Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

05 Đưa tâm về nhà

04 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11462)
05 Đưa tâm về nhà


Trên hai ngàn năm trăm năm về trước, một người đã đi tìm chân lý trong nhiều đời kiếp, đi đến một chỗ thanh vắng miền Bắc Ấn và ngồi dưới một bóng cây. Người ấy tiếp tục ngồi dưới cây với một tâm cả quyết vô biên, và thề sẽ không đứng dậy nếu không tìm ra chân lý. Tương truyền vào lúc hoàng hôn, người ấy đã chiến thắng tất cả những năng lực hắc ám của mê vọng; và bình minh hôm sau, khi ngôi sao Mai xuất hiện trên nền trời, người ấy đã được đền bù cho lòng kiên nhẫn trường kỳ, cho kỉ luật và sự tập trung toàn hảo của mình bằng sự chứng đắc tuệ giác, cái mục đích tối thượng của đời người. Vào giờ phút thiêng liêng ấy, trái đất cũng phải rùng mình như thể “say sưa trong niềm phúc lạc”, và kinh điển đã ghi rằng “Không ai trong giờ phút ấy, ở bất cứ đâu, nổi giận, hay ốm đau, buồn khổ, không ai làm ác, không ai kiêu căng ngã mạn; thế giới trở nên hoàn toàn thanh tịnh, dường như thể vừa đạt tới sự toàn thiện.” Con người ấy được biết dưới danh hiệuĐức Phật. Thầy Nhất Hạnh đã mô tả sự giác ngộ của Phật bằng những lời đẹp đẽ như sau:

- Gautama cảm thấy như thể là cái ngục tù giam giữ mình cả ngàn đời, vừa mới mở tung. Vô minh chính là người giữ ngục. Vì vô minh, tâm người đã bị che mờ, hệt như trăng sao bị mây che trong bầu trời giông bão. Bị vây bủa bởi nhiều làn sóng vọng tưởng bất tận, tâm ta đã cắt xén thực tại một cách sai lầm thành ra chủ thể và đối tượng, ta và người, hữu và phi hữu, sinh và tử, và do phân biệt khởi lên tà kiến – đó là những ngục tù của thọ, ái, thủ và hữu. Nỗi khổ sinh già bệnh chết chỉ làm cho tường vách nhà tù dày thêm. Điều duy nhất phải làm là tóm lấy kẻ giữ ngục mà nhìn vào mặt thật của y. Kẻ giữ ngục chính là vô minh... Khi kẻ giữ ngục đã bỏ đi, thì nhà tù sẽ tan biến và không bao giờ được xây trở lại.

Những gì Phật thấy là, sự không biết bản tâm chính là nguồn gốc của tất cả đau khổ trong sinh tử, và nguồn gốc của vô minh chính là khuynh hướng xao lãng của tâm ta, cái khuynh hướng đã thành thói quen khó gỡ. Chấm dứt cái tâm lơ đễnh ấy chính là chấm dứt sinh tử; và chìa khóa đưa đến sự chấm dứt là đưa tâm về nhà, trở về bản tính chân thực của nó, nhờ sự thực tập thiền định.

Đức Phật ngồi trên đất với cung cách khiêm hạ bình an, trên cao và quanh ngài là trời đất bao la, như thể chỉ cho ta rằng trong khi thiền định, bạn nên ngồi với một tâm thái rộng mở khoáng đạt như bầu trời, mà đồng thời vẫn hiện diện, có nền tảng vững vàng trên mặt đất. Bầu trời là bản tính tuyệt đối của chúng ta, vốn không có rào ngăn, không biên giới, còn mặt đất là thực tại của chúng ta, hoàn cảnh tương đối và thường nhật của ta. Dáng ngồi khi ta thiền định có nghĩa rằng ta đang nối cái tuyệt đối với tương đối, trời và đất, như đôi cánh của một con chim, thể nhập cái bản tâm bất tử như bầu trời, với cái bản chất phù du khả loại của ta như đất.

Năng khiếu tập thiền định là năng khiếu vĩ đại nhất mà bạn có thể tự đem lại cho mình trên cuộc đời này. Vì chỉ nhờ thiền định bạn mới có thể khởi hành cuộc hành trình đi tìm bản chất chân thực của bạn, và nhờ vây tìm thấy niềm tin vững chải mà bạn cần, để sống tốt đẹp và chết tốt đẹp. Thiền định chính là con đường đưa đến tuệ giác.
 
 

LUYỆN TÂM

Có rất nhiều cách trình bày về thiền định, và có lẽ tôi đã giảng dạy cả ngàn lần về thiền, nhưng mỗi lần một khác, và mỗi lần nó đều trực tiếp và mới mẻ.

May thay ta sống trong một thời đại mà tất cả mọi người trên thế giới đều quen thuộc với thiền định. Càng ngày thiền càng được chấp nhận như một lối tập luyện, bỏ qua và vượt trên tất cả những hàng rào văn hóatín ngưỡng, giúp hành giả thiết lập một tiếp xúc thẳng với sự thật của bản thể họ. Đấy là một luyện tập vượt ngoài giáo điều của các tôn giáo, và là tinh túy của tôn giáo.

Thông thường chúng ta lãng phí đời mình, lạc ra ngoài cái ngã chân thực của ta, trong những hoạt động bất tận. Thiền trái lại, là phương pháp đưa ta trở về chính mình, ở đấy ta có thể thực sự chứng nghiệmthưởng thức cái bản thể toàn vẹn của ta, vượt ngoài mọi mẫu mực thói quen. Những cuộc đời của chúng ta được sống trong đấu tranh căng thẳnglo âu, trong sự quay cuồng của tốc độ và bạo động, trong cạnh tranh, bám víu, chiếm hữu, thành công, ta mãi mãi chất đầy những hoạt động và bận rộn thuộc ngoại vi. Thiền chính là cái ngược lại. Thiền định là làm một cuộc tuyệt giao với cái cách ta hành động “bình thường,” vì đấy là trạng thái không lo lắng không bận tâm, không có cạnh tranh, không có ham muốn sở hữu hay níu kéo một thứ gì, không có sự phấn đấu quyết liệt đầy âu lo, và không có sự khao khát đạt thành: Một trạng thái không có tham vọng không có lấy hay bỏ, không hy vọng cũng không sợ hãi, một trạng thái trong đó ta dần khởi sự buông bỏ mọi cảm xúc và khái niệm đã giam hãm ta để tung cánh vào bầu không gian của tính tự nhiên đơn giản.

Những bậc thầy về thiền định trong Phật giáo biết rõ tính dẻo dai, dễ sử dụng của tâm là như thế nào. Nếu ta luyện được nó, thì không có gì là bất khả. Quả thực ta đã được huấn luyện một cách thuần thục bởi sinh tử và cho sinh tử, được luyện để nổi ghen tuông, được luyện để bám víu chấp thủ, được luyện để lo âu, phiền muộn, thất vọng, thèm khát; được luyện để phản ứng một cách tức giận đối với bất cứ gì khiêu khích chúng ta. Thực vậy, chúng ta được luyện thuần thục tới mức độ mà những cảm xúc tiêu cực ấy khởi lên một cách tự nhiên, chúng ta không cần cố gắng làm cho chúng phát sinh ra. Bởi thế, mọi sự đều là vấn đề huấn luyện, và năng lực của thói quen. Nếu tâm chuyên chú vào sự nghiệp vô minh thì ta sẽ thấy nó trở thành một chúa tể của vô minh, chuyên viên nghiện ngập, tinh vimềm dẻo trong thói nô lệ của nó. Nếu tâm chuyên chú vào thiền định, vào sự nghiệp tự giải thoát ra khỏi ảo tưởng, thì ta sẽ thấy với thời gian, kiên nhẫn, kỷ luật, và luyện đúng – tâm ra khởi sự mở gút và biết được niềm phúc lạctrong sáng nguyên ủy của nó.

“Luyện” tâm tuyệt nhiên không có nghĩa là gượng ép ức chế nó, hay tẩy não cái tâm. Luyện tâm là trước hết thấy được một cách trực tiếp và cụ thể, tâm thực sự vận hành như thế nào, một hiểu biết mà ta có thể rút từ những giáo lý tâm linh và qua kinh nghiệm của mình trong sự thực hành thiền định. Rồi bạn có thể dùng sự hiểu biết ấy để thuần hóa cái tâm và làm việc với nó một cách khéo léo, làm cho nó càng ngày nhu nhuyến, để bạn có thể trở thành chủ nhân của chính tâm mình và sử dụng nó cho cứu cánh viên mãnlợi lạc nhất.

Bậc thầy Shantideva vào thế kỷ thứ tám có nói:

- Nếu buộc chặt con voi tâm bằng sợi dây chánh niệm

Thì mọi sợ hãi tan biến, hạnh phúc toàn vẹn đến với ta

Tất cả kẻ thù: cọp, sư tử,, voi, gấu, rắn những cảm xúc;

Tất cả ngục tốtđịa ngục; ngạ quỷ, những sự khủng khiếp

 Tất cả thứ ấy đều bị trói nhờ bạn đã làm chủ được tâm.

Hàng phục một tâm ấy, thì mọi sự đều được hàng phục.

Vì do tâm mà có ra mọi sợ hãivô lượng khổ đau.

Cũng như một văn sĩ sau nhiều năm dày công học hỏi mới có được cách diễn đạt tự nhiên, hoặc như một vũ công chỉ thành đạt nhờ nỗ lực lớn và kiên nhẫn, cũng thế khi bạn bắt đầu hiểu được thiền định sẽ đưa bạn tới đâu, thì bạn sẽ xem nó như sự nghiệp lớn nhất của đời mình, và nó đòi hỏi ở bạn một sự kiên trì sâu xa, lòng hăng hái, trí thông minh, và kỷ luật.
 
 

TRỌNG TÂM CỦA THIỀN ĐỊNH

Mục đích thiền định là để làm thức dậy trong ta cái tự tính của tâm giống như bầu trời ấy, và để cho ta thấy bản lai diện mục của ta, tính giác không thay đổi nơi ta, cái nằm đằng sau toàn thể sự sống và chết.

Trong cái yên lặng và im lặng của thiền, ta thoáng thấyquay về với sự tự tính sâu xa ấy, cái mà từ quá lâu ta đã không thấy được giữa những bận rộn và xao lãng của tâm. Có phải lạ lùng, là tâm ta không thể ở yên lâu hơn chốc lát mà không theo đuổi bám víu một lối xao lãng nào đó; nó bất an, rộn ràng tới nỗi lắm lúc tôi nghĩ rằng, sống trong một đô thị tân tiến, là ta đã giống như những linh hồn bị dày vò trong trạng thái trung gian sau khi chết, lúc mà tâm (theo Tử thư) được mô tảvô cùng xao xuyến. Theo tài liệu đáng tin, thì hết mười ba phần trăm người ở Mỹ mắc phải chứng rối loạn thần kinh. Điều ấy nói gì về cách sống của chúng ta?

Chúng ta bị phân đoạn thành quá nhiều phương diện khác nhau. Chúng ta không biết mình thực sự là ai, hay ta nên đồng hóa mình với phương diện nào, nên tin tưởng cái gì. Quá nhiều tiếng nói mâu thuẫn, nhiều mệnh lệnh và cảm thức khác nhau giành giựt quyền kiểm soát đời sống nội tâm ta, đến nỗi ta tự thấy mình rã rời ra từng mảnh ở khắp mọi nơi, mọi hướng, không còn ai ở nhà.

Thiền định, như vậy, chính là đem tâm trở về nhà.

Trong giáo lý Phật, chúng ta nói có ba việc làm nên sự khác nhau sự tu thiền của bạn, hoặc để đem lại thoải mái bình an tạm thời, hoặc để đưa đến tự giác giác tha. Ba việc đó gọi là “tốt ở chặng đầu, chặng giữa và chặng cuối.”

· Tốt ở chặng đầu bắt nguồn từ cái ý thức rằng chúng ta và mọi hữu tình tự căn để, đều có Phật tính, tinh chất sâu xa nhất của ta, và trực ngộ được nó thì thoát khỏi vô minhchấm dứt vĩnh viễn mọi đau khổ. Bởi vậy mỗi lần khởi sự tập thiền định, chúng ta được điều động bởi cái ý thức ấy, và phát tâm cống hiến sự tập thiền của mình và cả cuộc đời mình cho việc giác ngộ tất cả chúng sinh, trong tinh thần lời nguyện sau đây, mà chư Phật trong quá khứ đã từng phát ra:

Nhờ năng lựcchân lý của tập luyện này,

Mong tất cả hữu tình được hạnh phúc, và nhân của hạnh phúc;

Mong tất cả đều thoát khổ đau, và nhân của khổ đau;

Mong tất cả không rời hạnh phúc tối thượng, không sầu;

Mong tất cả sống hỉ xả không thương ghét

Và sống tin ở bình đẳng của mọi loài.

· Tốt ở chặng giữa là tâm thái khi ta đi vào trọng tâm của luyện tập, mong thực chứng bản tâm, từ đấy khởi lên sự không chấp thủ, thoát khỏi mọi khái niệm phân biệt, và một tỉnh thức để thấy mọi sự tự nó trống rỗng không thực chất, như huyễn, như mộng.

· Tốt ở chặng cuối là cách ta kết thúc thời thiền tập bằng sự hồi hướng tất cả công đức, với lời cầu nguyện thành thiết như sau:

- Mong rằng, bất cứ công đức gì có được do thời thiền tập này, đều hướng về sự giác ngộ tất cả hữu tình; mong rằng nó trở thành một giọt nước trong biển công hạnh của chư Phật đang làm việc không biết mệt để giải thoát tất cả chúng sinh.

Công đứccông năng tích cựclợi lạc, niềm bình an hạnh phúc mà sự tu tập thiền định của bạn tỏa chiếu ra. Bạn cống hiến công đức ấy cho sự an lạc lâu dài của hữu tình, cho sự giác ngộ của chúng. Gần hơn, thì bạn hồi hướng cầu nguyện cho hòa bình thế giới, cho mọi người thoát khỏi thiếu thốn bệnh tật, được sức khỏehạnh phúc lâu bền. Rồi, khi nhận thức bản chất mộng huyễn của thực tại, bạn tư duy rằng, trong ý nghĩa sâu kín nhất, thì bạn, người hồi hướng, những chúng sinh mà bạn cống hiến công đức, và chính cái hành vi hồi hướng, cả ba thứ đều trống rỗng, huyễn hóa. Điều này được nói trong giáo lý là để “niêm phong” thời thiền định, bảo đảm sao cho không một giọt nào của công năng thuần tịnh của nó bị rò rỉ, và để chắc chắn không một chút công đức nào của sự thực hành là bị lãng phí.

Những nguyên tắc thiêng liêng này – cách khởi tâm thiện xảo, thái độ không chấp thủ, và sự hồi hướng sau cùng để niêm phong, là những gì làm cho việc thiền tập của bạn thực sự có năng lực, đem lại giác ngộ. Ba nguyên lý này được Longchenpa bậc thầy Tây Tạng mô tả là “trái tim, con mắt và sức sống của sự thực hành chân chính.” Như Nyoshul Khenpo nói:

- Muốn đạt toàn giác, nhiều hơn thế thì dư, mà ít hơn thì thiếu.
 
 
 
 

LUYỆN TẬP CHÁNH NIỆM

Thiền định là đưa tâm về nhà, và việc này trước hết được hoàn tất nhờ luyện tập chánh niệm.

Một lần có một thiếu phụ đến hỏi Bụt làm cách thế nào để thiền. Bụt bảo nàng hãy ý thức từng động tác của đôi tay khi nàng kéo nước giếng, vì ngài biết như vậy nàng sẽ tự thấy mình ở trong tâm trạng an bình, khoáng đạt và bén nhạy, mà chính là thiền định.

Sự thực tập chánh niệm, đưa cái tâm phân tán trở về nhà và do đó tập trung ý thức vào những khía cạnh khác nhau của con người chúng ta - được gọi là “Tịnh trú” hay “An trú,” thành tựu được ba việc. Trước hết, mọi mảnh vụn của con người ta - thường mâu thuẫn chống chọi nhau – bây giờ ổn định, tan hòa và trở thành bạn. Trong sự ổn định ấy ta bắt đầu hiểu mình hơn, và đôi khi còn thoáng thấy được tia sáng tự tính bản nhiên của ta. Thứ hai là, luyện tập thiền định làm tiêu tan tính tiêu cực, bạo hành nơi ta, những cảm xúc hỗn độn đã chứa nhóm nhiều đời. Thay vì đàn áp chúng hay bị lôi cuốn theo chúng, ở đây điều quan trọng là ngắm nhìn chúng và bất cứ gì khởi lên trong tâm, với sự chấp nhậnbao dung, càng cởi mở càng tốt. Những bậc thầy Tây Tạng thường bảo rằng tính độ lượng sáng suốt ấy giống như không gian vô biên, thân thiếtdễ chịu, làm bạn cảm thấy như thể được bao phủ, được che chở trong một cái mền bằng ánh sáng.

Dần dần, khi bạn vẫn ở trong trạng thái cởi mở, tỉnh giác ấy, và dùng một trong những phương pháp sẽ nói sau, để làm cho tâm càng lúc càng tập trung hơn, tính tiêu cực nơi bạn càng ngày càng tan loãng ra; bạn khởi sự cảm thấy thoải mái trong toàn diện bản thể bạn, hay như ngưòi Pháp nói, être bien dans sa peau. Từ đấy phát sinh sự buông xả và một niềm an lạc sâu xa. Theo tôi thì sự tập luyện này là cách tốt nhất để chữa trị thân bệnh và tâm bệnh nơi bạn.

Thứ ba, sự tập luyên này vén màn, làm hiển lộ Thiện tâm căn bản của bạn, vì nó làm tan biến thói hung ác hay tác hại ở trong bạn. Chỉ khi trừ khử được thói ấy ta mới thực sự hữu ích cho người khác. Vậy thì nhờ tập luyện, trừ khử dần thói ác tác hại khỏi tâm ta, mà ta có thể để cho Thiện tâm chân thực của ta – lòng tử tế, từ bi tự nhiên nơi ta - chiếu sáng, và trở thành bầu khí hậu cho bản thể đích thực của ta phát triển.

Bây giờ bạn thấy tại sao tôi gọi thiền định là sự thực hành chân thực để đi đến hòa bình, đi đến sự không gây hấn, đi đến sự bất bạo động. Ðấy là sự giải trừ vũ khí chân thực và quan trọng nhất.
 
 

SỰ BÌNH AN TỰ NHIÊN

Mỗi khi giảng dạy thiền định, tôi thường bắt đầu bằng câu nói:

- Hãy đưa tâm bạn về nhà. Buông xả, và thư giãn.

Toàn thể sự thực hành thiền định có thể rút gọn vào ba điểm cốt yếu đó: Ðưa tâm về nhà, buông xả và thư giãn.

Ðưa tâm về nhà có nghĩa là hướng dẫn tâm đến trạng thái An trú nhờ thực tập chánh niệm. Trong ý nghĩa sâu xa nhất, thì đưa tâm về nhà có nghĩa là xoay tâm vào trong và an trú trong bản tánh tự nhiên của nó. Ðiều này chính là thiền định tối thượng.

Buông xảgiải phóng tâm khỏi ngục tù chấp thủ, vì bạn đã nhận thấy rằng mọi đau khổ, sợ hãi và lo buồn đều bắt nguồn từ sự khát ái của tâm chấp thủ. Ở bình diện sâu xa hơn, sự thực chứng, niềm tin phát sinh do hiểu rõ bản chất của tự tâm sẽ làm cho bạn có được tính bao dung sâu sắc và tự nhiên, khiến bạn dễ dàng buông hết mọi chấp thủ của mình, để cho nó tự bay mất, tan vào trong nguồn cảm hứng của thiền định.

Cuối cùng, thư giãn có nghĩa là khoáng đạt, giải tỏa tâm khỏi mọi căng thẳng. Sâu hơn nữa, là bạn thể nhập vào bản tính chân thực tự nhiên của tâm bạn một cách thoải mái, vào trạng thái Rigpa. Tạng ngữ diễn tả tiến trình này là “thư giãn trên Rigpa”. Giống như khi ta đổ một nắm cát trên một mặt phẳng, thì mỗi hạt cát tự động an trú. Ðấy là cách bạn thư giãn vào trong bản tính chân thực của bạn, để cho mọi ý nghĩa cảm xúc tự động rút lui, tan biến vào trong trạng thái tâm tự nhiên.

Mỗi khi thiền định, bài thơ sau đây của Nyoshul Khenpo luôn luôn gây cho tôi nguồn cảm hứng:

Hãy an trú tịch nhiên

Cái tâm mệt mỏi này

bị nghiệp làm xơ xác

với tư duy cuồng loạn

như sóng vỗ không ngừng

trong biển lớn sinh tử.

Hãy an trú tịch nhiên.

Cần nhất là ta hãy thoải mái tự nhiên và khoáng đạt như hư không. Hãy lặng lẽ chuồn ra khỏi cái thòng lọng của bản ngã đầy lo âu thường ngày, buông mọi sự bám víu, và thả mình vào trong bản tính chân thực của bạn. Hãy tưởng đến cái tôi thường nhật của bạn như một khối băng hay một thỏi bơ để dưới ánh mặt trời. Nếu bạn đang cảm thấy cứng cỏi lạnh lùng, thì hãy để cho sự cứng cỏi ấy tan ra trong ánh mặt trời thiền định. Ðể cho niềm bình an làm việc trên bạn, giúp bạn thâu nhặt lại cái tâm phân tán gom vào trong sự An trú, và đánh thức dậy sự tỉnh giác và cái thấy sâu xa của Minh kiến. Rồi bạn sẽ thấy tất cả thói tiêu cực nơi mình bị tước khí giới, tính bạo động tan ra, vọng tưởng chầm chậm tiêu tan như thể sương mù tan vào trong bầu trời khoáng đạt vô nhiễm của tính tự nhiên tuyệt đối nơi bạn.

Khi ngồi lặng lẽ, thân yên, lời im, tâm am tĩnh, bạn hãy để cho những ý tưởng, cảm xúc hay bất cứ gì khởi lên, tự đến và đi, không bám víu vào cái gì.

Trạng thái ấy ra thế nào? Dudjom Rinpoche thường nói, hãy tưởng tượng một nông phu suốt ngày làm lụng mệt nhọc ngoài đồng, bây giờ đang ngồi thoải mái trước lò sưởi, trong chiếc ghế mà ông yêu thích. Ông đã làm lụng trọn ngày và biết mình đã làm những gì cần hoàn tất, không còn gì phải lo, không còn việc gì chưa xong, ông có thể buông bỏ hoàn toàn mọi lo âu bận bịu, và bây giờ hài lòng, ông chỉ là, không còn gì phải làm nữa.

Vậy, khi thiền định, điều cần thiết là bạn phải tạo ra bối cảnh nội tâm cho thích hợp. Mọi nỗ lực và phấn đấu xảy ra đều do bởi cái tâm không khoáng đạt như hư không, bởi thế tạo ra bối cảnh thích hợp ấy là điều cốt yếu để cho thiền định thực sự xảy đến. Khi điều kiện ấy có mặt, thì thiền định phát sinh không cần nỗ lực.

Ðôi khi, lúc thiền định, tôi không dùng một phương pháp đặc biệt nào cả. Tôi chỉ để cho tâm an nghỉ, và thấy rằng tôi có thể đưa tâm về nhà và thư giãn một cách mau lẹ, nhất là mỗi khi được cảm hứng. Tôi ngồi yên lặng và an trú trong tự tính của tâm; tôi không cần tự hỏi mình có ở trong trạng thái “đúng” hay không. Không có nỗ lực, chỉ có sự hiểu biết dồi dào, sự tỉnh thức, và một niềm xác tín không lay chuyển. Khi tôi ở trong trạng thái tâm bản nhiên ấy, thì cái tâm thường ngày không còn ở đấy. Không cần xác định một cảm thức hiện hữu nào: tôi chỉ đang là, một cách đơn giản. Một niềm tin tưởng căn để đang có mặt. Không có việc gì đặc biệt phải làm.
 
 

PHƯƠNG PHÁP TRONG THIỀN

Nếu tâm bạn tự nó có thể an trú một cách tự nhiên và nếu bạn thấy mình có thể trú trong sự tỉnh thức thuần tịnh của tâm bạn, thì khi ấy bạn không cần phương pháp nào để thiền định nữa. Quả thế, đôi khi còn không nên cố sử dụng một phương pháp, khi tâm bạn đã ở trong một trạng thái như vậy. Tuy nhiên, phần đông chúng ta thấy khó mà đạt tới trạng thái đó ngay được. Chúng ta không biết làm sao để đánh thức tâm, tâm ta quá hoang vuxao lãng đến độ ta cần một phương tiện thiện xảo, một phương pháp tốt, để hô triệu nó lên.

Tôi muốn nói “thiện xảo” nghĩa là hợp nhất cái biết của bạn về tự tánh tâm, cái biết những tâm trạng đang thay đổi nơi bạn và cái biết đối trị mà bạn đã phát triển qua sự thực tập – những vọng tưởng trong từng giai đoạn. Nhờ hòa hợp chúng lại, mà bạn học được nghệ thuật áp dụng phương pháp thích hợp cho bất cứ một tình huống hay vấn đề đặc biệt nào, để chuyến hóa bối cảnh của tâm bạn.

Nhưng nên nhớ rằng phương pháp chỉ là phương tiện, không phải chính là thiền định. Nhờ thực hành phương pháp một cách thiện xảo mà bạn có thể đạt đến trạng thái thuần tịnh của sự tỉnh giác toàn vẹn, mà chính là thiền đích thực.

Tạng ngữ có câu: “Gompa ma yin, kompa yin” nghĩa là, không có thiền định mà chỉ có sự quen thực hành thiền định. Thiền định không phải là nỗ lực, mà tự nhiên thấm nhuần. Khi bạn tiếp tục áp dụng phương pháp, thì dần dần thiền định phát sinh. Thiền định không phải là một cái gì bạn có thể làm, nó xảy đến một cách tự nhiên, chỉ khi bạn đã thuần thục trong sự thực tập.

Tuy nhiên muốn thiền định xảy đến, thì cần tạo những điều kiện yên tĩnh và tốt lành. Muốn làm chủ được tâm, ta cần phải làm cho hoàn cảnh xung quanh được an tịnh. Lúc này tâm ta giống như ngọn đèn cầy luôn luôn lay động bởi những ngọn gió mạnh của ý tưởngcảm xúc. Ngọn đèn chỉ đứng yên khi ta làm cho không khí xung quanh nó lắng xuống. Ta chỉ có thể thoáng thấy tự tính tâm và an trú trong đó, khi những ý tưởngcảm xúc quay cuồng của ta đã lắng xuống. Ngược lại, khi ta đã an trú trong thiền định thì những tiếng ồn và rối loạn đủ loại sẽ rất ít ảnh hưởng.

Tây phương, người ta quen thói chú mục vào cái mà tôi gọi là “kỹ thuật thiền định”. Thế giới ngày nay thực say mê máy móc cơ khí, và chỉ thích những công thức thực tiễn. Nhưng điều quan trọng hơn nhiều ở trong thiền không phải là kỹ thuật, mà là tinh thần, cách thế thiện xảo và đầy sáng tạo trong đó ta thực hành thiền định, gọi là thế ngồi.
 
 

THẾ NGỒI

Những bậc thầy nói:

- Nếu bạn tạo một điều kiện tốt lành trong thân và cảnh, thì thiền và ngộ sẽ tự động sinh khởi.

Nói về thế ngồi không phải là dạy một chuyện bí truyền; toàn bộ của việc ngồi đúng cách chỉ là để tạo một bối cảnh gợi cảm hứng cho thiền, cho sự thức dậy của Rigpa. Có sự tương quan giữa thế ngồi của thân với thái độ của tâm, và thiền định phát sinh một cách tự nhiên khi có thế ngồi và thái độ thích hợp.

Nếu bạn đang ngồi mà tâm không hoàn toàn hòa điệu với thân – chẳng hạn bạn đang lo lắng bận rộn một việc gì – thì thân bạn sẽ kinh quá nỗi bực dọc vật lý, và những khó khăn dễ dàng xảy ra. Trong khi nếu tâm bạn an tĩnh, nó sẽ ảnh hưởng đến toàn thể thế ngồi của bạn, bạn có thể ngồi tự nhiên không cần cố gắng. Bởi thế thực rất quan trọng để phối hợp thế ngồi của thân với niềm tin phát sinh từ sự trực ngộ bản tâm nơi bạn.

Thế ngồi tôi sắp giải thích có thể khác những thế ngồi mà bạn đã quen. Nó rút từ giáo lý Dzogchen ngày xưa, đó là thế ngồi mà các bậc thầy đã dạy tôi, và tôi thấy nó đầy hiệu lực.

Trong giáo lý Dzogchen nói rằng Cái thấy và Thế ngồi của bạn phải như ngọn núi. Cái thấy là đỉnh cao của toàn thể tri kiếntuệ giác về bản tâm mà bạn đem vào thiền định. Bởi vậy cái thấy ấy gợi cảm hứng cho thế ngồi của bạn, diễn tả cốt lõi của bản thể bạn trong lối bạn ngồi.

Vậy, hãy ngồi như thể bạn là một ngọn núi, với tất cả uy thế lẫm liệt vững chắc không ai lay chuyển nổi, của một ngọn núi. Ngọn núi hoàn toàn tự nhiên, thoải mái dù có bao nhiêu ngọn gió mạnh tạt qua nó, bao nhiêu đám mây đen dày vần vũ quanh nó. Ngồi như một ngọn núi, bạn để tâm bạn vươn lên và bay lượn.

Ðiều quan trọng nhất trong thế ngồi này là giữ lưng thẳng như một mủi tên hay một cọc tiền vàng. Nội khí hay prana sẽ tuôn chảy thông suốt qua các huyệt đạo cơ thể, và tâm bạn sẽ tìm được trạng thái an nghỉ thực sự của nó. Ðừng gắng gượng cưỡng ép cái gì cả. Phần dưới của cột sống có một đường cong tự nhiên; nên thư dãn nó theo chiều thẳng đứng. Ðầu bạn nên an nghỉ thoải mái trên cần cổ. Ðôi vai và phần trên ngực mang tất cả sức mạnh và vẻ đẹp của thế ngồi, cần giữ yên, vững, nhưng không được có một sự căng thẳng nào.

Hãy ngồi khoanh chân, không cần phải theo thế hoa sen (kiết già) như trong pháp Yoya cao cấp. Ðôi chân khoanh lại biểu trưng sự nhất thể giữa sống và chết, thiện và ác, phương tiệntrí tuệ, nguyên lý âm dương, sinh tử niết bàn, trạng thái bất nhị. Bạn cũng có thể ngồi trên ghế để thỏng chân, nhưng điều cần thiết là phải giữ lưng cho thẳng.

Trong truyền thống thiền của tôi, thì đôi mắt phải mở: Ðây là điều tối quan trọng. Nếu bạn nhạy cảm đối với những quấy rầy bên ngoài, thì mới đầu bạn có thể nhắm mắt lại một lúc, và lặng lẽ xoay cái nhìn vào trong (nội quán). Khi đã định tĩnh, và từ từ mở mắt ra bạn sẽ thấy cái nhìn của bạn đã trở nên an tịnh hơn. Bấy giờ bạn nhìn xuống dọc theo sóng mũi, làm thành một góc bốn mươi lăm độ trước mặt. Thông thường một cái mánh thực tiễn là khi tâm tán loạn, tốt nhất là hạ tầm nhìn xuống, và khi lừ đừ muốn ngủ thì đưa tầm nhìn lên.

Khi tâm đã định tĩnh, sự sáng suốt của tuệ giác bắt đầu sinh khởi, bạn có thể tự nhiên nhìn lên, mở lớn mắt hơn và nhìn vào khoảng không gian ngay trước mặt. Ðấy là cái nhìn mà giáo lý Dzogchen thường dạy.

Giáo lý Dzogchen dạy rằng thiền định và cái nhìn của bạn phải giống như không gian bao la của đại dương: Cùng khắp, khoáng đạt và vô giới hạn. Cũng như Cái thấy và Thế ngồi không rời nhau, thiền định và lối nhìn của bạn cũng tan hòa thành một.

Khi ấy đừng chú ý vào một cái gì đặc biệt, trái lại nhẹ nhàng xoay vào trong tâm bạn, cứ để cái nhìn trải rộng, càng lúc càng bao la, thấm nhuần khắp. Bấy giờ bạn sẽ thấy “cái thấy” của bạn cũng rộng rãi hơn, và nhờ thế trong tia mắt của bạn có niềm bình an hơn, có niềm bi mẫn, hỉ xảtrầm tĩnh hơn.

Tạng ngữ gọi vị Phật của lòng Từ bi là Chenrezig. Chen là con mắt, re là khóe mắt, và zig là nhìn; có nghĩa rằng, với đối mắt bi mẫn, ngài nhìn thấy nhu cầu của mọi chúng sinh. Vậy bạn hãy dồn sự bi mẫn – phát sinh từ thiền quán – vào đôi mắt, sao cho cái nhìn của bạn chính là cái nhìn của tâm đại bi, bao la như đại dương, và soi thấy cùng khắp.

Có nhiều lý do để giữ đôi mắt mở. Khi mở mắt, bạn ít buồn ngủ. Và thiền định không phải là một cách trốn đời, hay để tâm thoát li vào một trạng thái xuất thần mê mẩn. Trái lại, đó là cách trực tiếp giúp ta thực sự biết mình trong tương giao với cuộc đờimọi người.

Bởi thế, trong thiền định, bạn để con mắt mở, không nhắm mắt. Thay vì đóng cửa để cuộc đời ra ngoài, bạn có thái độ phóng khoáng và hòa bình với mọi sự. Bạn để cho các giác quan - thấy nghe cảm giác – cứ mở ra tự nhiên mà không bám víu vào những cái biết của chúng. Dudjom Rinpoche nói:

- Mặc dù nhiều hình sắc được thấy, tự bản chất chúng là không (trống rỗng); tuy thế trong không ta thấy sắc. Mặc dù nhiều âm thanh được nghe, tự bản chất chúng là không; tuy thế trong không ta nghe tiếng, Cũng vậy, nhiều ý nghĩ khởi lên, chúng vốn là trống rỗng, tuy thế trong không, ta thấy có tư tưởng.

Bất cứ gì bạn thấy, nghe, cứ để mặc chúng, đừng bám víu. Ðể cái nghe cứ là cái nghe, để cái thấy cứ là cái thấy, không để cho sự bám víu của bạn đi vào trong đó.

Theo sự thực tập quang sắc đặc biệt của Dzogchen, mọi ánh sáng của trí tuệ ta nằm ở tim, liên lạc tới con mắt qua những huyệt đạo thuộc trí tuệ. Con mắt là cửa ngõ của quang tướng, bởi thể bạn để mắt mở để khỏi bế tắc các huyệt đạo trí tuệ.

Khi thiền định, bạn để miệng hơi hé mở, như thể sắp thốt ra một tiếng Aaaah sâu dài thư dãn. Khi hé miệng và thở phần lớn qua ngõ ấy, người ta bảo, những luồng gió nghiệp gây ra tư tưởng tán loạn làm chướng ngại thiền định, nhờ thế mà ít có dịp phát sinh.

Tay bạn nghỉ ngơi thoái mái bao bọc hai đầu gối. Ðây gọi là thế ngồi làm cho tâm an lạc.

Có một tia hy vọng lạc quan trong thế ngồi này, do sự ngầm hiểu chúng ta đều có Phật tính. Bởi vậy khi ngồi như thế, ta đang bắt chước một đức Phật, xác nhận và khuyến khích sự xuất hiện của Phật tính trong ta. Quả thế, bạn khởi sự tôn trọng chính mình như một vị Phật tiềm tàng.

Đồng thời, bạn vẫn nhận ra hoàn cảnh tương đối của mình. Nhưng vì bạn đã được cảm hứng từ niềm tinPhật tính thực sự của bạn, ban có thể dễ chấp nhận những khía cạnh tiêu cực nơi mình hơn, đối xử với chúng tử tế hơn, và có thái độ hài hước hơn. Vậy khi thiền định, bạn nên mời chính bạn hãy cảm thấy tự tôn trọng, hãy thấy mình có tư cách, và có sự khiêm cung của một vị Phật. Bạn chỉ cần gợi lên niềm tin lạc quan đó là đủ: Từ niềm vui và sự hiểu biết ấy, tự nhiên thiền định sẽ phát sinh.
 
 

BA PHƯƠNG PHÁP THIỀN QUÁN

Đức Phật dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn để thuần hóaan định những cảm xúc tiêu cực, và trong Phật giáovô số phương pháp thiền định. Tôi tìm thấy có ba kỹ thuật thiền đặc biệt hiệu nghiệm trong thế giới ngày nay, mà ai cũng có thể sử dụng để được lợi lạc. Đó là phương pháp “canh chừng” hơi thở, sử dụng một vật làm đối tượng, và nhẩm đọc một câu thần chú.

1. Quán hơi thở.

Phương pháp này rất xưa và có mặt trong tất cả trường phái Phật giáo. Đó là để tâm chú ý vào hơi thở một cách nhẹ nhàng đầy chánh niệm.

Hơi thở là sự sống, sự biểu hiện căn bản nhất của cuộc đời ta. Trong Do thái giáo thì ruah, hơi thở, là linh hồn của Thượng đế thấm khắp tạo vật; trong Ki tô giáo cũng có dây nối mật thiết giữa đấng Thánh linh – nguồn gốc của mọi sự sống – và hơi thở. Trong giáo lý Phật, thì hơi thở, Phạn ngữ là prana, được gọi là “cỗ xe của tâm”, vì chính hơi thở làm cho ta tâm ta di chuyển. Bởi thế khi ta làm an tịnh tâm bằng cách làm việc khéo léo với hơi thở, thì cũng như ta đang luyện tâm và hàng phục tâm. Có phải ai trong chúng ta cũng đã từng thấy khỏe khoắn biết bao khi đang gặp căng thẳng mà ngồi lại vài phút để thở những hơi thở vào ra thật chậm và sâu không? Ngày cả một tập luyện đơn giản như thế cũng có thể giúp ta rất nhiều.

Vậy khi thiền định, bạn hãy thở tự nhiên, như thường ngày bạn thở. Tập trung sự chú ý của bạn vào hơi thở ra. Khi thở ra, bạn hãy buông ra theo hơi thở tất cả sự bám víu của bạn. Tưởng tượng hơi thở bạn tan vào trong khoảng không bao la của chân lý. Mỗi lần thở ra, trước khi hít vào lại, bạn sẽ thấy có một khoảng hở tự nhiên, khi sự chấp thủ đã tan biến.

Hãy an trú trong khoảng hở ấy, không gian rộng mở ấy. Và khi tự nhiên bạn thở vào, thì đừng chú ý hơi thở vào, mà cứ tiếp tục an trú tâm nơi khoảng hở đã mở ra ấy.

Khi thực tập, điều quan trọng là bạn đừng vướng vào sự luận giải, phân tích trong tâm, hay thói lải nhải nội tâm. Đừng lầm sự lặp đi lặp lại trong tâm rằng “Bây giờ tôi đang thở vào, bây giờ tôi đang thở ra” cho đó là chánh niệm; cái quan trọng là sự tỉnh giác thuần túy không xao lãng.

Đừng quá tập trung vào hơi thở; chỉ để cho nó chừng hai mươi lăm phần trăm, còn bảy mươi lăm phần trăm thì bạn hãy buông xả một cách lặng lẽ bao la. Càng chánh niệm hơi thở, bạn càng tỉnh thức về chính mình, gom lại những mảnh vụn phân tán của bạn thành một nhất thể, tính nhị nguyên và ngăn cách tan biến.

Chính tiến trình chánh niệm ấy lọc sạch tư tưởngcảm xúc bạn. Khi ấy, bạn cảm như đã rũ bỏ một cái lốt da ngoài, có cái gì được lột sạch, được phóng thích.

Tuy nhiên có nhiều người không được thoải mái với pháp quán hơi thở, họ còn thấy gần như bị ngộp. Đối với họ, kỹ thuật sau đây có thể tốt hơn.

2. Dùng một vật làm đối tượng.

Phương pháp thứ hai, mà nhiều người thấy tốt, là an tâm vào một đối tượng. Bạn có thể dùng một vật đẹp tự nhiên gợi cảm đối với bạn, như một đóa hoa hay bình pha lê. Nhưng một cái gì biểu tượng cho chân lý, như tượng Phật, Chúa, hay nhất là bậc thầy của bạn. Thầy là gạch nối giữa bạn với chân lý, và nhờ bạn có quan hệ mật thiết với thầy, nên nhìn gương mặt thầy bạn có thể được cảm hứng và nhớ đến Phật tính của bạn.

Nhiều người đã có được liên hệ đặc biệt với bức tranh của tượng đức Padmasambhava gọi là “Trông giống tôi,” bức tượng được tạc lúc sinh thời của ngài và được ngài ban phép vào thế kỷ thứ tám ở Tây Tạng. Padmasambhava, bằng năng lực tâm linh khổng lồ của ngài đã đưa giáo lý Phật vào Tây Tạng.

Ngài được xem là vị Phật thứ hai, và được dân Tây Tạng gọi một cách âu yếm là “Thầy Rinpoche” hay “Bậc thầy quý báu.” Dilgo Khientse Rinpoche nói:

- Trên đất Ấn và Tây Tạng, đã từng có nhiều bậc thầy tuyệt luân, nhưng người có công bi mẫn lớn lao nhất, người nhiều ân đức với hữu tình trong thời đại khó khăn này, chính là Padmasambhava, người tượng trưng từ bitrí tuệ của tất cả chư Phật. Một trong những đức của ngài là, ngài ban phúc ngay lập tức cho ai cầu khẩn ngài, và bất cứ gì ta cầu xin, ngài đều có năng lực làm ta toại nguyện tức khắc.

Khi được cảm hứng từ điều này, thì bạn hãy gắn một tấm hình của bức tượng ngài ngang tầm mắt bạn, rồi hướng sự chú ý của bạn đến gương mặt ngài, nhất là tia nhìn nơi đôi mắt. Có niềm an tịnh sâu xa trong cái nhìn ấy, như đang phóng ra từ bức tranh để đưa bạn đi vào một trạng thái tỉnh giác không bám víu, trạng thái thiền định. Rồi bạn để yên cho tâm bạn an nghỉ cùng với Padmasambhava.

3. Nhẩm đọc một thần chú.

Một kỹ thuật thứ ba được sử dụng rất nhiều trong Phật giáo Tây Tạng (và cả trong đạo Sufism, Ki tô giáo chính thống, và Ấn giáo), là hợp nhất tâm bạn với âm thanh của một bài chú. Định nghĩa của mantra là “cái che chở tâm.” Cái che chở tâm khỏi tính tiêu cực, hay che chở bạn khỏi tâm bạn, gọi là mantra.

Khi bạn đang nóng nảy, mất hướng đi, hoặc cảm thấy yếu đuối tình cảm, thì tụng đọc thần chú có thể thay đổi hoàn toàn tâm thái của bạn bằng cách thay đổi năng lực và bầu khí hậu của nó. Việc này xảy ra được bằng cách nào? Thần chútinh túy của âm thanh, và là hiện thân của chân lý qua hình thức âm thanh. Mỗi âm đều thấm nhuần năng lực tâm linh, cô đọng một sự thật về tâm linh, và rung động với ân đức của Lời chư Phật. Người ta bảo rằng tâm cỡi trên Prana hay Khí lực, khí này di chuyển khắp cơ thể và thanh lọc những huyệt đạo vi tế. Bởi thế khi đọc chú, là bạn đang chở đầy năng lực của thần chú trong hơi thở và khí lực của mình, tác động trực tiếp trên tâm và thân vi tế.

Câu chú tôi khuyên các học trò tôi đọc là:

- OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDHI HUM

(Người Tây Tạng nói:

Om Ah Hung Benzaa Guru Péma Siddhi Hung)

thần chú của Padmasambhava, của tất cả chư Phật, các bậc thầy và những bậc đã chứng ngộ, bởi thế rất có mãnh lực đem lại bình an, chữa bệnh, chuyển hóache chở người ta trong thời đại hỗn độn bạo hành này. Hãy lặng lẽ đọc câu chú với sự chú tâm sâu xa, và để hơi thở, câu chú và sự tỉnh thức của bạn dần trở thành một. Hoặc tụng nó lên một cách hứng khởi, rồi an trú trong sự im lặng bao la đôi khi tiếp theo sau đó.

Mặc dù suốt đời quen thuộc với sự thực hành này, tôi vẫn còn đôi lúc kinh ngạc bởi năng lực của thần chú. Vài năm trước, khi tôi đang hướng dẫn một thiền hội gồm ba trăm người ở Lyon, Pháp, phần đông là những bà nội trợ và những nhà chữa tâm bệnh. Tôi đã giảng dạy suốt ngày, nhưng họ dường như muốn tận dụng khoản thời gian ở gần tôi, nên cứ tiếp tục hỏi hết câu này tới câu khác không ngừng. Cuối ngày thì tôi hoàn toàn kiệt sức, một bầu không khí nặng nề tẻ nhạt lan khắp phòng. Bởi thế tôi tụng lên bài chú nói trên. Tôi kinh ngạc trước hiệu quả: Trong vài phút tôi cảm thấy năng lực được phục hồi, bầu khí quanh chúng tôi thay đổi, và toàn thể thính giả trở lại tươi sáng say mê. Tôi vẫn thường có kinh nghiệm ấy nhiều lần, nên tôi biết không phải chỉ là một “phép lạ” tình cờ.
 
 

TÂM TRONG THIỀN ĐỊNH

Vậy, ta nên làm gì với tâm ta trong thiền định? Không gì cả. Cứ để mặc nó như nó là. Một bậc thầy mô tả thiền định là “Tâm lơ lửng trong không, không ở đâu.”

Có một câu nói nổi tiếng:

- Nếu tâm không bị gượng ép, thì nó tự nhjiên đầy hỉ lạc, cũng như nước, khi không bị quấy động thì tự nhiên trong suốt.

Tôi thường so sánh tâm thiền với một chun nước bùn: Ta càng để yên đừng khuấy động nước lên, thì những phân tử bụi càng chìm xuống đáy, làm cho tính trong sáng tự nhiên của nước chiếu suốt đáy. Tính tự nhiên của tâm là nếu bạn để nó trong trạng thái đừng thay đổi, thì nó sẽ tìm thấy tính tự nhiên chân thực của nó, hỉ lạc và trong sáng.

Bởi vậy cẩn thận đừng áp đặt lên tâm bạn một cái gì. Khi thiền định, không được có nỗ lực để kiểm soát, không cố để được an. Đừng quá quan trọng cảm thấy mình đang làm một lễ lạc gì đặc biệt; hãy buông xả ngay cả cái ý niệm rằng bạn đang thiền. Hãy để thân bạn tự nhiên, hơi thở tự nhiên. Tưởng về bạn như bầu trời, bao trùm tất cả vũ trụ.
 
 

QUÂN BÌNH TẾ NHỊ

Trong thiền định cũng như trong mọi nghệ thuật, cần có một quân bình tế nhị giữa thư dãn và bén nhạy.

Một lần, một tu sĩ tên Shrona học thiền với một trong những đệ tử gần nhất của Phật. Ông đang gặp khó khăn trong việc để tâm như thế nào. Ông có hết sức để tập trung, làm cho ông bị nhức đầu. Rồi khi buông tâm ra, thì buông quá độ nên ông buồn ngủ. Cuối cùng ông phải tới cầu xin Bụt giúp đỡ. Biết ông ta đã từng là nhạc công nổi tiếng lúc còn tại gia, Bụt hỏi:

- Có phải ông đã từng chơi đàn lúc còn là cư sĩ không?

Shrona thưa vâng. Bụt hỏi:

- Ông làm sao để gãy ra tiếng hay nhất? Đó là lúc dây đàn thật căng, hay lúc dây thật chùng?

- Bạch Thế tôn, không quá căng cũng không quá chùng mới được.

- Vậy, với tâm ông cũng như thế đó.

Ma Chik Lap Dron, một trong những bậc nữ đạo sư của Tây Tạng, nói:

- Tỉnh, tỉnh, mà buông, buông. Đây là điểm cốt yếu trong thiền để có Tri kiến.

Hãy khơi dậy sự tỉnh giác, nhưng đồng thời buông xả, xả cho đến độ bạn không bám vào một ý niệm về buông xả.
 
 

Ý TƯỞNGCẢM XÚC: SÓNG VÀ ĐẠI DƯƠNG

Khi bắt đầu thiền, người ta thường nói những ý tưởng của họ nổi loạn, và trở nên ồn ào hơn bao giờ hết. Nhưng tôi trấn an họ rằng, đó là dấu hiệu tốt. Nó chứng tỏ bạn đã trở nên an tịnh hơn, nên mới ý thức được sự ồn ào của những ý tưởng trong tâm bạn. Bạn không nên nản chí bỏ cuộc. Dù khởi lên ý niệm gì, hãy để tâm bạn tỉnh thức, kéo tâm về hơi thở, ngay dù nó đang tán loạn.

Trong những chỉ dẫn về thiền ngày xưa, thường nói rằng lúc đầu những ý tưởng kéo đến té nhào lên nhau không gián đoạn, như thác đổ trên núi xuống. Dần dần, khi bạn hoàn hảo về thiền, thì ý tưởng như nước trong vực sâu, rồi như dòng sông lớn chảy ra biển, chỉ thỉnh thoảng có sống gợn lăn tăn.

Đôi khi người ta nghĩ rằng khi thiền định, họ không được có ý tưởng cảm xúc nào cả, nên khi chúng khởi lên, họ đâm ra bực bội cáu tiết với chính họ, vì tưởng mình thất bại. Thật không gì sai sự thật hơn. Tây Tạng có câu: “Đấy cũng như đòi thịt đừng có xương, đòi trà đừng có lá.” Bao lâu bạn còn tâm là còn có ý tưởngcảm xúc.

Cũng như đại dương có sóng, mặt trời có tia, những tia sáng của tâm bạn chính là những ý tưởngcảm xúc. Biển có sóng, nhưng nó không phiền hà gì về những ngọn sóng. Sóng chính là bản tính của biển. Sóng sẽ nổi lên, nhưng sẽ đi về đâu? Trở về đại dương. Và những con sóng ấy từ đâu đến? Từ đại dương. Cũng thế, ý tưởngcảm xúc là những tia sáng và biểu hiện của chính tự tính của tâm. Chúng nổi lên từ tâm, nhưng chúng tan biến đi đâu? Cũng tan trở về tâm. Dù ý tưởng gì khởi lên, cũng đừng xem nó như một vấn đề trọng đại. Nếu bạn không phản kháng một cách ồn ào, nếu bạn cứ kiên nhẫn, thì nó sẽ lại trở về trong tự tính của nó.

Khi bạn hiểu được như vậy, thì những ý tưởng khởi lên chỉ làm tăng tiến việc thực tập thiền định của bạn. Mà nếu không hiểu như vậy, thì chúng lại trở thành hạt giống của mê mờ. Vậy hãy có một thái độ cởi mở từ bi đối với chúng, vì những ý tưởng ấy đều là gia đình của tâm bạn. Bạn hãy xử với chúng “như một ông già minh triết nhìn đứa trẻ đang chơi,” như Dudjom Rinpoche đã nói.

Chúng ta thường không biết làm sao với tính tiêu cực hay vài cảm xúc rầy rà. Trong tính khoáng đạt của thiền định, bạn có thể nhìn những ý tưởngcảm xúc bạn với một thái độ hoàn toàn cởi mở không thành kiến. Khi thái độ của bạn thay đổi, thì toàn thể không khí của tâm bạn cũng thay đổi, cả đến bản chất của những tư tưởngcảm xúc bạn. Khi bạn trở nên dễ chịu hơn, thì chúng cũng dễ chịu hơn; nếu bạn không khó khăn với chúng, thì chúng cũng không khó khăn với bạn.

Bởi thế, dù tư tưởng cảm xúc nào khởi lên, hãy để cho chúng lên xuống như sóng biển. Bất cứ gì bạn thấy mình đang nghĩ tới, hãy để cho ý nghĩ ấy tự sinh tự diệt không một gượng ép nào. Đừng nắm bắt nó, nuôi dưỡng nó, chạy theo nó; đứng bám lấy nó và củng cố nó. Không theo dõi những vọng tưởng, cũng không mời gọi chúng, bạn hãy giống như biển nhìn những làn sóng của nó, hay như bầu trời nhìn những đám mây bay qua nó.

Bạn sẽ thấy rằng những ý tưởng như cơn gió, chúng đến và đi. Bí quyết là đừng “nghĩ” về chúng, mà để cho chúng tuôn chảy qua tâm, đồng thời giữ cho tâm bạn thoát khỏi những “hậu” ý tưởng.

Trong tâm thường ngày, ta nhận thấy dòng tư tưởng như là liên tục; song kỳ thực không phải vậy. Bạn sẽ khám phá cho chính bạn rằng có một khoảng hở giữa hai ý tưởng. Khi niệm quá khứ đã qua, thì niệm tương lai chưa đến. Bạn sẽ luôn luôn tìm thấy một khe hở trong đó Rigpa, tự tính của tâm, làm hiển lộ. Vậy, công việc của thiền định là làm chậm lại dòng tư tưởng, để cho khoảng hở ấy trở thành rõ rệt hơn.

Thầy tôi có một người học trò tên Apa Pant, một nhà ngoại đạo Ấn, một tác giả, người đã làm đại sứ Ấn ở nhiều thủ đô khắp thế giới. Ông ta đã từng làm đại diện cho chính phủ Ấn tại Tây Tạng ở Lhasa, và có một thời gian ông làm đại diện ở Sikkim. Ông cũng là một thiền giả và người thực hành yoga, và mỗi lần gặp thầy tôi, ông đều hỏi làm sao để thiền. Ông đang theo một truyền thống Đông phương, trong đó người học cứ hỏi đi hỏi lại vị thầy một câu hỏi căn bản thật nhiều lần.

Apa Pant kể cho tôi nghe chuyện này. Một hôm thầy tôi Jamyang Khientse đang ngắm một màn vũ của các Lama trước Chùa Cung điện ở Gangtok, thủ đô Sikkim, đang khúc khích xem một người hề làm trò giữa hai màn vũ. Apa Pant cứ hỏi đi hỏi lại mãi cái câu làm thế nào để thiền định, bởi thế thầy tôi cho ông biết thầy trả lời ông ta một lần chót:

- Xem, nó giống như thế này: Khi ý tưởng quá khứ đã qua, mà ý tưởng vị lai chưa đến, có phải có một khoảng hở không?

Apa Pant đáp:

- Vâng.

Thầy tôi nói:

- Đấy, hãy kéo dài nó ra: Đó là thiền định.
 
 

KINH NGHIỆM

Khi bạn tiếp tục thực hành, bạn có thể có đủ thứ kinh nghiệm tốt cũng như xấu. Như một cái phòng có nhiều cửa sổ cửa lớn để cho không khí ùa vào từ mọi phía, cũng thế khi tâm bạn mở ra, thì tự nhiên mọi kinh nghiệm có thể vào trong tâm. Bạn có thể kinh quá những trạng thái hỉ lạc, sáng suốt, hay dứt mọi tư tưởng. Có thể nói đấy là những kinh nghiệm tốt, những dấu hiệu của sự tiến bộ trong thiền. Vì khi bạn có hỉ lạc, ấy là dấu hiệu dục vọng tạm thời lắng xuống. Khi bạn cảm thấy sáng suốt, là dấu hiệu sân giận tạm ngừng. Khi bạn kinh quá sự vắng bóng tư tưởng, là dấu hiệu vô minh tạm diệt. Tự bản chất, chúng là kinh nghiệm tốt, nhưng nếu bạn bám víu chúng thì chúng trở thành những chướng ngại. Kinh nghiệm tự chúng không phải là chứng ngộ, nhưng nếu ta thoát khỏi chấp thủ vào chúng, thì chúng là những nguyên liệu để chứng ngộ.

Những kinh nghiệm tiêu cực thường bị lầm nhất, vì người ta dễ xem chúng như dấu hiệu xấu. Nhưng kỳ thực chúng là những ân sủng trá hình. Hãy cố đừng phản ứng lại với sự chán ghét như bạn thường làm, mà thay vì thế, hãy nhận chân chúng chỉ là những kinh nghiệm, như huyễn như mộng. Sự nhận ra thực tính của kinh nghiệm sẽ giải thoát bạn khỏi tai hai nguy hiểm của nó, và do vậy ngay cả một kinh nghiệm xấu có thể trở thành một nguồn ân sủngthành tựu lớn lao. Có rất nhiều câu chuyện về những bậc thầy đã làm việc như vậy với những kinh nghiệm xấu và đã chuyển hóa chúng thành chất xúc tác cho sự chứng ngộ.

Theo truyền thống, người ta bảo rằng đối với một hành giả thực thụ, thì không phải nhưng kinh nghiệm xấu, mà chính những kinh nghiệm tốt mới gây ra chướng ngại. Khi mọi sự tiến hành tốt đẹp, bạn phải đặc biệt cẩn thận để khỏi đâm ra tự mãn hay quá tin. Nhớ lại Dudjom Rinpoche đã bảo tôi khi tôi gặp một kinh nghiệm rất mãnh liệt:

- Đừng quá náo nức. Cuối cùng, nó không tốt cũng không xấu.

Thầy biết tôi đang bám víu kinh nghiệm: Chính sự bám víu ấy phải được cắt đứt, như bất cứ sự bám víu nào khác. Điều chúng ta cần học trong thiền định cũng như trong cuộc đời, là giải thoát chấp thủ đối với những kinh nghiệm tốt, và giải thoát sự chán ghét đối với những kinh nghiệm xấu.

Dudjom Rinpoche cảnh cáo chúng ta một cái bẫy khác:

- Ngược lại, trong khi hành thiền, bạn có thể kinh quá một cảm giác bồng bềnh nửa tỉnh nửa mê, như là có cái mồng trên đầu bạn, một trạng thái chán chường mơ mộng. Đây chỉ là một tình trạng ứ đọng vô tâm. Làm sao bạn ra khỏi tình trạng ấy? Hãy thức tỉnh bạn, thẳng người lại, thở mạnh cho thán khí ra khỏi buồng phổi, và hướng sự tỉnh giác của bạn vào khoảng không gian trong sáng để làm tâm bạn tươi tỉnh lại. Nếu ở lại trong trạng thái tù đọng ấy, bạn sẽ không tiến bộ; bởi thế mỗi khi sự thụt lùi này xảy ra, thì bạn hãy xua tan nó nhiều lần. Điều quan trọng là bạn hãy thật tỉnh táo canh chừng.

Bất cứ phương pháp nào bạn sử dụng, hãy bỏ nó, hay để nó tự tan rã, khi bạn thấy mình đã đạt tới một trạng thái bén nhạy, rộng rãi, và bình an. Rồi tiếp tục an trú trong đó lặng lẽ không xao lãng, không cần dùng một phương pháp đặc biệt nào. Phương pháp đã làm tròn mục đích của nó. Tuy nhiên, nếu bạn trở nên phân tán, thì hãy trở lại sử dụng bất cứ kỹ thuật nào thích hợp để gọi tâm bạn trở lại.

Vinh quang thực sự của thiền định không nằm ở phương pháp, mà ở cái kinh nghiệm liên tục về sự tỉnh giác, sự hỉ lạc, sáng suốt, bình an, và quan trọng hơn cả là hoàn toàn vắng bóng chấp thủ. Sự giảm bớt chấp thủ trong chính bạn là dấu hiệu chứng tỏ bạn đang dần thoát khỏi chính mình.

Và bạn càng kinh quá sự giải thoát này, thì càng chứng tỏ cái ngã và những hy vọng sợ hãi đã nuôi dưỡng nó, đang tan rã, và bạn càng tiến gần hơn đến trí tuệ vô ngã. Khi bạn ở trong cái nhà trí tuệ ấy, bạn sẽ không còn thấy một rào ngăn nào giữa tôi và anh, tự và tha, trong và ngoài; cuối cùng bạn đã trở về ngôi nhà chân thực, nghĩa là trạng thái bất nhị.
 
 

NGHỈ NGƠI

Phần nhiều người ta hỏi:

- Tôi nên ngồi thiền bao nhiêu lâu? Lúc nào? Tôi có nên thực tập hai mươi phút sáng chiều, hay nên làm thành nhiều thời ngắn hơn trong ngày?

Vâng, nên ngồi trong hai mươi phút, mặc dù không muốn nói mức giới hạn là hai mươi phút. Trong kinh điển tôi chưa từng thấy ở đâu nói hai mươi phút; có lẽ đấy là một quan niệm mới bày đặt ra ở phương Tây, mà tôi gọi là “Thời hạn Thiền theo tiêu chuẩn Tây phương.” Vấn đề không phải là bạn phải ngồi bao lâu, mà vấn đề là sự hành thiền có thực sự đem lại cho bạn một trạng thái tỉnh thức và hiện trú hay không, một trạng thái trong đó bạn hơi cởi mở và có thể liên lạc với bản tâm của bạn. Và năm phút ngồi thiền tỉnh táogiá trị hơn nhiều so với hai mươi phút ngủ gà ngủ gật!

Dudjom Rinpoche thường nói một người mới tập nên tập từng thời ngắn. Hãy thực tập chừng bốn năm phút, rồi nghỉ ngơi chỉ chừng một phút. Trong khi nghỉ thì buông phương pháp ra, nhưng đừng buông hoàn toàn cái tâm tỉnh giác của bạn. Đôi khi, lúc bạn đang phấn đấu nỗ lực để thiền, thì kỳ lạ thay, vào đúng cái lúc bạn nghỉ ngơi không dùng phương pháp – mà nếu bạn vẫn duy trì tỉnh giác và hiện trú, – thiền định mới thực sự xảy ra. Đấy là lý do sự nghỉ ngơi cũng là một phần của thiền định, quan trọng như chính lúc ngồi. Tôi thường bảo những học trò nào gặp khó khăn trong khi thực tập, hãy tu tập trong lúc nghỉ ngơi và nghỉ ngơi trong lúc tu tập.

Hãy ngồi một thời ngắn, rồi nghỉ chứng ba mươi giây hay một phút. Nhưng trong lúc ấy hãy tỉnh giác đối với mọi sự bạn làm, mà đừng đánh mất sự hiện trú của bạn, sự thoải mái tự nhiên của nó. Rồi làm cho bạn tỉnh táo ra, và ngồi tiếp. Nếu bạn tập nhiều thời ngắn như thế, những thời nghỉ ngơi của bạn thường làm cho thiền của bạn thực hơn, gợi cảm hứng nhiều hơn, tẩy trừ sự cứng đơ, tính trịnh trọng và mất tự nhiên của sự tu tập, và đem lại cho bạn nhiều chú tâmthoải mái hơn. Dần dần, qua sự xen kẽ giữa thực tập và nghỉ ngơi như thế, cái hàng rào ngăn giữa đời sống thường ngày và thiền định sẽ sụp đổ, sự tương phản tiêu tan, và bạn sẽ thấy mình càng ngày càng ở trong trạng thái tỉnh giác hiện trú một cách tự nhiên không phân tán. Khi ấy, như Dudjom Rinpoche thường nói:

- Dù cho người thiền định từ bỏ thiền, mà thiền không bao giờ rời khỏi người.
 
 

HÒA NHẬP THIỀN VỚI HÀNH ĐỘNG

Tôi đã thấy rằng phần lớn những hành giả tâm linh ngày nay thiếu tri thức để hội nhập đời sống hàng ngày của họ với thiền định. Tôi không biết làm sao để nhấn mạnh điều này: Hội nhập thiền vào hành động chính là tất cả nền tảng, lý domục tiêu của thiền định. Sự bạo động, căng thẳng, những thử tháchxao lãng của đời sống tân tiến làm cho sự hội nhập này càng thêm khẩn thiết hơn nữa.

Có người phàn nàn với tôi:

- Tôi đã thiền mười hai năm, những vẫn chứng nào tật ấy. Tôi không thay đổi, tại sao?

Tại vì có một hố sâu giữa hành thiền của họ với đời sống hàng ngày. Họ dường như hiện hữu trên hai thế giới tách biệt, thế giới này không giúp gì cho kia. Tôi lại nhớ một thầy giáo hồi tôi còn đi học ở Tây Tạng. Ông ta giảng quy luật văn phạm rất xuất sắc, nhưng không bao giờ viết đúng được một câu nào.

Thế thì làm sao chúng ta có được sự hội nhập giữa đời sống hàng ngày với tư thái bình tĩnh, buông xả rộng rãi của thiền định? Không gì bằng thực tập thường xuyên, chỉ nhờ thực tập thường xuyên ta mới bắt đầu nếm được một cách không gián đoạn sự an tĩnh của tự tính ta, và có thể duy trì kinh nghiệm ấy trong đời sống hàng ngày.

Tôi luôn luôn bảo học trò tôi đừng xuất thiền quá nhanh: Hãy để vài phút cho niềm an lạc của sự hành thiền len lỏi vào đời bạn.

Thầy Dudjom Rinpoche tôi nói:

- Đừng nhảy lên bỏ chạy, mà hòa tâm tỉnh giác của bạn với đời sống hàng ngày. Hãy giống như người bị nứt sọ, luôn luôn cẩn thận canh chừng để người khác khỏi đụng vào mình.

Rồi sau thời thiền định, điều quan trọng là đừng đầu hàng cái khuynh hướng củng cố lối nhận thức của ta đối với sự vật. Khi bạn vào lại đời sống hàng ngày, hãy để cho tuệ giác, tri kiến, lòng bi mẫn, tính khí, sự khoáng đạt và giải thoát mà thiền đã đem lại cho bạn, thể nhập trong kinh nghiệm hàng ngày. Thiền khơi dậy trong bạn cái nhận thức vạn pháp đều huyễn hóa, như mộng; bạn hãy duy trì nhận thức ấy ngay trong lòng sinh tử. Một bậc thầy vĩ đại đã nói:

- Sau khi thực tập thiền định, người ta phải trở thành một đứa con của huyễn hóa.

Dudjom Rinpoche khuyên:

- Mặc dù mọi sự đều như mộng, huyễn hóa, bạn vẫn tiếp tục làm việc với thái độ hài hước. Chẳng hạn, nếu bạn đang đi dạo, hãy bước về khoảng trống khoáng đạt của chân lý. Khi ngồi, bạn hãy là thành trì của chân lý. Khi ăn, bạn hãy cho những thói tiêu cựcảo tưởng của bạn vào trong cái bụng của chân-không. Và khi đi cầu, hãy xem những chướng ngại đang được tẩy sạch.

Vậy, điều quan trọng không phải chỉ là ngồi, mà chính là trạng thái tâm của bạn sau thời thiền. Chính cái tâm trạng an tĩnh tập trung ấy, bạn hãy đưa nó vào trong mọi sự bạn làm. Tôi rất thích câu chuyện thiền trong đó môn đệ hỏi bậc thầy:

- Bạch thầy, làm sao ta đưa giác ngộ vào trong hành động? Làm sao ta thực hành thiền trong đời sống?

Vị thầy đáp:

- Bằng cách ăn, ngủ.

- Nhưng bạch thầy, ăn ngủ thì ai cũng ăn ngủ.

- Nhưng không phải ai cũng thực ăn lúc họ ăn, thực ngủ lúc họ ngủ.

Từ đấy có thiền ngữ nổi tiếng:

- Khi ăn, ta ăn; khi ngủ, ta ngủ.

Ăn khi bạn ăn và ngủ khi bạn ngủ có nghĩa là hoàn toàn hiện trú trong tất cả hành động của bạn, không có những sự phân tán của bản ngã xen vào. Đấy là hội nhập.

Và nếu bạn thực sự mong muốn hoàn thành việc này, điều cần yếu không phải là chỉ tập thiền thỉnh thoảng như uống thuốc trị bệnh, mà phải như ăn cơm bữa. Bởi vậy, một cách tuyệt hảo để phát triển khả năng hội nhập này, là đầu tiên hãy thực tập thiền trong một khung cảnh nhập thất, xa hẳn những căng thẳng của sinh hoạt đô thị ngày nay.

Người ta rất thường đến với thiền với hy vọng có những kết quả phi thường, như linh kiến, ánh sáng, hay một vài phép lạ siêu nhiên. Khi không có điều gì như vậy xảy ra, thì họ hết sức thất vọng. Nhưng phép lạ thực sự của thiền định lại “thuờng” hơn, và hữu ích hơn nhiều. Đấy là một sự chuyển hóa tế nhị, không chỉ xảy ra trong tâm bạn, cảm xúc bạn, mà thực sự cả trong thân bạn. Nó chữa lành. Những bác sĩ và nhà khoa học đã khám phá rằng khi bạn vui vẻ, thì những tế bào trong cơ thể bạn còn vui vẻ hơn, nhưng khi tâm bạn ở trong trạng thái tiêu cực, thì những tế bào của bạn có thể trở thành ác tính. Toàn thể tình trạng sức khỏe bạn, có quan hệ mật thiết đến trạng thái tâm bạn và lối sống của bạn.
 
 

NGUỒN CẢM HỨNG

Tôi đã nói rằng thiền địnhcon đường đưa đến giác ngộ và là nỗ lực lớn lao nhất của đời này. Mỗi khi nói về thiền định cho sinh viên, tôi luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải thực hành thiền với một kỷ luật quyết định và sự sùng kính nhất tâm; đồng thời, cũng rất quan trọng là thực hành thiền với cảm hứngtinh thần sáng tạo càng nhiều càng tốt. Có thể nói thiền là một nghệ thuật, và bạn nên tập thiền định với niềm hứng thú và giàu tính phát minh của một nghệ sĩ.

Hãy hăng hái đi vào sự an lạc của bạn như bạn đang cạnh tranh điên cuồng trong cuộc đời. Có nhiều cách đề làm cho thiền định trở thành một niềm vui. Bạn có thể tìm một bản nhạc ưa thích, và dùng nó để mở tâm trí bạn. Bạn có thể sưu tập thi ca, trích dẫn lời thánh nhân động đến tâm can bạn, và giữ chúng bên mình để làm bạn lên tinh thần. Tôi luôn luôn thích những bức tranh cổ thangka của Tây Tạng, vẻ đẹp của chúng làm cho tôi thêm năng lực. Bạn cũng có thể tìm những bức tranh gợi cho bạn cảm giác thiêng liêng, và treo lên tường phòng bạn. Lắng nghe băng giảng của một vị thầy vĩ đại, hoặc nghe tán tụng. Bạn có thể biến chỗ bạn ngồi thiền thành một thiên đường giản dị, với một đóa hoa, một cây hương, một ngón nến, một bức ảnh của bậc thầy đã giác ngộ, hay một tượng Phật. bạn có thể biến gian phòng thường nhất thành một nơi thiêng liêng ấm cúng, một khung cảnh mà mỗi ngày bạn đến gặp bản ngã đích thực của bạn với tất cả niềm vui và hạnh phúc như gặp bạn cố tri. Và nếu bạn nhận thấy thiền định không dễ dàng xảy đến trong phòng bạn ở đô thị, thì hãy ra ngoài thiên nhiên. Thiên nhiên luôn luôn là một nguồn cảm hứng bất tận. Muốn an tâm, bạn hãy đi dạo vào lúc bình minh trong công viên, hay ngắm sương mai trên một đóa hồng trong vườn. Nằm giữa đất mà ngắm nhìn bầu trời, để tâm bạn trải ra trong cái bao la đó. Hãy để cho bầu trời bên ngoài đánh thức bầu trời trong tâm bạn. Đứng bên dòng suối mà hòa tâm bạn vào tiếng nước chảy, ngồi bên thác đổ, để cho tiếng cười trong sáng của nó tịnh hóa tâm hồn bạn. Đi dạo trên bãi biển và hứng đầy gió biển trên mặt bạn. Mừng ánh trăng sáng để cho vẻ đẹp của trăng làm lắng tâm bạn. Ngồi trên hồ hay trong vườn, thở lặng lẽ, để tâm bạn im lặng khi trăng từ từ lên tráng lệ trong bầu trời không mây. Mọi sự đều có thể dùng làm sự mời gọi thiền định. Một nụ cười, một gương mặt trên tàu hầm, một cánh hoa mọc trong khe đá bên vệ đường, một tấm vải sặc sỡ treo trong cửa tiệm, ánh trời chiếu trên chậu hoa nơi cửa sổ. Hãy nhạy bén đối với mọi dấu hiệu của cái đẹp và vẻ diễm kiều. Dâng lên mọi niềm vui, tỉnh giác vào mọi lúc, trước “những tin tức luôn luôn đến từ im lặng.”

Dần dà bạn sẽ là người làm chủ lấy hạnh phúc của mình, tạo ra niềm vui cho chính mình, có đủ mọi phương pháp để thắp sáng, nâng cao, gợi cảm hứng cho từng hơi thở và động tác của mình. Thế nào là một thiền giả vĩ đại? Đó là người luôn luôn sống với sự hiện diện của cái tự ngã chân thực của mình, đã tìm rasử dụng liên tục suối nguồn của cảm hứng sâu xa. Nhà văn Anh Lewis Thompson viết:

- Kitô, thi nhân tối thượng, đã sống chân lý một cách say sưa đến độ mỗi hành vi của ngài đều là Hành vi thuần tịnh và ngôi Lời toàn hảo, thể hiện cái siêu việt.

Thể hiện cái siêu việt, đó là lý do chúng ta sống trên đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10160)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10431)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9700)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23652)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11860)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10736)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10089)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28709)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21639)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29445)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11409)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12383)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26359)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31055)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25361)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22830)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13067)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21982)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12242)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14160)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12470)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11267)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10710)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38096)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13683)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13479)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12361)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12598)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12072)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10729)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11224)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23378)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33228)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12817)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7411)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12199)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12638)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12057)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12875)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11959)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10709)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11384)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11681)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10896)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10814)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10395)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10494)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10724)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10649)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11925)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10707)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12749)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10824)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11402)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11101)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11645)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10521)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11270)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12317)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11186)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12497)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11433)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11526)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11322)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11597)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13014)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14194)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11020)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11882)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13181)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11592)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11443)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10943)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11297)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10835)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11068)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10902)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10273)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17126)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11019)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10879)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10425)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10779)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11396)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11090)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10589)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11392)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10362)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10662)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12784)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19297)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19730)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21317)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20359)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19779)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19069)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20505)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21111)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17952)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21863)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant