Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

9. Thương Yêu Chăm Sóc Mọi Người

05 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 9512)
9. Thương Yêu Chăm Sóc Mọi Người


9
THƯƠNG YÊU CHĂM SÓC MỌI NGƯỜI


Hạnh phúc chân thật trong cuộc sống bắt đầu có được khi bạn bắt đầu thương yêu chăm sóc mọi người.

Trao đổi mình với người

TƯ TƯỞNG BỒ ĐỀ TÂM thật vĩ đại khôngso sánh nổi. Bồ Đề Tâm làm nên mọi sự và khiến cho mọi người ưa thích, hài lòng. Bồ đề tâm đích thực là điều mà ta quan tâm trong cuộc sống này. Ngoài ra, bất cứ cái gì khác đều vô nghĩa, trống rỗng, vô ích.

Hạnh phúc chân thật và sự mãn nguyện chân thật sẽ xuất hiện khi bạn bắt đầu sống một cuộc sống vì người khác. Bạn nhập thất ẩn tu vì người, làm việc ở cơ quan cho người, nấu ăn cho người. Khi thái độ của bạn thay đổi nhằm để làm mọi việc, vì người khác, giúp dẹp bỏ khổ đau và tích luỹ hạnh phúc cho họ, lúc đó bạn sẽ có được sự mãn nguyệnbình an chân thật trong tâm.

Khi bạn đang nuông chiều bản thân, đang nghĩ về mình như “làm sao tôi được sung sướng?” hay “làm sao tôi tránh được các vấn đề?” lúc đó bạn sẽ không có được hạnh phúc trong tâm, mà chỉ là phiền muộn lo sợ. Bạn chỉ thấy các vấn đề và tâm bạn không thảnh thơi thoải mái. Nhưng ngay sau đó chỉ một giây lát khi bạn thôi không nghĩ đến mình mà quay sang quan tâm đến chúng sinh khác, dù chỉ quan tâm đến một chúng sinh mà thôi, thì lập tức tâm bạn sẽ được giải thoát khỏi sự trói buộc của vị kỷ, giống như tay chân thoát khỏi xiềng xích. Ngay khi đối tượng quan tâm không phải bản thân mình mà là một người nào đó thì tâm bạn cũng sẽ được thoát khỏi gông cùm của tư tưởng vị kỷ. Ngay khi bạn quan tâm đến người khác, lập tức có một sự bình an trong tận đáy lòng mình. Ngay trong khoảnh khắc không nghĩ đến mình, mà quan tâm chăm sóc những người khác, thì sẽ có ngay sự giải phóng, tức là thoát khỏi gông cùm của tâm vị kỷ siết chặt mình.

Khi nhận ra rằng các hoàn cảnh bất hạnh đến từ những mê lầm của tâm chưa được thuần phụcï thì các hành giả Phật Pháp sẽ dùng cách giải quyết này để phá tan mê lầm của họ. Bạn không nhận vào những gì mà suy nghĩ vị kỷ đưa lại cho bạn. Bạn có thể nhận vào mình các khổ đau và các vấn đề của những người khác. Thay vì đổ lỗi cho ai đó để mình được thoải mái nhẹ nhõm, thay vì để mặc ai đó chịu đau đớn, mất mát, thiếu thốn, gian khổ, bị mang tiếng xấu, bị phê bình, bị phạt, hay gì gì nữa thì bạn hãy nhận vào mình tất cả những điều tệ hại đó và để cho họ được đắc thắng. Đây đích thực là giáo huấn thực hành của Đại thừa về việc hoán đổi mình với người, buông bỏ cái ngã và yêu thương chăm sóc mọi người.

Ngay ở đây, với toàn bộ những vấn đề do suy nghĩ vị kỷ mang đến cho bạn, bạn hãy trả những vấn đề đó cho suy nghĩ vị kỷ này. Cũng giống như vậy, bạn dùng các vấn đề của bạn để phá hủy nguồn gốc các khổ đau của bạn, những vọng tưởngmê lầm của chính bạn. Như trong Lama Chopa có nói: 

Xin khẩn cầu ban phước sao cho con thấy được rằng bệnh vị kỷ mãn tính này là cửa ngõ dẫn tới mọi đau khổ, và con đổ lỗi tất cả cho suy nghĩ vị kỷ để con diệt cho được con quỉ vị kỷ to lớn này.

Chỉ biết chăm lo cho bản thân mình là đầu mối của mọi bất hạnh và các chướng ngại xảy ra như bệnh tật, thất bại trong công việc, trong học hành và trong tu tập Pháp. Theo đuổi những suy nghĩ vị kỷ chỉ mang tới các vấn đề và cácï thất bại. Thay vì đổ lỗi cho hoàn cảnh bên ngoài hay ôm giữ trong lòng toàn bộ các ác niệm do suy nghĩ vị kỷ đưa tới, bạn hãy sử dụng chúng để “diệt tận gốc con quỷ vị kỷ to lớn” của bạn. Bạn không chỉ đổ lỗi cho suy nghĩ vị kỷ mà còn hơn thế nữa, bạn trả các vấn đề lại cho nó, sử dụng chúng như là dược phẩm để chữa lành bệnh vị kỷ kinh niên, các vọng tưởng, các mê tín.

Dùng các vấn đề để huỷ diệt vị kỷ

Để đạt được hạnh phúc tối thượng bạn phải huỷ diệt vọng tưởng. Giáo Pháp, con đường Đạo, chư Phật, các vị thầy, vân vân, tất cả đều là phương tiện để huỷ diệt vọng tưởng của bạn, để phá hủy suy nghĩ vị kỷ của bạn và để điều phục tâm bạn.

Chịu đựng, chấp nhận sự phê bình sự bất kính hay sự đối xử tệ hại cũng giúp bạn phá huỷ suy nghĩ vị kỷ, suy nghĩ về bát phong. Điều này là tốt chứ không phải xấu. Do đó, phá hủy suy nghĩ vị kỷbát phong là cách tu tập Pháp.

Thông thường trong cuộc sống hằng ngày chúng ta nhận xét suy diễn rằng ai đó đã cư xử xấu, tệ bạc với chúng ta, nhưng thực ra những sự cư xử đó là tốt, là có lợi. Nó trở thành thuốc chữa bệnh vị kỷ và nhữngï suy nghĩ bát phong của chúng ta. Người nào mà cư xử tệ bạc với chúng ta là đang giúp chúng ta huỷ diệt vọng tưởng, gây tổn thương các suy nghĩ vị kỷ, bát phong, các ham muốn của chúng ta, đích thực giống như Pháp.Bằng cách cản trở mong ước của chúng ta, người đó ngăn chặn sự an nhànchúng ta tìm kiếm trong các suy nghĩ bát phong. Điều này chính xác y hệt như Pháp. Hành động của họ trở thành y dược thật sự để chữa lành tâm bệnh dai dẳngchúng ta đã bị đau từ vô thỉ, bệnh mãn tính của ba tâm độc.

Cũng giống như vậy với bất kỳ vấn đề hay tình huống bất hạnh nào mà bạn phải chịu đựng như bị ung thư bị sida, đó là kết quả của việc nuông chiều theo những suy nghĩ vị kỷ và ba tâm độc trong đời này cũng như trong các đời quá khứ. Suy nghĩ vị kỷ khiến ta không muốn có những bệnh tật này, ngược lại bệnh tật đích thị là thuốc chữa, là đường đạo, là Pháp.

Việc coi những người cư xử tệ bạc với chúng ta hay các tình huống bất hạnh (như bệnh tật) là không tốt sẽ không giúp gì cho chúng ta cả, trái lại nó còn hại cho ta và người khác. Hãy coi những người cư xử tệ đó, những tình huống bất hạnh đó là tốt, là có lợi cho sự tịnh hoá. Điều này sẽ giúp bạn làm tiêu hao cạn kiệt những ác nghiệp nặng ngay lúc này mà lẽ ra chúng ta phải kinh qua ở địa ngục trong vô vàn kiếp sau.

Thay vì cho là xấu, bất lợi khi có điều gì làm tổn thương tính vị kỷbát phong thì hãy coi nó là có lợi, là tốt. Hãy sử dụng nó để huỷ diệt vọng tưởng của bạn và để đạt tới giải thoát, giác ngộ. Và dù có hay không có cách giải quyết các vấn đề của bạn và đặc biệt nếu không có cách chữa trị thì bạn cũng có thể rút ra những lợi lạc từ các vấn đề của bạn đang khi bạn mắc phải. 

Trong một luận giảng về chuyển hóa suy nghĩ, đã có một ý nêu ra rằng: “Khổ đau là cây chổi quét sạch ác nghiệp và che chướng”.Việc bạn đang chịu đựng đang trải nghiệm các vấn đề nào đó sẽ là cây chổi, máy hút bụi để làm sạch các ác nghiệp, tẩy trừ các nhân của chúng.

Luận giảng cũng có nói: “Bệnh tật cũng là cây chổi quét sạch ác nghiệp và các che chướng”. Ở đây bệnh tật được nêu ra như một trong nhiều thí dụ, điều này có thể áp dụng cho bất kỳ vấn đề nào. Các vấn đề trong cuộc sống có thể trở thành lời dạy của đức Phật. Nếu các vấn đề được nhìn với góc độ tích cực thì bạn có thể sử dụng chúng để huỷ diệt suy nghĩ vị kỷ của bạn.

Trong phép tu chod, bạn cố ý tạo ra một tình huống khiếp sợ và khẩn cầu các sinh linh phẫn nộ để giết cái ngã của bạn. Đối với các hành giả đã chứng ngộ cao và đã thành công trong phép tu chod thì thật dễ dàng trong tình huống như vậy để thấy rõ đối tượng cần bác bỏ tức là cái tôi hiện hữu chắt thật. Bạn càng nhận ra nó nhanh hơn thì bạn càng có khả năng hơn để chứng ngộ bản chất tối thượng tức là tính Không của cái tôi, và của ngũ uẩn, vân vân.

Tuy nhiên bạn không cần phải dựa vào chod để tạo ra tình huống màbạn có thể chứng ngộ tánh Không . Bất kể tình huống bất hạnh nào như bị bệnh, bị phê bình hay bị tổn thương bởi ai đó…cũng là tình huống y như chod . Những người gây phiền hà trong cuộc sống hằng ngày của bạn thì y hệt như các sinh linh mà bạn khẩn cầu đến để quấy nhiễu bạn khi bạn đang thực hành chod. Khi có người như vậy đang gây khó khăn cho bạn, thay vì nổi lên sự tức giận uất ức và tạo ra ác nghiệp, bạn hãy dùng họ để nhận ra đối tượng cần bác bỏchứng ngộ tính Không . Bạn có thể sử dụng các hoàn cảnh hằng ngày mà bạn đã đang kinh qua để chứng ngộ tánh Khôngtu tập bồ đề tâm, điều này đồng nghĩa với việc huỷ diệt tính vị kỷ.

Vì những người mà họ gây bực tức cho bạn là người (gián tiếp) huỷ diệt tính vị kỷ của bạn và các vọng tưởng khác, đích thị như Pháp, Phật, và vị thầy đã dạy, nên trên thực tế họ không phải hại bạn mà đang giúp bạn. Giống như một cái gương soi, họ bày ra cho bạn thấy những lỗi lầm của bạn và như vậy là giúp bạn bằng phương thức cốt lõi nhất. Bằng việc chỉ cho bạn thấy những vọng tưởng của bạn và giúp bạn loại trừ chúng, bằng việc phá huỷ vọng tưởngbát phong, theo cách thức đó, họ đang ban phát cho bạn hạnh phúc tối thượng.

Bằng việc huỷ diệt tính vị kỷ của bạn, những người này mang giác ngộ đến cho bạn, bởi vì chướng ngại to lớn nhất ngăn chận giác ngộsuy nghĩ vị kỷ, chỉ biết lo cho mình. Và chướng ngại chính ngăn cản giải thoát là những ham muốn đang cột chặt bạn với luân hồi. Về phương tiện điều phục tâm, người nào huỷ diệt bát phong của bạn thì được coi là quý báu, vĩ đại như một vị Thầy, một vị Phật. Thông qua việc tạo ra nhân để bạn phát triển đường đạo trong tâm, họ giúp bạn có thể đạt giác ngộ. Con người này được coi là quý báu như Phật, như Pháp.

Con người này không có động cơ làm lợi cho bạn, lại hoá ra là quý báu, là tử tế như vậy đấy. Một ví dụ nữa chẳng hạn, Trí tuệ chứng ngộ tánh Không giúp bạn ngừng dứt vọng tưởng nhưng tự nó không có động cơ nào. Dược phẩm cũng rất quý báu vì nó chữa lành bệnh tật nhưng bản thân dược phẩm không hề có động cơ giúp ai.

Bạn không phải vì muốn tử tế với bản thân mình mà tự chăm sóc cho mình. Không có lý do đó. Do vậy, chăm lo một ai đó không cần phải vì họ đã tử tế với bạn. Tại sao không chăm sóc những người khác y như bạn chăm sóc bản thân mình? Tại sao không thương yêu chăm sóc cho kẻ thù là người (gián tiếp) giúp bạn tu tập Pháp, phát triển đường đạo và đạt giác ngộ? Con người này (kẻ thù) quý báu vô cùng, đích thực y như vị Thầy, vị Phật và Pháp. Có vô lượng lý do tại sao bạn nên thương yêu chăm sóc một người như vậy.

Chúng sinh hữu tìnhvô lượng

Bạn chỉ là một người. Ngay cả nếu bạn bị sinh vào địa ngục bạn cũng chỉ là một chúng sinh, nên không có gì để thấy quá tuyệt vọng về điều đó. Ngay cả nếu bạn đạt được giải thoát khỏi luân hồi, bạn cũng chỉ là một chúng sinh, nên không có gì để quá phấn khởi về điều đó. Tất cả chúng sinh hữu tình vô lượng, những ai được gọi là “chúng sinh khác” họ đích thực giống như bạn trong sự mong cầu hạnh phúc và không mong muốn khổ đau. Những mong ước của họ chính xác y như của bạn, và họ là vô lượng. Bạn cho rằng bạn quan trọng và quý báu như thế nào thì từng mỗi chúng sinh đó cũng quan trọng và quí báu như thế đó, và họ là vô lượng. Bạn chỉ là một người, hoàn toàn không quan trọng. Bạn chẳng là gì cả nếu so sánh với toàn bộ chúng sinh vô lượng rất quý báu rất quan trọng. Bạn chẳng phải quý báu, quan trọng (khi so với số đông-ND). Ví dụ, ngoài bạn ra có hai người, hai người này về số lượng mà tính thì nhiều hơn bạn, do vậy quan trọng hơn. Điều này cũng giống như sự khác biệt giữa một rupee (tiền Ấn Độ) và hai rupee: hai rupee thì giá trị lớn hơn một rupee. Và một trăm rupee thì giá trị hơn một rupee. Một ngàn rupee thì giá trị nhiều hơn một rupee. Để bạn chọn giữa một rupee và hai rupee bạn sẽ lấy hai rupee. Nếu chọn giữa một trăm rupee và một rupee dĩ nhiên bạn lấy một trăm. Nếu được chọn thì sẽ ngu xuẩn khi lấy một rupee. Tự nhiên bạn sẽ chọn lấy số lượng lớn hơn. Tương tự, khi bạn so sánh bản thân mình với một trăm, hay một ngàn hay một triệu người hay với vô lượng chúng sanh hữu tình thì bạn chẳng quý báu, chẳng quan trọng gì cả.

Nếu so sánh với tất cả chúng sanh hữu tình số lượng không kể xiết thì bạn chẳng nhằm nhò gì, chẳng đáng kể. Cũng vậy, từng cõi trời, a tu la, súc sanh, ngã quỉ, địa ngục chứa đựng số lượng chúng sanh không thể đếm được. Chỉ riêng số lượng loài kiến là đã không thể đếm được. Nên giữa bạn và chúng, chúng quan trọng hơn. Trong một phòng tối, thậm chí trong một góc phòng, đã có rất nhiều muỗi, chúng quan trọng và quý báu hơn. Nếu tính chi tiết, hãy nghĩ đến từng cõi, từng loài sinh vật. Có rất nhiều chúng sinh trong chỉ một cõi súc sinh : bướm, sâu, ruồi. Nếu bạn tính kỹ thì có vô số không thể tưởng tượng. Chỉ trên quả đất này, ngay cả trong một quốc gia cũng đã có vô số. Cũng như bạn, tất cả những chúng sinh này muốn hạnh phúc và không muốn khổ đau. Trong cuộc đời của bạn không có gì quan trọng hơn là làm việc cho chúng sinh hữu tình : xoa dịu các nỗi đau của họ và mang lại hạnh phúc cho họ. Không có gì quan trọng hơn điều này. Ngoài việc sống cuộc đời phụng sự chúng sinh hữu tình, mọi việc khác đều vô nghĩa, trống rỗng.

Cá nhânchúng ta gọi là “tôi” thì hoàn toàn không đáng kể khi so sánh với không biết bao nhiêu người, với loài vật vô lượng và các loài chúng sinh hữu tình khác vô lượng å. Mỗi khi chúng ta phát nguyện Bồ Đề Tâm với suy nghĩ “tôi sẽ đạt Giác Ngộ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh hữu tình” chúng ta phải hiểu chúng sinh này bao gồm tất cả, dĩ nhiên kể cả toàn bộ kiến và muỗi. Hãy nghĩ tới có bao nhiêu sinh vật đang chịu khổ đau ở một nơi trên núi, như sâu, như ruồi; Bồ đề tâmchúng ta phát nguyện bao gồm toàn bộ các loài đó. Bồ đề tâm cũng bao gồm toàn bộ các con cá và toàn bộ các con vật ăn thịt cá. Bồ đề tâm cũng bao gồm từng riêng mỗi con của vô số sinh vật sống trong nước, lớn cũng như nhỏ, ăn thịt lẫn nhau. Mỗi khi chúng ta phát nguyện bồ đề tâm, mong ước vị tha đem lại hạnh phúc cho chúng sinh, mong ước đó bao gồm không phân biệt toàn bộ loài người có giòng giống chủng tộc khác nhau, bao gồm từng mỗi sinh vật sống ở nước, ở trên cạn, ở không trung. Bồ đề tâm gồm cả từng mỗi chúng sinh hữu tình không có sự thiên lệch thành kiến.

Tư tưởng vị tha này nhằm đạt giác ngộ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh hữu tình là một thái độ, một tâm nguyện không thể nghĩ bàn. Khi bạn phát tâm bồ đề bạn nghĩ tới việc đem lại lợi lạc cho từng mỗi người. Không kể là họ đang có vấn đề gì, họ sống ở đâu, phương Đông hay phương Tây, hay ở Trung Đông, hay ở một thế giới khác, bạn hãy nghĩ tới tất cả. Không thể bỏ sót dù một chúng sinh hữu tình.

Tại sao chúng ta cần có tâm giác ngộ (Phật tâm-ND) 

Mỗi chúng sinh hữu tình có một căn cơtính cách khác nhau và bạn phải biết phương pháp nào thích hợp chính xác cho từng người. Bạn nên có khả năng chỉ nói một lời cùng một lúc cho hàng triệu người mà lại thích nghi được cho từng người nghe. Mỗi người nghe sẽ hiểu khác nhau tuỳ theo căn cơ và nghiệp khác nhau; nhưng trong cùng một lúc tuỳ theo nghiệp, những gì họ nghe sẽ giúp họ tụ tập theo một con đường đúng đưa tới giải thoátgiác ngộ.

Nhưng giờ đây chúng ta không có khả năng biết được căn cơ và nghiệp của thậm chí một chúng sinh hữu tình. Để có khả năng dẫn dắt một chúng sinh một cách trọn vẹn không lỗi lầm dù nhỏ nhất, cũng như để đem lợi lạc đến cho họ một cách lớn lao, chúng ta cần biết đủ mọi chi tiết về căn cơ và cá tính từng người.

Cũng vậy, để dẫn dắt dù chỉ một chúng sinh hữu tình từng bước đến giác ngộ, chúng ta cần hiểu biết cái gì cơ bản của toàn bộ con đường đạo. Chúng ta không chỉ triển khai một phương pháp mà thôi. Chỉ một phương pháp thì không thể thích hợp cho mọi người. Phải có nhiều phương pháp khác nhau phù hợp căn cơ của nhiều người. Ví dụ: Khi bảo với Ajatashatru (tiếng Tạng: Makyeda) kẻ đã giết cha mẹ, rằng “cha và mẹ là những đối tượng bị giết” Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã khiến cho ông ta cảm thấy vui sướng. Trong cơn tuyệt vọng và lo sợ, lời nói trên đã có ích lợi cho Ajatashatru. Trên thực tế, nó giúp ông ta nhận ra vô ngã về con ngườivô ngã về ngũ uẩn và ông ta hiểu được rằng hai vô minh (nhân ngã và uẩn ngã – ND) cần được loại bỏ. Những lời nói này đã là nhân cho Ajatashatru nhận ra tánh Không. Thay vì kẹt trong nghĩa đen của lời nói, ông ta đã hiểu những lời dạy đó có nghĩa rằng hai loại vô minh, cái tôi và ngũ uẩn, trước đã chấp là hiện hữu chắc thật, giờ đây cần được loại bỏ.

Nói rằng mọi sự là hiện hữu chắc thật, sẽ có thể thích hợp đối với tâm của một số người. Nghe được như vậy là họ sẽ tu tập tốt hơn và sẽ đạt hạnh phúc. Dù cho không thể có một chút xíu hiện hữu chắc thật, nhưng đối với những người này, người mà không có khả năng nhận thức rằng không có một hiện hữu chắc thật nào cả, ta cần giảng với họ rằng Đức Phật nói có hiện hữu chắc thật, bởi vì việc giảng dạy như vậy sẽ là phương tiện từng bước dẫn dắt họ đến giải thoátgiác ngộ.

Để dẫn dắt chúng sinh từng bước đạt tới hạnh phúcgiác ngộ, người thầy phải thấy được từng mỗi nghiệp riêng lẻ, từng căn cơ và cá tính của mỗi người đồng thời phải biết nhiều phương pháp khác nhau thích hợp cho từng người. Và khả năng này chỉ có thể có được với tâm giác ngộ (Phật tâm). Ngay cả các vị Arhat, đấng đạt được những năng lực tâm linh vô biên cũng không thể thấy được từng mỗi nghiệp riêng lẻ. Mặc dù đã thoát khỏi những che chướng quấy nhiễu tâm, nhưng các vị Arhat vẫn chưa cởi bỏ hết những che chướng rất vi tế để đạt Phật tâm cho nên các vị đó không thể thấy được các nghiệp quả vi tế hay các hành động bí mật của chư Phật. Các vị Arhat không thể dẫn dắt chúng sinh hữu tình một cách trọn vẹn mặc dù bản thân họ đã thoát khỏi luân hồi.

Do đó, để hành động trọn vẹn trong việc làm lợi lạc cho tất cả chúng sinh hữu tình, ta phải thành tựu trạng thái tâm giác ngộ tối thượng cho dù mất bao nhiêu đại kiếp, bao nhiêu gian khổ. Không còn cách nào khác. Chừng nào chưa đạt tâm giác ngộ thì những chứng ngộ của tâm mình chưa hoàn chỉnh và ta không thể cho chúng sinh hữu tình những gì họ cần, đó là hạnh phúc vô thượng, vĩnh cửu. Thành tựu giác ngộ là điều có ý nghĩa nhất mà ta có thể làm để có được lợi lạc cho mình và các chúng sinh khác. 

Chúng tatrách nhiệm 
với tất cả các chúng sinh hữu tình

Chúng ta có thể hiểu được ý tưởng về hạnh phúc tối thượng từ mỗi một thí dụ hằng ngày. Nếu được chọn thì ngay cả súc vật cũng sẽ chọn lấy thức ăn ngon nhất và không lấy thức ăn ít ngon hơn. Con chó cũng làm như thế. Khi đi mua sắm hay đi làm kinh doanh người ta cố gắng có cái tốt nhất bằng cách mua hàng hoá chất lượng tốt nhất, bền nhất. Dù họ không biết có thể đạt được một mục tiêu như sự giác ngộ, nhưng hằng ngày tất cả mọi người đều mong ước điều tốt nhất. Nếu không phải vì quá nghèo, thì ai cũng vậy, khi có điều kiện sẽ cố gắng có cái tốt nhất, xây được ngôi nhà bền nhất và đẹp nhất. Dù cho không hiểu biết gì về giác ngộ nhưng ai cũng nghĩ đến việc có được hạnh phúc tốt nhất. Chỉ vì thiếu con mắt trí tuệ Pháp mà người ta không biết rằng giác ngộ là việc chính đáng nhất họ cần phải đạt nhưng lại không được chú ý tới trong cuộc sống của họ. 

Cũng như bạn, mỗi chúng sinh luôn cố gắng có được hạnh phúc tốt nhất. Điều mà mọi người cần phải thấy hạnh phúc tốt nhất là giác ngộ viên mãn, trạng thái thoát khỏi tất cả che chướng và hoàn tất mọi chứng ngộ

Đang có được thân người hoàn chỉnh, gặp được vị thầy quý báu dẫn dắt chúng ta trên đường đạo tới giải thoátgiác ngộ, gặp được Phật Pháp, đặc biệtgiáo lý Đại thừa nên mỗi người trong chúng ta có cơ hội giúp chúng sinh thoát khỏi toàn bộ che chướng và khổ đau, dẫn dắt họ tới trạng thái giác ngộ viên mãn. Chúng ta có cơ hội này để giúp họ, bởi vì chúng ta đã nhận được toàn bộ những điều kiện cần thiết để phát triển tâm, để triển khai con đường đạo từng bước đến giác ngộ và để thành tựu tâm giác ngộ, đó là tâm có được lòng đại từ đại bi vô lượng đối với tất cả chúng sinh hữu tình cũng như có khả năng dẫn dắt họ. Do đó chúng tatrách nhiệm giúp chúng sinh hữu tình thoát khỏi mọi khổ đau và nhân khổ đau, loại bỏ chướng ngại, dẫn dắt dọ tới trạng thái giác ngộ viên mãn. Tôi thường dùng thí dụ này: Nếu bạn thấy một người mù đang bước tới mép sườn dốc đứng, bạn phải lập tức giữ họ lại trước khi họ bị rơi xuống vực. Không cần thiết phải xem coi họ có cần bạn giúp hay không. Nếu bạn có đủ các điều kiện cần thiết, có mắt để thấy, tay chân để chạy đến giữ họ lại, lời nói để kêu họ và như vậy bạn có khả năng giúp người mù. Thật đơn giản, vì có đủ điều kiện, bạn có trách nhiệm giúp người đang có nguy cơ sắp rơi xuống vực.

Thật là hổ thẹn và kinh tởm nếu ai đó có khả năng giúp khi thấy người khác có hoàn cảnh hiểm nguy mà lại không ra tay. Dù gì đi nữa cũng không hoàn thành được chức năng của mắt và tay chân, vì mắt và tay chân dùng để giúp người. Nếu sự việc tồi tệ như thế xảy ra thì thật tội nghiệp cho người sắp bị rơi xuống vực và thật kinh tởm cho người có đủ điều kiện giúp người mà không giúp.

Và thật là tệ hại và độc ác nếu bây giờ chúng ta có đủ điều kiện cần thiếtchúng ta lại không tu tập bồ đề tâm, tinh hoa của giáo lý Đức Phật, đặc biệtgiáo lý Đại thừa, nếu chúng ta không nuôi dưỡng thiện tâm tối thượng này, nếu chúng ta không phát triển khả năng dẫn dắt chúng sinh, nếu chúng ta không đạt được giác ngộ để phụng sự chúng sinh một cách trọn vẹn, và thay vào đó chúng ta sống với những suy nghĩ vị kỷ chỉ biết lo cho bản thân mình, cho hạnh phúc riêng của mình mà thôi. Như vậy thật là ích kỷđộc ác. Thực ra, chúng ta hoàn toàntrách nhiệm để dẫn dắt các chúng sinh hữu tình đến giác ngộ.

Phải biết hy sinh mình

Thái độ quan tâm đến chúng sinh sẽ phát sinh một ước muốn tự nhiên là mang hạnh phúc đến cho họ và không làm hại họ. Bạn không muốn đưa họ đến khổ đau. Hãy nhớ lại câu chuyện một vị Bồ tát làm thuyền trưởng đã hoàn toàn hy sinh mình, cam tâm đi vào địa ngục khi giết một người có ý định sắp giết năm trăm thương gia. Để giúp người đó tránh khỏi tạo ra ác nghiệp nặng, vị thuyền trưởng bồ tát chấp nhận sinh vào địa ngục. Nhưng thay vì trở thành ác nghiệp nặng và là nhân để sinh vào địa ngục, hành động giết người của vị thuyền trưởng đã rút ngắn thời gian sống trong luân hồi một trăm ngàn kiếp. Bằng việc phát sinh bồ đề tâm, thương và lo lắng cho kẻ định giết người này, bằng việc hoán đổi mình với chúng sinh này, vị thuyền trưởng Bồ tát đã tích luỹ công đức vô lượng và đã đến gần giác ngộ.

Có một câu chuyện về ngài Vô Trước (Asanga). Trong mười hai năm, ngài cố gắng hoàn thành quả Đức Phật Di Lặc trong thiền định, nhưng ngài đã thất bại không thấy được Đức Phật Di Lặc. Vào một ngày trên đường về hang động nơi ẩn cư, ngài thấy con chó bị thương với những con giòi bao khắp thân. Ngài cảm thấy bi mẫn đến mức không thể chịu nổi, Trước tiên ngài cắt thịt ở chân và rải trên mặt đất quanh con chó để dụ các con giòi rời khỏi con chó và đến chỗ các miếng thịt. Sau đó vì tránh dùng tay bốc con giòi ra sợ làm chúng chết, ngài cúi người xuống với ý định dùng lưỡi nhẹ nhàng đưa các con giòi ra khỏi con chó. Khi cúi người xuống với đôi mắt nhắm lại, ngài biết không thể chạm trúng con chó. Nên ngài mở mắt ra và bất ngờ thấy được Đức Phật Di Lặc ngay đấy chứ không phải con chó. Lòng bi mẫn và các hành động hy sinh mình để cứu con chó bị thương đã trở thành sự tịnh hoá rất mãnh liệt; và chỉ sau sự hy sinh này ngài Vô Trước mới thấy được Đức Phật Di Lặc.

Có rất nhiều câu chuyện như vậy. Việc hy sinh mình để bảo vệ, dù chỉ một chúng sinh hữu tình thoát khỏi khổ đau và dẫn dắt họ tới hạnh phúc, là một sự tịnh hoá cực kỳ mãnh liệt. Nó không chỉ tịnh hoá được ác nghiệp trong nhiều đại kiếp mà còn giúp tích tụ rất nhiều công đức, mang bạn đến gần giác ngộ.Ta có thể đạt giác ngộ nhanh chóng bằng sự hy sinh mình để chăm lo cho dù chỉ một chúng sinh , đó là lý do để thương yêu chăm lo người khác.

Tính vị kỷ chỉ biết chăm lo cho mình, là một chướng ngại cho sự phát triển tâm, cho sự phát triển các chứng ngộ của đường đạo. Nếu bạn chỉ biết chăm lo cho mình thì sẽ không có sự giác ngộ, nhưng nếu bạn biết chăm lo chúng sinh dù chỉ một thì sẽ có giác ngộ. Việc chăm lo người khác dù chỉ có một cũng có thể đạt giác ngộ

Cho nên có sự khác biệt lớn. Sẽ không có hy vọng giác ngộ nếu chăm lo cho bản thân mình, nhưng nếu biết chăm lo người khác dù chỉ một, sẽ đưa bạn đến giác ngộ vì nó tịnh hoá các chướng ngại và tích luỹ vô lượng công đức. Từ những câu chuyện và những lý lẽ này ta có thể kết luận rằng một chúng sinh mà thôi cũng đã là quan trọng hơn bản thân mình. Dù không để ý tới việc toàn bộ chúng sinhquý báu với số lượng không thể tính được bạn cũng có thể thấy được rằng chỉ một chúng sinh hữu tình cũng đã quý báu vô vàn. Có rất nhiều cách giải thích giá trị của một người khác và tất cả lợi lạc bạn có thể có được từ họ.

Cái gọi là “tôi” là đối tượng cần loại bỏ mãi mãi, cái gọi là “ những chúng sinh khác” dù chỉ một chúng sinh hữu tình là đối tượng cần yêu thương chăm lo mãi mãi. Đây là lý do tại sao bạn sống để làm lợi cho người khác, tận hiến cuộc sống của bạn cho dù chỉ một chúng sinh hữu tình, việc này sẽ đem lại sự hưởng thụ to lớn nhất và cuộc sống vui thích nhất. Hạnh phúc chân thật sẽ phát sinh một khi bạn chăm lo người khác. Sống vì mọi người chăm sóc người khác với lòng từ ái và bi mẫn là cửa ngõ đi tới hạnh phúc, cửa ngõ đi tới giác ngộ.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11387)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11552)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13543)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14124)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10310)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10773)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11327)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11281)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11440)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10169)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9968)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10710)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11319)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42220)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10488)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11864)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10012)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10454)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10623)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45769)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11325)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10705)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11323)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10633)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13460)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12374)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11023)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10618)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12311)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11169)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11845)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29283)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9215)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10543)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10243)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10586)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10804)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32136)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17791)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11875)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10445)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11698)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10427)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10787)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28068)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10153)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10282)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10648)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10771)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11226)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10403)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10690)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11474)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18255)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10522)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12847)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11751)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29191)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28597)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28304)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13320)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22777)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13436)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11580)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13818)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25725)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26084)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22314)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14482)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11807)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11489)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33193)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12035)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39631)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22490)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11960)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14229)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13347)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12072)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10404)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11232)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13310)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34525)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12623)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12228)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13533)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12622)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12981)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16300)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11749)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27392)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28433)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant