Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 7: Đức Phật vô lượng quangcõi tịnh độ cực lạc của Ngài

05 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10342)
Chương 7: Đức Phật vô lượng quang và cõi tịnh độ cực lạc của Ngài

CHƯƠNG 7

ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG
CÕI TỊNH ĐỘ CỰC LẠC CỦA NGÀI

Một tâm đầy đủ niềm tin nơi Đức Phật Vô Lượng Quang
Thì chắc chắn tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc siêu phàm.
Một tâm tỉnh thức với những phẩm tính-Phật 
Đều được hợp nhất với Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, bất kể nó ở đâu.

Vũ trụ học đạo Phật chứa đựng vô số hệ thống thế giới bao la không thể tưởng vượt khỏi thế gian của chúng ta. Bên ngoài thế giới phàm tục, sáu cõi của luân hồi, hiện hữu vô số cõi tịnh độ trải rộng khắp mười phương của vũ trụ (tám điểm chính của la bàn, điểm cao nhất, và điểm thấp nhất). Những thiên đường thanh tịnh này là nơi an trụ của những đấng cao cả, bao gồm chư Phật và các đại bồ tát của cõi trời.

Giữa vô số cõi tịnh độ này, một số đặc biệt quan trọng, bao gồm cõi tịnh độ của Phật Vairochana, Vajrasattva, Avalokiteshvara, Tara, Maitreya, và Guru Padmasambhava. Cõi tốt nhất được biết là Sukhavati, Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, tọa lạchướng Tây, vượt trên rất nhiều vũ trụ. Thế giới lý tưởng này là nơi an trụ của Đức Phật Vô Lượng Quang, Ngài chủ trì trên vô số người tìm cầu giác ngộ, tu khổ hạnh, và những đệ tử khác. Vì ánh sáng thân Ngài tràn đầy mọi cõi Phật tịnh độ khác không chướng ngại, danh hiệu Ngài là Amitabha trong tiếng Phạn, có nghĩa Vô Lượng Quang.

Amitabha là trọng tâm của truyền thống sùng kính được biết như Cõi Tịnh Độ của Phật giáo trở nên rất phổ biếnTrung Quốc, Hàn Quốc, và Nhật bản. Ở Tây Tạng, Cõi Tịnh Độ Cực Lạc là đối tượng yêu thích của cầu nguyệnthiền quán, nhất là trong những nghi lễ cho người chết. Trong sutra, Đức Phật lịch sử, Thích Ca Mâu Ni, cam đoan với người sùng mộ rằng đây là tịnh dộ dễ dàng nhất để tái sanh, và là nơi hoan hỷ, hùng mạnh nhất để nâng cao đến giác ngộ. Bất kỳ ai thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc sẽ đạt được toàn giác, tối thiểu trong một kiếp, vì những phẩm tính của tịnh độ này, sự ban phước của Đức Phật Vô Lượng Quang, và công đức của chính họ.

NGUỒN GỐC CỦA TRUYỀN THỐNG TỊNH ĐỘ

Một vài kinh điển đạo Phật là suối nguồn của cõi Phật tịnh độ. Cả sutra (giáo lý công truyền) và tantra (giáo lý mật truyền) bao gồm những danh hiệumô tả nhiều cõi tịnh độ khác nhau, mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã đưa chú ý lớn nhất để diễn tả Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Đức Phật A Di Đà, trong những chi tiết sống độngđẹp đẽ. [1] 

Về sự quan trọng đặc biệt là hai sutra Đại Thừa như Sukhavati-vyuha Sutra Rộng lớn và Sukhavati-vyuha Sutra Nhỏ. Những giáo lý này là luận giảng của Đức Phật cho những người thân cận của Ngài. Ngài dạy sutra lớn trên Đỉnh Núi Chim Kên Kên (Núi Gridhakuta) gần thị trấn Rajagriha (ngày nay là Rajgir, Tiểu Bang Bihar, ẤnĐộ) cho Ananda và Ajita cùng với rất nhiều đệ tử khác tụ hội. Ngài dạy sutra nhỏ ở Greta Grove (ngày nay là Shravasti, Bang Uttar Pradesh, Ấn Độ) cho Shariputra và một đại tập hội những đệ tử.

Hai sutra này đã xuất hiện trong nhiều bản dịch, bao gồm Trung Quốc (từ thế kỷ thứ ba C.E) Hàn Quốc và Nhật Bản (từ thế kỷ thứ bảy). Đại dịch giả Tây Tạng Yeshe De chuyển từ tiếng Phạn sang Tây Tạng vào thế kỷ thứ chín. Chương này dựa chủ yếu trên bản dịch Tây Tạng cũng như một số bản văn và luận giảng khác.

BA PHƯƠNG DIỆN CỦA TỊNH ĐỘ

Như chúng ta đã ghi chú trước đây, Đức Phật Vô Lượng Quangcõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài mô tả trong sách này thuộc về “thân hóa hiện”, một trong ba phương diện của thân hay Phật quả.

Đầu tiên là thân tối thượng (pháp thân), đó là sự vô tướng, tánh thanh tịnh của Phật quả, giống hệt với tự thân thực tại. Nó là trạng thái tuyệt đối của rộng mở và rỗng rang hoàn toàn, thoát khỏi chiều kích, đặc tính, và giới hạn.

Thứ hai là thân hỷ lạc (báo thân), là trạng thái nhất nhưbất nhị. Đây là tịnh độ của sắc thân, thanh tịnh và bất khả phân với tự thân trí tuệ-Phật. Nó tỏa khắp, vĩnh cửu, bất biến, và luôn hỷ lạc.

Tịnh độ tối thượngtịnh độ hoan hỷ chỉ có những bậc giác ngộ mới có thể thấy.

Phương diện thứ ba của Phật quả là thân hóa hiện (hóa thân). Đây là thân thể mà Phật Thích Ca Mâu Ni và chư Phật khác xuất hiện trong cõi người chúng ta. Sự biểu hiện tịnh độ là tướng tương đối mà người bình thườngngười trần tục như chúng ta có thể nhận biết nếu tích lũy việc làm công đức. Nếu được tái sanh vào một trong những tịnh độ an bình, hỷ lạc, chúng ta sẽ nâng cao được thành tựu tâm linh và đạt tới tịnh độ tuyệt đối.

Như tôi đã nhấn mạnh ở một số lúc, sự nhận thứckinh nghiệm chúng ta có vào những giai đoạn khác nhau của cuộc sống, nhất là vào lúc chết, là một kết quả của thói quen tinh thầnchúng ta đã phát triển, nuôi dưỡng trong dòng tâm thứcquá khứ. Nếu tâm chúng ta bị khích động và chuyển thành một sân hận, thù ghét, và nhận thức tiêu cực mãnh liệt, thì những hình tướngkinh nghiệm của đời này, nhất là đời sống tương lai chúng ta sẽ xuất hiện trong dạng địa ngục. Nếu tâm chúng ta được chiếm chỗ bởi an bình, hoan hỷ, suy nghĩ và hành động quan tâm, và nếu hưởng thụ những nhận thức tích cực, như sắc tướngcảm giác của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, thì thế giới sẽ xuất hiện như cung điện, nơi chúng ta tái sanh sẽ là một thế giới tích cực của an bìnhhoan hỷ, như Cõi Tịnh Độ Cực Lạc.

Trọng tâm chính của rèn luyện mô tả trong sách này là nhận tái sanh trong thân hóa hiện của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Điều này dễ dàng hơn bất cứ cõi tịnh độ khác vì nguyện lực hùng mạnh của Đức Phật Vô Lượng Quang đem tất cả chúng sanh đến Cõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài và giúp họ đạt được giác ngộ.

NGUYỆN LỰC CỦA ĐỨC PHẬT 

Sukhavati-vyuha Sutra Lớn kể về chuyện Cõi Tịnh Độ Cực Lạc xảy ra như thế nào. Vô lượng kiếp trước, một vị tu sĩ gọi là Dharmakara – người mà định mạng trở thành Phật A Di Đà – đã phát triển thái độ giác ngộ (Phạn, bồ đề tâm) và lập một nguyện trước vị thầy Ngài, Đức Phật Lokeshvara, rằng Ngài sẽ phục vụ tất cả chúng sanh. Vào lúc đó, Dharmakara cũng lập nguyện khao khát đặc biệt để tạo ra cõi tịnh độ vô song của Ngài với một số phẩm tính hiếm thấy. Khi Ngài đạt được Phật quả, nguyện của Ngài đã kết quả trong vũ trụ của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc.

Theo phiên dịch sutra của Tây Tạng, Dharmakara lập năm mươi mốt nguyện hoặc hứa dẫn dắt chúng sanh đến cõi tịnh độ mới trong tương lai của Ngài.[2] Năm nguyện sau đây cho chúng ta một ý niệm về những nguyện này và cõi tịnh độ của Ngài.

Trong nguyện đầu tiên, Dharmakara nguyện không đạt Phật quả nếu bất cứ chúng sanh nào sinh vào tịnh độ của Ngài phải chịu đựng đau khổ của cõi bán thiên, súc sinh, ngạ quỷ, hoặc địa ngục. Do vậy, chẳng hạn từ lúc một chúng sanh của địa ngục thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, mọi đau khổ của ở địa ngục của họ sẽ chấm dứt và trở nên chúng sanh hạnh phúc của tịnh độ. (Hãy nhớ lại sự khác biệt giữa chúng sanh của những cõi thấp và của một cõi tịnh độ về cái thấy và cảm nhận những đối tượng tinh thần xuất hiện trong tâm thức như thế nào.)

Trong nguyện thứ hai, Ngài hứa không đạt Phật quả trừ khi mọi chúng sanh đều được tái sanh vào cõi tịnh độ của Ngài, không bao giờ phải chịu tái sanh vào bất kỳ cõi thấp nào nữa.

Trong nguyện thứ tư, Ngài hứa không đạt Phật quả, nếu chúng sanh tái sanh vào cõi của Ngài, đều sẽ có những đặc tính hơn hẳn những cõi người và trời khác. Ngài muốn tịnh độ của Ngài hoàn toàn thanh tịnh mà cũng có những phẩm tính tương tự với cõi người và trời.

Trong nguyện thứ mười chín, Ngài hứa không đạt Phật quả cho đến khi tất cả những ai muốn thọ tái sanh vào tịnh độ của Ngài, và người thực hành cầu nguyện hồng danhhồi hướng công đức cho tịnh độ, thật sự được tái sanh vào tịnh độ: “Cầu mong điều này được như vậy, ngay cả nếu có người lập lại ý niệm thọ tái sanh trong tịnh độ của Ta chỉ mười lần, chừng nào họ không phạm bất kỳ ‘năm tội vô gián’ hoặc từ bỏ Giáo Pháp.” Những điều kiện này Đức Phật không có nhiệm vụ lựa chọn; nếu chúng sanh không rộng mở để giải thoát, Đức Phật không thể áp đặt lên họ.

Trong nguyện thứ mười ba, Ngài hứa không đạt Phật quả cho đến khi những chúng sanh của tịnh độ tương lai của Ngài, không chỉ thoát khỏi đau khổ mà còn được ban nhiều phẩm tính tâm linh như trí tuệ bao latự tín.

Nguyện bi mẫn của Phật A Di Đà thật sự hùng mạnh. Nhưng bằng những nguyện này không thể chấp nhận chúng ta tái sanh trong tịnh độ. Chúng ta phải làm phần của mình, phải không ngăn chận cơ hội bằng việc vi phạm ngũ vô gián tội hay từ bỏ Giáo Pháp, và chúng ta phải rộng mở con đường đến cõi tịnh độ với “bốn nguyên nhân” thọ tái sanh trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc (xem phụ lục A).

NĂNG LỰC CỦA HỒNG DANH ĐỨC PHẬT 

Phật A Di đà đã nguyện dẫn dắt tất cả người lập lại tên Ngài đến cõi tịnh độ. Tên Ngài trở thành một cánh cửa, qua đó chúng ta có thể thấy Đức Phật Vô Lượng QuangCõi Tịnh Độ Cực Lạc của Ngài.

Phật giáo Đại Thừa dạy chúng ta nhận ra mọi sự đều như sắc tướng, âm thanh, và kinh nghiệm của giác ngộ. Nhưng để đạt tới mục đích này, chúng ta cần đi qua một cánh cửa đặc biệt – hoặc nó là một hình ảnh Phật, một cảm giác an bình, hoăïc một âm thanh tích cực. Một trong những cánh cổng như vậy là danh hiệu của Phật Amitabha, chính Ngài đã ban phước để giúp chúng ta tới với Ngài và Ngài có thể đến với chúng ta.

Hồng danh của Phật Amitabha là sự hiện diện, trí tuệ, lòng bi, và năng lực thật sự của Ngài. Khoảnh khắc chúng ta ý thức được tên Ngài, Ngài liền trong chúng ta và cùng với chúng ta. Vậy nếu chú tâm tập trung một điểm và hợp nhất với danh hiệu Ngài với lòng sùng kính, chúng ta bắt đầu hưởng thụ một đại dương của những phẩm tính giác ngộ. Sự sùng kínhniềm tin nơi Đức Phật sẽ tự nhiên nở hoa. Chẳng bao lâu sau chúng ta sẽ thấy rằng chẳng có chỗ cho tinh thần tiêu cựccảm xúc phiền não như tham, sân, si, và ghen tị. Khi chúng ta trở thành kinh mạch tràn đầy sự ban phước của Đức Phật, chúng ta phục vụ lẫn nhau một cách tự phát. Bất cứ những gì chúng ta nghe, thấy, và cảm nhận đều xuất hiện như hiện diện của Ngài. Tái sanh trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc tự nhiên là bước kế tiếp. Và sự đạt được Phật quả, là nơi đến cuối cùng của chúng ta sẽ tới.

Nếu danh hiệu ban phước trở thành hơi thởtư duy của chúng ta với lòng sùng kínhtán thán, thì ngay cả trong lúc chúng ta nhận thức những hình ảnh, âm thanh, hoặc cảm nhận bình thường – dù chúng ta đang sống, sắp chết hay trong bardo – chúng ta sẽ luôn được kết nối với Đức Phật qua danh hiệu của Ngài.

Nếu bạn có thể niệm danh hiệu hay cầu nguyện-danh hiệu trong ngôn ngữ nguyên thủy (Phạn ngữ) hoặc trong một ngôn ngữ đã được ban phước bởi vô số các bậc giác ngộ, như Phạn và Tây Tạng thì đặc biệt hùng mạnh. Nhưng nếu cầu nguyện trong ngôn ngữ của bạn thì gợi cảm hứng cho bạn nhiều hơn, sử dụng ngôn ngữ của bạn sẽ khéo hơn, vì điều quan trọng là mở rộng tâm với lòng sùng kính và phát triển tín tâm.

Chúng ta nên niệm danh hiệu đã ban phước của Đức Phật Vô Lượng Quang càng nhiều càng tốt. Phụ lục A giải thích cách dùng danh hiệu ra sao.

CÕI TỊNH ĐỘ RA SAO?

Thân hóa hiện của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc xuất hiện trong nhiều cách tương tự với những phẩm tánh cao nhất của cõi người và trời. Vậy, những chúng sanh sinh vào đây sẽ có thân tướng giống như trời và người.

Mặc dù sự biểu hiện tịnh độ này xuất hiện như đối tượng của khái niệm và cảm xúc nhị nguyên, tuy vậy những phẩm tính tích cực và rộng mở của nó sẽ nở hoa. Nó là một xứ sở thiên đường, vị trí ở trên trời (không trong biển hay đất liền) và đầy dẫy những vật chất quý báu. Nó hoạt động trong trật tự có thứ bậc của những vị thầy và đệ tử. Tất cả chúng sanh được sinh vào tịnh độ này là những đệ tử, và giữa những đệ tử này là chư bồ tát, lần lượt phục vụ người khác như các vị thầy.

Cõi Tịnh Độ Cực Lạc tương tự với cõi người và trời trong cấu trúc chiều kích, sự phân biệt kích cỡ và khoảng cách, và một khu vực thời gian tương đối. Tuy nhiên, nó không là chủ thể cho con người đau khổ, như sinh, già, bệnh, và chết, cũng không có đau khổ như cõi trời, như khi chết bị xuống cõi thấp. Giải thích vì sao nó được gọi là Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã nói, “Trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, thân thể của chúng sanh không bị đau khổ. Không có đau khổ trong tâm họ. Lại có vô số nguyên nhân tạo ra hạnh phúc. Đó là điều tại sao cõi này được gọi là Cõi Tịnh Độ Cực Lạc.”

Đất đai của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc mềm mại và bằng phẳng, giống như lòng bàn tay của một thanh niên. Nó bao la, trẻ trung, tươi mát, dịu dàng, và là nguồn an ủi khi tiếp xúc, và không có gai, sỏi, đá hay núi đá. Nó yên tĩnh, thanh bình, hỷ lạc, và tinh khiết. Nó được làm bằng bảy vật liệu quý[3] và trang hoàng với những thiết kế bằng vàng chẳng có bất cứ dấu vết của sự thô kệch, xù xì, dơ bẩn, tối tăm, hoặc hư hoại. Nó tỏa sáng và đầy màu sắc, phát ra những tia sáng. Trong chính cõi tịnh độ này, vô lượng cõi Phật tịnh độ khác xuất hiện như sự phản chiếu bề ngoài của một gương trong sáng. Người ta có thể thấy những cõi tịnh độ này giống như đang xem những lục địa khác trên một máy truyền hình trong phòng khách.

Tịnh độ này không có bóng tối hoặc những rặng núi bình thường, mà được trang hoàng bằng nhiều loại ngọc quý với những đỉnh cao và thấp. Đó đây, những rặng núi được trang hoàng bằng rất nhiều ngọc quý, những kho tàng quý giá, những hang động chứa châu báu, và những lều bạt được làm bằng những dây nho tinh tếđẹp đẽ.

Những cây cối cực đẹp trong thiết kế nhiều màu sắc tô điểm cho phong cảnh. Đó là những cây được làm bằng một, hai, ba vật liệu quý. Nhiều cây khác được làm bằng bảy vật liệu quý: gốc rễ được làm bằng vàng, thân bằng bạc, cành nhánh bằng lam ngọc, lá bằng pha lê, cánh hoa làm bằng carnelian, hoa làm bằng ngọc trai-mẹ, và quả bằng hồng ngọc. Những cây này khi xúc chạm đều mềm mại và dễ chịu, tỏa ra hương thơm dịu trong mọi phương. Những âm thanh êm dịu được mang đi bởi những luồng gió.

Tịnh độ này được trang hoàng với những hồ, ao, sông sâu và rộng, ở đó mọi người chơi đùa với sự thanh thản to lớn. Những bước chân thoải mái trên ngọc quý dẫn đến ao, hồ đầy tràn nước trong sạch. Mặt đất được làm bằng ngọc quý và che phủ bởi cát bằng vàng. Những hồ đầy nước với tám tính chất lành mạnh: đó là trong trẻo, mát mẻ, nhẹ nhàng, tinh tế, mềm mại, tinh khiết, lành mạnh cho cổ họng và bao tử. Những hoa sen trên trời tỏa ra hương thơm thiên đường trôi nổi trên mặt nước. Nhiệt độ của nước thay đổi tùy theo bạn muốn. Những dòng sông trôi chảy với âm thanh của hàng trăm ngàn bản giao hưởng mà bất cứ âm nhạc cõi thiên nào cũng không thể sánh được. Bờ hồ và sông đầy những lùm cây nhỏ tỏa hương thơm phong phú. Những dòng sông ngân vang giáo lý Phật Pháp bao lathâm sâu theo lệnh bạn.

Vô số chim muông biểu thị nơi ở của cõi Phật tịnh độ. Giống như núi non, bông hoa và những đặc trưng khác của vùng đất, chim muông là mọi biểu hiện của Đức Phật và là chính bản thân Đức Phật. Hiểu theo nghĩa thông thường, chúng là suối nguồn của an bình, hoan hỷ, trí tuệ, và giác ngộ, không phải suối nguồn của rối loạn, bám chấp, tham lam, hay thù hận. Giống như một người trong cõi bình thường nghe chim hót bình thường, bạn sẽ nghe chim hót những âm thanh cực lạc của Giáo Pháp. Tuy nhiên, nếu thích yên tĩnh, những gì bạn sẽ nghe chỉ là âm thanh của tĩnh lặng.

Mọi bông hoa đều làm bằng vật chất quý nhiều màu sắc. Chúng lớn như nửa, một, hay mười yojana (một do tuần tương đương với bốn ngàn sải, một sải bằng 1m82). Từ mỗi hoa xuất hiện những tia sáng vàng, trên mỗi tia sáng vô số chư Phật xuất hiện. Sự xuất hiện của chư Phật tràn đầy vô lượng hệ thống thế giới, tuyên thuyết giáo lý như sư tử hống đến tai tất cả chúng sanh nào mở rộng lắng nghe.

Những đệ tử trong tịnh độ không dựa vào thực phẩm thô. Nhưng nếu muốn, bất cứ cao lương mỹ vị nào cũng sẽ xuất hiện trước họ và làm thỏa mãn không cần phải ăn. Tương tự, bất kỳ họ muốn – trầm hương, dầu thơm, lọng, phướng, nhạc cụ, quần áo, hoặc đồ trang sức –sẽ xuất hiện trước họ khi muốn. Nhưng những thứ này sẽ không xuất hiện với những ai không muốn.

Với những người muốn lâu đài, sẽ xuất hiện những lâu đài nhiều tầng, nhiều mái vòm được làm bằng vật liệu quý, đầy những ghế, giường, những trang hoàng của thiên đường vô giá, và các trang trí kỳ lạ. Mỗi cung điện đầy dẫy chư thiên cung cấp vô lượng âm nhạc và các giải trí ưa thích. Các đệ tử du hành qua bầu trời cùng với lâu đài linh thiệng, vườn hoa, rừng, sông, và ao hồ của họ.

Mỗi buổi sáng, trưa, chiều, tối, nửa đêm và bình minh, những làn gió nhẹ thổi từ bốn phương đến thăm mọi người. Chúng đem cơn mưa hoa thơm ngát từ những cây và che phủ mặt đất với những cánh hoa nở rộ mềm như lụa. Khi được ngọn gió thơm tiếp xúc, bạn cảm thấy cực lạc như thể trong thiền định thể nhập. Chẳng bao lâu sau, các bông hoa cũ trên mặt đất sẽ biến mất; được thay thế bằng những hoa mới.

Đó đây, những cơn mưa mùi hương đem lại những bông hoa và đồ trang sức lấp lánh, đi kèm với âm nhạcchư thiên khiêu vũ.

Trong tịnh độ, mọi sắc tướng, âm thanh, và cảm giác đều là hình ảnh, và kinh nghiệm của Giáo Pháp. Điều này không có nghĩa hình tướng trở thành hình ảnh-Phật hoặc âm thanh trở thành lời của kinh điển đạo Phật, mà là tất cả suối nguồn hoặc sự hiện diện của an bình, hỷ lạc, và giác ngộ.

Nơi trung tâm tịnh độ phong phú này là Cây Giác Ngộ, cao khoảng sáu trăm ngàn do tuần (yojana). Nó được trang hoàng với những hoa, lá, quả làm say đắm, và được trang trí với các châu ngọc quý báu và những tràng hoa bằng vàng. Khi gió tiếp xúc, chúng phát ra những âm thanh lôi cuốn khiến rất nhiều hệ thống thế giới nghe được. Tất cả ai nghe, thấy, hay ngửi được Cây Giác Ngộ – hoặc nếm được quả, tiếp xúc ánh sáng của nó, hoặc suy nghĩ trong tâm thức về nó – sẽ được giải thoát khỏi những khái niệm lưỡng lự và các cảm xúc phiền não.

Kích thước và hình tướng Cây Giác Ngộ được mô tả ở đây tùy theo cách người thường có thể thấy, nhưng trong thực tế không thể nghĩ bàn về nó. Tại gốc cây là một ngai hoa sen khổng lồ. Đây là chỗ ngồi của Đức Phật Vô Lượng Quang, từ đó Ngài giảng dạy và giải thoát cho tất cả. [4] 

ĐỨC PHẬT VÔ LƯỢNG QUANG VÀ NHỮNG ĐỆ TỬ CỦA NGÀI

Giống như Vua của Những Ngọn Núi vượt xa trên mọi đỉnh thấp hơn, Đức Phật Amitabha cũng siêu vượt tất cả với sự hiện diện huy hoàng của Ngài. Thân Ngài thanh tịnhtinh khiết,10 trang hoàng ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp của một bậc siêu phàm. Thân Ngài thuần tịnh và bao la như bầu trời, sáng rực với ánh sáng không thể nghĩ bàn, toả sáng vô lượng cõi tịnh độ trong mười phương. Ánh sáng của Ngài là sự giác ngộ, đức hạnh, và trí tuệ. Sự rực rỡ, đẹp đẽ và tinh khôi này giống như ánh sáng pha lê, kích động thân và tâm của bất kỳ ai khi nó tiếp xúc với cực lạc, trí tuệ, và hoan hỷ siêu phàm. Do vậy, Ngài được biết là Đức Phật Vô Lượng Quang, vì tuổi thọ của Ngài là vô lượng, nên Ngài cũng được biết là Đức Phật Vô Lượng Thọ.

Ngữ của Ngài sinh ra những giai điệu liên tục của Giáo Pháp. Tâm giác ngộ của Ngài là một đại dương an bình bao latrí tuệ sâu sắc. Ngài biết mọi đối tượng qua trí tuệ toàn giác không giới hạn. Tâm Ngài tràn đầy tình thương và lòng bi cho tất cả những ai đau khổ, giống như người mẹ yêu thương đứa con duy nhất. Với đại tự tin, Ngài làm tâm chúng ta hoan hỷđáp ứng những gì ta cần với dòng chảy liên tục của giáo lý như cam lồ vô tận. Với cống hiến nồng nhiệt, Ngài chia sẻ với mọi người cam lồ thành tựu siêu phàm mà Ngài đã giác ngộ. Giống như ông chủ chăn đàn gia súc, Ngài du hành chậm rãi nhưng kiên định, dẫn dắt tập hội đệ tử bao la như đại dương.

Trong tịnh độ của Ngài, Đức Phật Vô Lượng Quang chỉ huy vô số đệ tử không thể nghĩ bàn. Bao gồm những vị tìm kiếm giác ngộ cho chính họ (Phạn, Thanh vănđộc giác Phật) và những vị tìm kiếm sự giác ngộ cho người khác (Phạn, Bồ Tát). Trong số các vị Bồ Tát là tám bồ tát: Avalokiteshvara, Mahasthamaprapta, Manjushri, Kshitigarbha, Sarvanivaranaviskambini, Akashagarbha, Maitreya, và Samantabhadra. Tất cả các Ngài sở hữu năm bậc trí tuệ phi thường như sau, (1) Sở hữu khả năng kỳ diệu du hành trong khoảnh khắc qua vô số hệ thống thế giới để giảng dạy người khác. Mỗi buổi sáng những vị đệ tử này du hành đến vô số cõi tịnh độ khác để gặp và tỏ lòng tôn kính đến những đức Phật ở đó và nghe giáo lý của các Ngài, trước khi trở về Tịnh Độ Cực Lạc. (2) Có khả năng nhớ lại các sự kiện từ nhiều kiếp quá khứ, cho mục tiêu học hỏi và giảng dạy. (3) Thiên nhãn thông, các Ngài có khả năng tìm kiếm trong vô số hệ thống thế giới để nhận ra người cần được bồ tát phục vụ. (4) Thiên nhĩ thông, các Ngài có khả năng nghe giáo lý của vô số chư Phật cũng như những lời cầu nguyện của vô lượng chúng sanh. (5) Các Ngài biết trạng thái tâm thức của chúng sanh trong vô số xứ sở để phục vụ họ một cách thích hợp. Qua những năng lực kỳ diệu này, chư bồ tát lo liệu hạnh phúclợi ích cho vô số chúng sanh trong nhiều hệ thống thế giới.

Không phải tất cả chúng sanh được sinh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc đều có năng lực như vậy. Điều này là vì họ vẫn còn nghi ngờ về việc được tái sanh vào tịnh độ và thiếu niềm tin tuyệt đối vào năng lực của Đức Phật Vô Lượng Quang và các nguyện của Ngài.

Những chúng sanh khác thọ tái sanh vào tịnh độ này có thể ở lại trong bụng một hoa sen trong năm trăm năm và không thể thấy Đức Phật trong suốt thời gian đó. Họ sẽ hưởng thụ thanh bìnhhạnh phúc trong hoa sen tinh khiết, nhưng vì còn nghi ngờ, nên hoa vẫn đóng và họ không thấy cõi tịnh độ và Đức Phật.

Không phải tất cả đệ tử trong tịnh độ này là bồ tát thập địa, hay địa cao nhất, những bậc tìm kiếm giác ngộ cho người khác, mà với tất cả những đệ tử đây sẽ là kiếp cuối của họ trước khi đạt Phật quả, mọi người ở đây sẽ đạt giác ngộ – trừ khi họ chọn khác đi – cám ơn năng lực của nguyện đức Phật. Không đệ tử nào dẫn dắt cách sống của một chủ gia đình, với một phối ngẫu và gia đình, vì tất cả đều thoát khỏi sự bám luyến vào những đối tượng gợi khoái lạc. Không ai lạc khỏi ý thức, tình cảm, và giới luật thân thể chánh đáng, cho một cách sống hòa nhập với tịnh độ như vậy. Chúng sanh trong Cõi Tịnh Độ Cực Lạc trong sạch hơn bất cứ chúng sanh của cõi phàm tục nào. Thậm chí họ vượt lên cả sự phân loại nam và nữ. Tuy nhiên, theo sutra và giáo lý của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc, dù không có người nam hay nữ bình thường giữa những người được tái sanh vào tịnh độ, vẫn có những vị thánh nam và nữ biểu hiện bởi Đức Phật Vô Lượng Quang để phục vụ chúng sanh.

Không có sinh ra bằng tử cung, vì tất cả đều được sinh ra bởi những bông hoa nhiều màu sắc, hương thơm dịu dàng, quý báubao la. Không một ai tạo ra nước tiểu, chất thải, hay mủ, vì chúng sanh ở đây không có thân thô nặng hoặc ăn thực phẩm thế gian.[5] 

Đức Phật đã nói:

Trong tịnh độ của Đức Phật Vô Lượng Quang,
Vì mọi hưởng thụ thực phẩm đều là thiền định thể nhập,
Nên thậm chí không có tên gọi của thực phẩm [thông thường].

Mọi người đều có nước da thuần khiết như vàng ròng. Thân của tất cả đệ tử trong tịnh độ đều tráng kiện và hùng mạnh, phô diễn ba mươi hai dấu hiệu của bậc ưu tú. Ánh sáng trí tuệ của thân họ tỏa sáng toàn bộ không gian. Đức Phật nói:

Trong tịnh độ của Đức Phật Vô Lượng Quang,
Ánh sáng trí tuệ của các bậc tôn quý luôn tỏa sáng.
Không có bóng tối,
Và không có sự khác biệt giữa ngày và đêm.

Tâm họ thanh bình vì tràn đầy tự tin và trí tuệ. Họ hoan hỷ vì bất cứ những gì hưởng thụ dều tự nhiên không bám chấp, hoặc thèm khát, hay bị phiền não bởi chúng. Thậm chí những người chưa vượt lên đau khổ và những nguyên nhân gây khổ vẫn trụ trong hỷ lạc liên tục nhờ vay mượn năng lực của cõi tịnh độ. Không ai phải chịu bệnh tật và tuổi già. Thọ mạngvô tận vì lực của công đức. Ngay sau khi tái sanh vào tịnh độ, mọi kinh nghiệm đau khổ sẽ chấm dứt, vì không có cảm giác đau khổ trong cõi tịnh độ.

TÁI SANH TRONG CÕI TỊNH ĐỘ CỰC LẠC

Những mô tả về Cõi Tịnh Độ Cực Lạc này chỉ là một phần thoáng qua của những phẩm tính phong phú không thể tưởng của nó. Trong thực tế, ngay cả thiên nhãn thông cũng không thể thấy tất cả các phẩm tính này, mà là sự vô tận, và thậm chí chư Phật cũng không thể giải nghĩa tất cả chúng, vì ngôn từ không đủ giải thích.

Theo kinh điển, nguyện của Đức Phật Vô Lượng Quang thật hùng mạnh, nếu bạn nhớ đến Ngài, không chỉ được tái sanh vào cõi tịnh độ của Ngài, mà còn thấy được Ngài trong thân người trong cuộc sống cũng như trong giấc mộng hay linh kiến của bạn. Vào lúc bạn chết, Đức Phật Vô Lượng Quang sẽ xuất hiện trước bạn giữa đại dương các đệ tử của Ngài. Nhất là nếu bạn nhờ đến Đức Phật Vô Lượng Quang trong bardo, thì ký ức đó sẽ giúp bạn tái sanh vào tịnh độ của Ngài. Đó là vì trong bardo, việc thay đổi hoàn cảnh của bạn được dễ dàng hơn.

Để tái sanh vào cõi tịnh độ, bạn không cần đạt được bất cứ nhận thức thiền định cao. Vì năng lực nguyện của Đức Phật, những gì bạn cần là thực hành bốn nguyên nhân làm rộng mở tâm và dễ tiếp thu với một triển vọng như vậy. Điều kiện duy nhất là bạn không phạm bất kỳ năm tội vô gián hoặc từ bỏ Giáo Pháp. Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy bốn nguyên nhân như vầy:

Này, Ananda, đó là người [1] suy nghĩ kỹ lưỡng về Đức Phật [Vô Lượng Quangcõi tịnh độ của Ngài] nhiều lần. [2] Họ đã tạo nhiều công đức vô lượng. [3] Họ phát triển tâm giác ngộ [bồ đề tâm]. [4] Họ hồi hướng công đức của họ và lập nguyện khao khát được tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc. Khi chết, họ sẽ tái sanh trong pháp giới của Cõi Tịnh Độ Cực Lạc.

Do trau dồi sùng kính và nhớ tưởng Đức Phật Vô Lượng Quang, chúng ta chắc chắn sẽ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc phi thường của Ngài, một vũ trụ của thanh bình vĩnh cửuhỷ lạc siêu phàm, và trở thành suối nguồn thanh thảnhài lòng cho người khác. Cơ hội kỳ lạ này là lời hứa của Đức Phật Vô Lượng Quang cho mỗi người chúng ta. Chân lý của hứa nguyện này được chính Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tuyên thuyết. Nó đã được các bậc thánh của đạo Phật và những người sùng mộ chứng minh bằng con đường du hành qua nhiều thời đại.

Một số Phật tử tự xem họ là “vô thần” có thể cho rằng Cõi Tịnh Độ Cực Lạc chỉ dành cho những người mộ đạo với một tiếp cận hữu thần. Tuy nhiên, hãy xem ví dụ của Ngài Nagarjuna. Ngài là người đề xướng quan trọng nhất của học thuyết tánh Không của Phật Giáo Đại Thừa, một học phái vô thần bác bỏ những cực đoan của hiện hữu, phi hiện hữu. Tuy vậy, chính Đức Phật lịch sử đã tiên tri rằng “một vị tăng tên Naga[rjuna]... sẽ thọ tái sanh vào Cõi Tịnh Độ Cực Lạc khi rời bỏ thân xác.” Vậy, nếu vị thầy quan trọng nhất của học phái vô thần vĩ đại nhất của Phật giáo đã được sinh vào tịnh độ, thì bất kỳ người đi theo nào, dù hữu thần hay không, đều có thể khao khát được sinh vào đó.
Để dễ dàng tái sanh vào tịnh độ, điều quan trọng cho người sắp chết là có cả hai hệ thống hỗ trợ bên trong và chung quanh họ. Chương kế tiếp nói về cách người giúp đỡ có thể lo liệu hỗ trợ đó ra sao.

[1] Ngài Je Tsongkhapa viết rằng đây là các mô tả nhiều biểu hiện tịnh độ trong sutra, nhưng sự mô tả cõi Tịnh Ðộ Cực Lạc được Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni giải thích kỹ lưỡng trong các đặc điểm hết sức chi tiết.
[2] Theo bản văn của Phật giáo Ðại Thừa, phần 2 trang 73: bốn mươi sáu nguyện được liệt kê trong bản văn tiếng Phạn, và bốn mươi tám nguyện trong bản dịch của Trung Quốc.

[3] Theo quyển ‘Phags Pa Od dPag ... bên cạnh vàng, bạc, lam ngọc, pha lê, và hồng ngọc, có hai tên khác trong tiếng Tây Tạng mà tôi không biết là sPug và rDo’i sNying Po . Theo Kinh Văn Phật Giáo Ðại Thừa, bảy vật liệu quý là vàng, bạc, chất khoáng berin (hổ phách?), pha lê, san hô, hồng ngọc, và ngọc lục bảo.

[4] “Theo Ngài Jigmed Tenpe Nyima và các nguồn khác, Ðức Phật Vô Lượng Quang cũng giảng dạy trong một cung điện làm bằng ngọc quý. Cũng không chắc rằng cung điện có ở tại gốc Cây Giác Ngộ hay không.”

[5] Theo những bản văn Abhidharma (A Tỳ Ðàm, hãy xem NG 183a/2 và CND [Ch’os mNgon Pa mDzod...] 30/18) Vào lúc khởi đầu của thời đại chúng ta, nhiều aeon trước, nhân loại trên trái đất này không phân biệt nam, nữ. Họ không giao hợp, và mọi người được sinh ra bằng những phương tiện kỳ diệu. Người ta không cần ăn thực phẩm thô cũng như không dựa vào ánh sáng của mặt trờimặt trăng, vì họ tự tỏa sáng bằng ánh sáng rực rỡ của chính thân họ. Họ bay qua bầu trời như chim, dù không có cánh. Dần dần, con người bắt đầu hưởng thụ vật chất thế gian và sau đó kinh nghiệm cảm xúc thô. Ðiều này làm họ mất năng lực bay và sự tỏa sáng. Chẳng bao lâu sau, họ bắt đầu phân biệt nam, nữ và bị sinh bằng tử cung.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11389)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11552)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13543)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14125)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10310)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10775)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11329)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11282)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11440)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10177)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9969)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10713)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11321)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42224)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10488)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11865)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10016)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10460)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10632)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45774)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32125)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11326)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10706)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11325)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10635)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13460)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12377)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11028)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10620)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12319)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11171)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11847)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9216)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10546)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10244)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10589)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10910)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10806)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32140)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27392)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17792)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11875)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10446)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11698)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10434)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10788)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28072)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10153)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10283)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10655)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10771)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11227)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10403)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10696)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11480)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18261)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10525)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12848)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11753)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29199)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28600)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28305)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13329)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22784)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13438)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11581)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13822)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25730)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26085)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14489)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12072)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11808)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11689)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11491)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33196)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31846)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12037)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39634)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22496)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11963)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14232)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13349)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14304)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12073)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10408)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11233)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13318)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34530)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12624)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12231)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13534)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12622)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12984)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16305)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11752)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27400)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28436)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant