuần tịnh ấy về Tính giác, thì bạn không nhận ra được bất cứ gì khởi lên, và khi ấy nó trở nên tách biệt với bạn. Nó tiếp tục để hình thành cái mà ta gọi là một “ý tưởng”, hay một cảm xúc, và đấy là sự tạo tác của nhị nguyên. Để tránh điều này và những hậu quả của nó, Tsele Natsok Rangdrol nói : “Đừng bám vào những sự sanh khởi, lập thành khái niệm về chúng, chấp nhận hoặc chối bỏ chúng : đây là trọng tâm của tu tập cho Trung Ấm cuộc đời” .

 Sự phân cách giữa bạn và những sanh khởi trong tâm bạn, - và tính nhị nguyên mà nó gây ra - được phóng đại một cách ghê gớm sau khi chết. Điều này giải thích làm thế nào - nếu bạn không có sự trực nhận cốt yếu này về thực chất những gì sinh khởi trong tâm - trong Bardo pháp tánh, những âm thanh, ánh sáng và quang sắc xuất hiện có thể khoác một thực tại khách quan, như thể là thực có những hiện tượng ngoại giới kinh hoàng đang xảy đến với bạn. Trong một tình huống như vậy, bạn chỉ còn nước là chạy trốn tia sáng chói lọi của chư thần an lạcphẫn nộ ấy, để hướng đến những ánh sáng mờ quen thuộc quyến rũ của lục đạo. Vậy, sự trực nhận cốt yếu trong Bardo pháp tánh là, “đây là năng lực trí giác của tâm ta đang xuất hiện” : Chư Phật và ánh sáng trí tuệ cũng không ngoài tâm bạn, mà chính là năng lực tính giác của bạn. Nhận ra điều ấy là một kinh nghiệm bất nhị, và thể nhập vào đó là giải thoát.

 Những gì xảy ra trong Bardo pháp tánh vào lúc chết, và bất cứ khi nào một cảm xúc bắt đầu sanh khởi trong tâm ta lúc sống, đều đi theo cùng một tiến trình tự nhiên ấy. Vấn đềchúng tanhận ra được thực chất sự sinh khởi ấy hay không. Nếu ta có thể nhận ra sự sinh khởi một cảm xúc đúng như thực chất của nó - nghĩa là năng lực tự nhiên của bản tâm - thì ta có thể tự giải thoát khỏi những hậu quả tiêu cực, những nguy hiểm có thể có của cảm xúc ấy, và để cho nó tan trở lại vào trong tính sáng suốt thuần tịnh của Tính giác vô biên.

 Sự nhận ra này, và sự giải thoát mà nó đem lại, chỉ có thể là kết quả của nhiều, rất nhiều năm tu tập thiền quán nghiêm chỉnh nhất, vì nó đòi hỏi một sự quen thuộc lâu dàian trú vững chãi trong tự tánh tâm. Ngoài sự tu tập ấy ra, không gì có thể đem lại cho ta niềm an tịnhgiải thoát khỏi những khuynh hướng tập quán, những cảm xúc mâu thuẫn trong ta, một sự giải thoát mà tất cả chúng ta đều khát khao có được. Mặc dù theo giáo lý, sự giải thoát ấy rất khó, nhưng sự biết rằng có thể giải thoát, cũng đủ là một nguồn cảm hứnghy vọng lớn lao cho chúng ta. Có một cách để hiểu ý tưởng và cảm xúc, tâm và bản chất nó, sống và chết, một cách trọn vẹn, cách đó là đạt đến thực chứng. Các bậc đã giác ngộ nhìn sống chết như nhìn vào lòng bàn tay, vì họ biết như Tsele Natsok Rangdrol viết : “Sinh tử là tâm ngươi, niết bàn cũng là tâm ngươi ; tất cả lạc và khổ, tất cả vọng tưởng không hiện hữu tách biệt với tâm ngươi” . Và tri kiến sáng suốt này, được an trú vững vàng qua tu luyện dài lâu, được thể nhập trong từng cử động, ý nghĩcảm xúc - để thấy được chúng chỉ có thực một cách tương đối, chính tri kiến ấy đã giải tỏa được chúng. Dudjom Rinpoche nói : “Khi đã tịnh hóa ảo tưởng lớn, bóng tối của tâm, thì ánh sáng rực rỡ của mặt trời không bị ngăn che khởi lên liên tục”.

 Năng lực hỷ lạc

 Tôi thường nghĩ đến câu Dudjom Rinpoche viết : “Bản tính của tâm là bản tính của mọi sự”. Tôi tự hỏi cái tiến trình ba giai đoạn của các Trung Ấm (Bardo) có phải chăng không những đúng cho mọi mức độ tâm lý, mọi kinh nghiệm của tâm ở trong đời cũng như lúc chết, mà có lẽ còn là bản chất thực sự của chính vũ trụ.

 Càng tư duy về ba thân và tiến trình ba giai đoạn của các Trung Ấm, tôi càng tìm thấy những tương ứng lạ lùng phong phú với tri kiến sâu xa của các truyền thống tâm linh khác, và với nhiều lĩnh vực có vẻ rất khác nhau của nỗ lực con người. Tôi nghĩ tới tri kiến Ki-tô giáo về bản chất và mọi hoạt động của Thượng đế như Chúa ba ngôi, về Ki-tô hiện thân từ nền tảng của đức chúa Cha qua trung gian vi mật của Thánh thần. Phải chăng ít nhất nó cũng soi sáng cho ta vài điều, nếu ta xem Ki-tô cũng tương tự như Ứng hóa thân, đấng Thánh linh cũng như Báo thân, và nền tảng của cả hai như là Pháp thân ? Trong Phật giáo Tây Tạng, danh từ tulku, nhập thể, thực sự có nghĩa là Ứng hóa thân, sự nhập thể liên tục tái xuất hiện, hoạt động của năng lực đại bigiác ngộ. Phải chăng cách hiểu này rất giống quan niệm ba thân của Ki-tô giáo ?

 Tôi cũng nghĩ về tri kiến Thượng đế gồm ba đức của Ấn giáo, Phạn ngữ là satcitananda, dịch là “hiện thể, tâm và phúc lạc”. Với người Ấn giáo, Thượng đế là sự bùng vỡ xuất thần của tất cả những năng lực ấy cùng một lúc. Ở đây ta có thể thấy những tương đồng kỳ lạ với ba thân : Báo thân như ananda - năng lực phúc lạc của Thượng đế ; Ứng hóa thân như biểu hiện của Thượng đế ; và Pháp thân như tâm của Thượng đế. Bất cứ ai đã thấy pho tượng Shiva lớn trong động Voi ở Ấn, với ba mặt biểu trưng ba mặt của tuyệt đối, sẽ có được vài ý niệm về tính vĩ đại của tri kiến về thiêng liêng.

 Cả hai tri kiến huyền học này về tinh túy, bản chấthoạt động (thể, tướng, dụng) của yếu tố thiêng liêng làm cho người Phật tử hiểu rõ một trong những tầng mức khác của thực tại, tuy khác nhau mà tương nhập vào nhau. Có phải ít nhất, điều đáng chú ý là một tiến trình gồm ba khía cạnh ấy cũng được thấy ở cốt lõi của mỗi truyền thống, mặc dù họ có nhìn thực tại theo quan điểm riêng của họ ?

 Khi nghĩ về bản chất của sự biểu hiện có thể như thế nào, và những cách thế khác nhau nhưng có liên quan nhau để hiểu những biểu hiện ấy, tôi tự nhiên nghĩ tới tính sáng tạo của con người khi biểu hiện ra hình thể cái thế giới nội tâm của nhân loại. Tôi vẫn thường tự hỏi hàng bao năm nay, làm thế nào sự trình bày ba thânTrung Ấm có thể rọi ánh sáng vào toàn thể tiến trình diễn đạt nghệ thuật, và ám chỉ đến bản chất thực và mục tiêu ẩn khuất của nó. Mỗi hành vi cá nhân, mỗi biểu hiện của óc sáng tạo, dù trong địa hạt âm nhạc, nghệ thuật, thi ca, hay trong những giai đoạn của phát minh khoa học, như nhiều nhà khoa học đã nói, đều tuôn phát từ một nền tảng huyền bí của một nguồn cảm hứng ốp vào hình dạng nhờ một năng lực trung gian để phiên dịch, truyền thông. Có phải chúng ta đang gặp ở đây một tác động khác của cái tiến trình hỗ tương ba thứ mà ta đã thấy hoạt động trong các cõi Trung Ấm ? Phải chăng đấy là lý do khiến cho một vài công trình âm nhạcthi ca, và một vài phát minh khoa học, dường như có một ý nghĩa hầu như vô tận ? Và có phải điều này giải thích cái năng lực của chúng để hướng dẫn chúng ta đi vào một trạng thái quán tưởngphúc lạc, ở đấy một bí ẩn cốt yếu của bản chất ta và bản chất thực tại được hiển lộ ? Từ đâu những dòng thơ của Blake đến ? :

 Nhìn thấy vũ trụ trong một hạt cát
 Thấy thiên đường trong một đóa hoa
 Nắm Vô biên trong lòng bàn tay
 Và vĩnh cửu rút lại trong một giờ.

 Trong Phật giáo Tây Tạng, Ứng hóa thân được thấy như biểu hiện của giác ngộ, trong vô số hình dạng và cách thức, ở trong thế giới vật lý. Theo truyền thống, nó được định nghĩa theo ba cách : Một là Ứng thân của một vị Phật toàn giác, như Thích Ca Tất Đạt Đa, người được sinh ra trong thế giới này và giảng dạy trong đó. Loại Ứng thân thứ hai là một người có vẻ bình thường nhưng được cái phước có khả năng đặc biệt làm lợi lạc cho kẻ khác : một hóa thân hay tulku. Và thứ ba là một người qua đó một mức giác ngộ được thể hiện để làm lợi lạccảm hứng cho người khác qua những nghệ thuật khoa học công việc khác nhau. Trường hợp những người sau này bản năng giác ngộ “tự nhiên như ánh sáng mặt trời phải ra lệnh hay có ý thực nào về việc ấy, có mặt trời thì tự nhiên có ánh sáng” . Kalu Rinpoche nói. Vậy phải chăng ta có thể nói rằng, năng lựcbản chất của thiên tài nghệ thuật cũng có nguồn cảm hứng tối hậu của nó từ trọng tâm này của chân lý ?”.

 Điều này không có nghĩa là những nghệ sĩ vĩ đại có thể nói là đã giác ngộ, từ cuộc sống của họ rõ ràng là họ chưa giác ngộ. Nhưng một điều cũng rõ nữa là trong vài giai đoạn cao điểm và tình huống đặc biệt, họ có thể là những khí cụ, những “kênh” của năng lực giác ngộ. Ai khi đã lắng nghe những tuyệt tác của Beethoven hay Mozart, có thể chối cãi rằng không có một cõi nào khác đã thể hiện trong tác phẩm họ ? Và có ai ngắm nhìn những ngôi giáo đường của Âu châu thời Trung cổ như Chartres hay Isfahan của Hồi giáo, hay Đế thiên Đế thích, hay Ellora của Ấn giáo, mà không thấy rằng những nghệ sĩ tạo ra chúng đã được cảm hứng trực tiếp bởi một năng lực tuôn phát từ nền tảng, suối nguồn của mọi sự ?

 Tôi nghĩ một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại cũng như một vầng trăng chiếu trong bầu trời đêm, nó chiếu sáng thế gian, nhưng ánh sáng ấy không là của riêng nó, mà mượn từ mặt trời, cái “tuyệt đối” đang bị ẩn khuất. Nghệ thuật đã giúp cho nhiều người thoáng nhìn thấy bản chất của tâm linh. Phải chăng một trong những lý do nghệ thuật tân tiến bị hạn cuộc là vì nó đã mất đi cái tri kiến về nguồn gốc vô hình thiêng liêng của nghệ thuật, và mục đích cao cả của nó : đem lại cho người thưởng thức một tri kiến về bản chất thực của họ, địa vị của họ trong vũ trụ, làm cho họ thấy được giá trị, ý nghĩa và những khả tính vô biên của đời sống. Vậy phải chăng ý nghĩa đích thực của kiệt tác nghệ thuật là nó cũng tương tự như Báo thân, cái năng lực bất tận đầy phúc lạc mà Rilke gọi là “năng lực chắp cánh của niềm vui”, tia sáng truyền đạt, truyền thông tính thuần tịnh, ý nghĩa vô biên của cái tuyệt đối cho thế giới hữu hạn và tương đối, - nói cách khác là từ Pháp thân đến Ứng hóa thân ?
 

 Mở ra cái thấy toàn diện

 Một trong nhiều phương diện mà tấm gương của đức Dalai Lama đã gây cho tôi nguồn cảm hứng là, ngài rất quan tâm và có thái độ phóng khoáng đối với các khám phá mới của khoa học tân tiến. Chung quy, Phật giáo được xem là “một khoa học về tâm thức”, và khi tôi quán xét giáo lý Trung Ấm, thì tính minh bạch và sự soi sáng rộng lớn của giáo lý này càng ngày càng gây cho tôi niềm tri ân và úy phục. Nếu Phật giáo là khoa học về tâm linh thì theo tôi, Dzogchen và giáo lý Bardo chính là trọng tâm của nền khoa học ấy, hạt giống thực tiễn và thấu thị nhất, từ đó một cây lớn - những thực chứng tương quan lẫn nhau - đã phát triển và sẽ tiếp tục phát triển theo nhiều cách mà nay ta chưa thể tưởng tượng nổi, vì nhân loại hãy còn đang trên đà tiến hóa.

 Trải nhiềug năm gặp gỡ với những khoa học gia đủ mọi ngành, càng ngày tôi càng kinh ngạc trước tính phong phú của những tương đồng giữa lời dạy của đức Phật với những khám phá mới của vật lý học hiện nay. Nhiều nhà tiên phong về triết học và khoa học Tây phương may thay cũng đã ý thức đến sự tương đồng ấy, và đang hăng say thám hiểm với một ý thức tế nhị ; để từ cuộc đối thoại giữa huyền học - khoa học về tâm thức - với các ngành khoa học vật chất, có thể phát khởi một tri kiến mới về vũ trụtrách nhiệm con người trước vũ trụ. Càng lúc tôi càng có niềm xác tín rằng chính giáoTrung Ấm với tiến trình mở ra ba giai đoạn ấy, sẽ là một đóng góp độc đáo cho cuộc đối thoại này. Tôi muốn chú ý đến một trong những tri kiến khoa học đã đặc biệt khiến tôi nghiền ngẫm, là tri kiến của nhà vật lý David Bohm đã nghĩ đến một phưong thức mới để tiếp cận thực tại mà, mặc dù còn đang gây nhiều tranh chấp, đã được phản ứng đầy thiện cảm của nhiều nhà nghiên cứu thuộc đủ mọi ngành : vật lý, y học, sinh vật học, toán học, thần kinh học, tâm bệnh học, và một số nghệ sĩ, triết gia. David Bohm đã nghĩ đến một cách nghiên cứu thực tại mới, căn cứ trên một sự thấu hiểu toàn diện và tính nhất thể của hiện hữu kể như một Toàn thể không gián đoạn, không chấp nối - và đây chính là lối nhìn của giáo lý Trung Ấm.

 Cái trật tự năng động, nhiều chiều mà Bohm thấy đang vận hành trong vũ trụ, cốt yếu gồm ba phương diện. Phương diện rõ rệt nhất là thế giới vật thể thời - không của chúng ta với không gian ba chiều, mà ông gọi là cái trật tự rõ rệt hay mở. Từ đâu mà ông tin cái trật tự này mở ra ? Chính từ một lĩnh vực phổ quát, không gián đoạn, “một nền tảng ngoài thời gian”, cái trật tự hàm ẩn hay kín, như ông gọi, vốn là nền tảng bao quát tất cả kinh nghiệm chúng ta. Ông thấy tương quan giữa hai trật tự này như là một tiến trình liên tục, trong đó cái gì mở ra trong trật tự rõ rệt lại được khép vào lại trong trật tự hàm ẩn. Cái nguồn gốc tổ chức nên tiến trình này thành ra những cơ cấu khác nhau thiên hình vạn trạng, thì ông đề nghị đặt tên là cái trật tự “siêu ẩn”, một chiều không gian tinh vi hơn nhiều, và có tiềm năng vô hạn.

 Có thể chăng có một tương đồng giữa ba trật tự này với ba thân và tiến trình Trung Ấm ? Như David Bohm nói : “Toàn thể khái niệm về trật tự hàm ẩn là một cách thể để bàn về nguồn gốc của hình sắc xuất phát từ vô sắc, qua trung gian tiến trình mở ra”. (Renée Weber, ed. Đối thoại giữa các khoa học gia và hiền giả : Đi tìm Nhất thể, London, 1986)

 Tôi cũng được cảm hứng từ việc David Bohm đã khai triển lối hiểu vật chất - theo đó, vật chất khởi lên từ vật lý học lượng tử - để hiểu chính tâm thức. Đó là một bước nhảy mà theo tôi sẽ được xem càng ngày càng cần thiết, khi khoa học mở rộng tầm nhìn, và tiến hóa. Bohm nói : “Tâm thức có thể có một cơ cấu giống như vũ trụ, và trong sự vận chuyển ở nền tảng, mà ta gọi là chân không ấy kỳ thực có một năng lực ghê gớm, một sự biến dịch. Những hình ảnh đặc biệt xuất hiện trong tâm có thể giống như những phân tử, và sự đạt đến nền tảng của tâm có thể được cảm thấy như là ánh sáng” . (Sđd, 48)

 Cùng với khái niệm về trật tự hàm ẩn và trật tự rõ rệt ấy, David Bohm đã tưởng tượng ra một lối nhìn mối tương quan giữa tâm lý vật lý, giữa tâm và vật chất, gọi là ý nghĩa tâm-vật-lý. Ông viết : “Quan niệm về ý nghĩa tâm vật lý có nghĩa rằng vật lýý nghĩa của nó, tức tâm lý, không phải là hai thực thể biệt lập, đúng hơn đó là hai phương diện của một thực tại duy nhất bao trùm cả hai”. (Sđd, 73)

 David Bohm cho rằng vũ trụ biểu hiện ba phương diện liên kết với nhau : vật chất, năng lượngý nghĩa.

 Từ quan điểm trật tự hàm ẩn, thì năng lượngvật chất thấm nhuần một loại ý nghĩa nào đó, đem lại hình dạng cho hoạt động bao quát của nó và cho vật chất sinh khởi trong hoạt động ấy. Năng lực của tâm và của vật chất trong não bộ cũng thấm nhuần một loại ý nghĩa đem lại hình dạng cho hoạt động bao quát của nó. Như vậy, một điều khá thông thường là năng lượng bao gồm vật chấtý nghĩa, trong khi vật chất thì bao gồm năng lượng và ý nghĩa… Nhưng ý nghĩa cũng bao gồm vật chất và năng lượng… Vậy, mỗi một khái niệm trong ba khái niệm căn bản ấy bao hàm hai cái kia. (Bohm, Unfolding Meaning, 90)

 Giản dị hóa một tri kiến vô cùng tinh vi, tế nhị, bạn có thể bảo rằng đối với David Bohm “ý nghĩa” có tầm quan trọng đặc biệt rộng rãi. Ông nói : “Điều này bao hàm - trái với quan điểm thông thường - rằng ý nghĩa là một phần cốt yếu nội tại trong hoạt động tổng quát của chúng ta, chứ không phải chỉ là một tính chất thuần túy trừu tượng chỉ hiện hữu trong tâm mà thôi. Hay nói cách khác, trong đời người, thông thường, ý nghĩa là sống…” . Chính trong hành vi giải thích vũ trụ, ta đang sáng tạo vũ trụ : Có thể nói rằng chúng ta là tổng thể của những ý nghĩa chúng ta”. (Bohm, 93)

 Phải chăng sẽ có ích nếu ta khởi sự tưởng đến những tương đồng giữa ba phương diện của vũ trụ mà Bohm nói, với ba thân ? Một khai thác sâu hơn ý của Bohm có lẽ sẽ cho thấy rằng ý nghĩa, năng lượngvật chất có tương quan lẫn nhau như ba thân. Phải chăng điều này có thể gợi ý rằng vai trò của ý nghĩa, như Bohm giải thích, có phần nào tương tự với Pháp thân, cái tổng thể vô điều kiện, luôn luôn sáng tạo, từ đó mọi sự sinh khởi ? Công việc của năng lượng, qua đó ý nghĩavật chất tác động lẫn nhau, có phần nào giống với Báo thân. Sự tuôn phát tự nhiên, liên tục của năng lượng từ cái nền tảng chân không, và sự tạo ra vật chất, theo tri kiến của Bohm, có phần giống như Ứng hóa thân, sự kết tinh liên tục của năng lượng ấy thành ra hình dạng và biểu hiện.

 Khi nghĩ về David Bohm và cách giải thích đặc biệt của ông về thực tại, tôi có khuynh hướng tự hỏi, một nhà vật lý học vĩ đại sẽ khám phá được những gì, nếu đồng thời họ cũng là một hành giả đã được một bậc đại sư hướng dẫn và thực sự tu chứng ? Cái gì một nhà khoa học và một hiền nhân, như Longchenpa và Einstein hợp chung lại, sẽ nói với ta về bản chất thực tại nhỉ ? Có thể một trong những hoa trái tương lai của cây giáo lý Trung Ấm này sẽ là một cuộc đối thoại giữa khoa học và huyền học chăng ? Và điều ấy sẽ có ý nghĩa gì cho nhân loại ?

 Sự tương đồng sâu xa nhất giữa ý tưởng của David Bohm và giáo lý Trung Ấm là cả hai đều tuôn phát từ một tri kiến về một nhất thể toàn vẹn. Tri kiến này, nếu nó có thể thêm sức cho cá nhân để chuyển hóa tâm thức họ, và nhờ vậy ảnh hưởng đến xã hội, thì sẽ phục hồi cho thế giới chúng ta một ý thức cấp thiết về tương quan sinh tồný nghĩa đời sống.

 Điều tôi đề nghị ở đây là đường lối con người suy nghĩ về cái toàn thể, hay thế giới quan của họ, là điều quan yếu nhất cho trật tự của chính nhân tâm. Nếu con người nghĩ về cái toàn thể như là sự ráp nối những mảnh vụn biệt lập, thì tâm thức họ cũng có khuynh hướng vận hành theo kiểu ấy. Nhưng nếu họ có thể bao gồm mọi sự liên kết hòa hợp nhau trong một toàn thể bất khả phân, không gián đoạn, không biên giới (vì mỗi biên giới là một phân chia, một gián đoạn) thì khi ấy tâm họ sẽ có khuynh hướng di chuyển theo cách ấy, và từ đó sẽ có một hành động có trật tự nằm trong cái toàn thể. (David Bohm, Tòan vẹn và trật tự hàm ẩn, 1988, xi.)

 Tất cả các bậc thầy vĩ đại sẽ hoàn toàn đồng ý với Bohm khi ông viết :

 Một sự thay đổi ý nghĩa là cần thiết để thay đổi thế giới này về chính trị, kinh tế và xã hội. Nhưng sự thay đổi này phải khởi sự với từng cá nhân, nó phải thay đổi cho cá nhân… Nếu ý nghĩa là một phần then chốt của thực tại thì một thay đổi căn để đã xảy ra khi xã hội, cá nhân và những tương quan được thấy là có ý nghĩa gì khác. (Unfolding Meaning, 107)

 Cuối cùng tri kiến của giáo lý Trung Ấm và sự thấu hiểu sâu xa về nghệ thuật và khoa học đều hội tụ ở một sự kiện : đó là trách nhiệm chúng ta đối với chính mình và cho chính mình ; và sự cần thiết phải xử dụng trách nhiệm ấy một cách cấp bách để tự chuyển hóa chúng ta, ý nghĩa cuộc đời ta và thế giới xung quanh ta.

 Như đức Phật dạy : “Ta chỉ cho ngươi con đường giải thoát, nhưng chính ngươi phải bước đi”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10129)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10399)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9674)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23593)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11832)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10726)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10065)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28673)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21603)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29395)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11381)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12361)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26311)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31010)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25315)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22788)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13041)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21921)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12221)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14128)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12428)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11236)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10687)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38047)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13662)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13449)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12335)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12581)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12048)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10716)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11208)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23356)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33176)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12788)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7384)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12188)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12609)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12034)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12862)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11936)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10690)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11354)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11647)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10853)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10785)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10364)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10475)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10699)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10624)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11903)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10685)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12728)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10794)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11376)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11088)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11621)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10509)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11248)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12294)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11153)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12487)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11414)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11498)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11288)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11576)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 12991)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14159)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 10999)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11859)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13152)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11571)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11408)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10926)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11274)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10806)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11053)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10874)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10239)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17102)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 10995)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10861)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10403)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10748)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11383)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11071)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10571)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11372)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10347)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10654)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12758)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19238)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19672)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21261)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20307)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19733)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19019)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20443)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21064)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17913)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21794)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant