Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hình Ảnh Con Trâu Trong Nhà Thiền Trúc Lâm

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 13072)
Hình Ảnh Con Trâu Trong Nhà Thiền Trúc Lâm


Từ lâu, hình ảnh con trâu cứ thế mà đi vào tâm thức mọi người, không chỉ có giá trị trong đời sống lao động thực tiễn mà còn nghiễm nhiên đi vào văn học nghệ thuật Việt Nam

Nhưng điều đáng nói là từ hình ảnh chú tiểu (mục đồng) chăn trâu, thổi sáo vi vu trên đồng xanh ruộng lúa, để rồi nó trở thành thi liệu, biểu tượng, thủ pháp nghệ thuật (thí dụ, ẩn dụ, điển cố) trong văn học Phật giáo nói chung, văn học thiền tông nói riêng.

Nhớ lại thuở còn thơ, ta thường nghe lời ru của mẹ “Trâu ơi ta bảo trâu này, trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta”, rồi lớn lên, hình ảnh con trâu theo cuộc sống mà hiền hòa thể nhập vào lòng mọi người theo thời gian năm tháng. 

Thế rồi, hình tượng con trâu nghiễm nhiên trở thành nguồn cảm hứng sáng tạo trong văn chương qua ca dao, thi ca nghệ thuật. Người đọc bắt gặp ở đó những triết lý, thông điệp sống hướng thiện được ẩn tàng qua lớp ngôn từ nghệ thuật.

Khi đạo Phật vào Việt Nam, hình ảnh con trâu lại được minh họa cho những triết lý uyên áo thâm nghĩa của kinh điển Đại thừa. Những bản kinh như Pháp Hoa, Duy Ma, Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Tứ thập nhị chương, Di Giáo…, có rất nhiều phẩm, chương, đoạn được Đức Phật dùng hình ảnh con trâu như là thủ pháp nghệ thuật để diễn đạt các giá trị nội dung thông điệp văn bản và giá trị thông điệp giải thoát tâm linh đối với người học đạo

Ai từng đọc kinh Pháp Hoa, một bộ kinh ẩn tàng nhiều triết lý uyên áo của giáo nghĩa kinh văn Đại thừa, tức sẽ thấy kinh này có đến 9 dụ: dụ Nhà lửa (phẩm Thí dụ 3), dụ chàng Cùng tử (phẩm Tín giải thứ 4), dụ Cỏ thuốc (phẩm Dược thảo thứ 5), dụ Hóa thành (phẩm Hóa thành dụ thứ 7), dụ Cột châu chéo áo (phẩm Ngũ Bá đệ tử thọ ký thứ 8), dụ Cao Nguyên đào giếng (phẩm Pháp sư thứ 10), dụ Viên Minh Châu trong búi tóc (phẩm An lạc hạnh thứ 14), dụ Cha trẻ con gìa (phẩm Tùng Địa Dũng xuất thứ 15), dụ Vị lương y (phẩm Như Lai thọ lượng thứ 16)(1). 

Trong đó, phẩm Thí dụ chứa nội dung tiêu biểu, có giá trị về thủ pháp nghệ thuật thí dụ. Phẩm kể về một trưởng giả giàu có, sở hữu một tòa nhà lớn nhưng chỉ có một lối ra. Con cái ông đang vui chơi trong đó, nhưng phút chốc ngôi nhà bốc cháy. Các con ông mãi vui chơi, không hề hay biết. Ông phải dùng các xe dê, xe hươu, xe trâu để dụ các con ông ra khỏi. Ngôi nhà lửa ở đây là ngôi nhà tâm thức chúng sinh trú ngụ, nó đang thiêu đốt bởi các ham muốn, nhu cầu của vọng tâm điên đảo. Các người con đang vui chơi nơi nhà lửa mà không hay biết nhà đang bốc cháy, dụ cho chúng sinh đang bị sinh, già, bệnh, chết đốt cháy. 

Trưởng giả dùng ba xe để dụ cho chúng sinh ra khỏi nhà lửa là Phật dùng ba thừa Thanh văn, Duyên giác, Phật thừa để dẫn dắt chúng sinh ra khỏi luân hồi. Điểm đặc trưng của thủ pháp thí dụ mà Phật diễn giải trong kinh điển mà ta khảo sát trên được Phật kết cấu theo mối quan hệ nhân quả khách quan trong triết lý nhân sinh cũng như trong đời sống thực. Việc sử dụng thủ pháp nghệ thuật thí dụ để diễn đạt chân lý thì chân lý càng hiển lộcon người có thể thấu đạt. 

Bản kinh Tứ thập nhị chương, bài 41, Phật đã minh họa hình ảnh con trâu đi trong đám bùn sâu để chỉ cho hàng xuất gia cần phải nỗ lực tu hành mới ra khỏi cảnh luân hồi sinh tử, thoát khỏi hệ lụy phiền não: “Sa môn hành đạo như con trâu mang nặng đi trong bùn sâu, mệt nhọc đến mấy cũng không dám ngoái đầu nhìn hai bên, mà phải đi cho mau, rời khỏi bùn sâu mới được nghỉ ngơi. Sa môn coi ái dục còn hơn bùn sâu, nên thẳng tắp một mạchhành đạo, mới thoát khỏi sự khổ lụy”(2). 

Ngay những ngày Đức Phật sắp nhập Niết bàn, Đức Phật cũng giáo huấn hàng đệ tử của mình bằng hình ảnh chăn trâu để khuyến giáo họ về việc chánh niệm tỉnh giác, giữ gìn bản tâm thanh tịnh. Phật nói “Y như chăn trâu, cầm gậy canh chừng, không để nó buông lung phạm vào lúa mạ của người”(3). 

Rõ ràng, hình ảnh con trâu rất quen thuộc và gần gũi với chúng sinh, bản tính của trâu không hung hăng, thuần hậu, siêng năng, nhẫn nại, dễ điều phục, nhưng thỉnh thoảng vẫn làm bậy, ngu si. Kinh điển lấy hình ảnh trâu để nhấn mạnh đến sự vô trí có trong con người. Danh hiệu của Đức Phật là “Điều ngự sư” nên cũng có thể hiểu là Ngài là một người chăn, một người đánh xe kéo, đưa chúng sinh ra khỏi bể khổ, giải thoát an lạc.

Như vậy, hình ảnh con trâu đã được văn học Phật giáo diễn đạt rất bài bản, ẩn chứa những nội dung triết lý uyên áo, huyền diệu từ lâu, nhưng khi vào thế giới thi ca văn chương Thiền tông nói chung, văn chương Thiền phái Trúc Lâm đời Trần nói riêng, thì nó trở nên sinh độnghấp dẫn đến người học đạo trong tiến trình tu tập và thăng chứng của mỗi người. 

Không chỉ trong văn thơ, trong công án mà cả trong hội họa với bộ “Thập mục ngưu đồ" (Mười bức tranh chăn trâu). Tranh vẽ này thường được diễn đạt theo hai khuynh hướng: khuynh hướng Đại thừa vẽ lại quá trình tu chứng, từ việc tự thắng bản năng mình, đến tự tri và cuối cùngđạt đến tự tại; còn khuynh hướng Thiền tông thì khắc họa tiến trình thực nghiệm tâm linh với ba giai đoạn: sai tâm bắt tâm, tâm vô tâmtâm bình thường. Trong các công án của các thiền sư, được ghi trong các ngữ lục, hình ảnh con trâu hiện lên khá sinh động

Chẳng hạn, Thạch Củng một hôm đang làm việc trong nhà trù (nhà ăn), Mã Tổ hỏi: “Làm việc gì?. Sư thưa: “Chăn trâu”. - “Làm sao chăn thế?” - “ Một khi trâu vào cỏ bèn nắm mũi kéo lại”. - “Con thật là biết chăn trâu”. Hay trong một công án khác, ngài Phước Châu - Đại An hỏi ngài Bách Trượng: “Tôi khao khát muốn hiểu Phật pháp, việc đó như thế nào?”. Bách Trượng đáp: “Hệt như cưỡi trâu.” Hỏi: “Hiểu rồi như thế nào?” Đáp: “Như người cỡi trâu về nhà”. Hỏi: “Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp?” Đáp: “Như người chăn trâu cầm roi giữ mình, đừng cho phạm vào lúa mạ của người”. 

Trong Vô môn quan, có ghi lại một công án rất hiểm hóc. Ngũ Tổ nói: “Ví như con trâu đi qua khung cửa, đầu sừng, bốn chân đã lọt, sao đuôi không lọt được”… Xem ra, từ hình ảnh con trâu trong kinh điển Đại thừa, rồi đến hình ảnh con trâu trong Thiền tông Trung Hoa, đều là biểu tượng của quá trình “hàng phục tâm”. 

Tuy nhiên, tùy theo đối tượng, tùy theo môi trường tu tập khác nhau mà về mặt hình thức, hình ảnh con trâu được xem là biểu tượng được thể hiện thành những cách biểu đạt khác nhau, với những tính chất độc đáo của nó. 

Trong thơ văn thiền phái Trúc Lâm đời Trần, biểu tượng con trâu được ngụ dưới hình thức là những con trâu bùn, trâu đất, hay trâu đá mang những phong thái đồng quê Việt Nam, con người Việt Nam. Đó là hình ảnh “Nhập hải nê ngưu thất cước trung” (Trâu bùn xuống biển mất hết tung tích”(4) trong thơ Trần Thái Tông, khi trả lời cho một hành giả học hỏi thế nào là vô vị chân nhân?. Trần Thái Tông trả lời: “Vô vị chân nhân càn thỉ quyết, Tòng giao Thích tử táng gia phong. Khan khan hướng hạ hoàn tri phủ, Nhập hải nê ngưu thất cước trung”(Người giác ngộ như cục phân khô, Người theo Phật thì mất hết gia phong. Không tin hãy nhìn xem rồi sẽ biết, Trâu bùn xuống biển mất hết tung tích). 

Trần Thái Tông phát biểu như thế, là tác giả ví người giác ngộ là người bước ra thế giới hữu ngã hư vọng muôn màu và huyễn ảo, bước vào thế giới vô phân biệt ngã và ngã sở, cũng như trâu bùn xuống bể chẳng thấy tung tích nào. 

Đúng như hình ảnh “trâu bùn” của thiền sư Long Sơn dùng để trả lời cho câu hỏi của Động Sơn trong Truyền Đăng ngữ lục: - “Thiền sư thấy đạo lý gì mà trụ trì núi này?” - Thiền sư Long Sơn đáp: - “Ta chỉ thấy hai con trâu bùn đánh nhau rồi chạy xuống bể. Từ bấy đến nay vẫn không tin tức gì”. 

Hay hình ảnh “Mục đồng địch lý quy ngưu tận” (Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết”)(5) trong bài thơ “Thiên trường vãn vọng” chữ Hán của Trần Nhân Tông rất thân thuộc với con người qua cảnh chân quê dân dã, mộc mạc nhưng rất trữ tình. Có gì đẹp hơn chú mục đồng, cưỡi trâu, thổi sáo vi vu, tâm trong sáng, không vướng bận điều gì. Còn trong “Cư trần lạc đạo phú” được viết bằng chữ Nôm, ở hội thứ 9, Sơ Tổ Trúc Lâm đã viết: “Sư tử ông Đoan, trâu thầy Hựu, răn đàn việt, lượm xá nghênh ngang”(6).

Thơ văn Lý - Trần giải thích: “Trâu thầy Hựu” tức là thiền sư Linh Hựu, hiệu Quy Sơn, chăn một con trâu ba mươi năm, hễ lạc đường vào cỏ rậm thì nắm mũi dắt về, hễ ăn lúa má của người thì đánh roi; thuần hóa lâu ngày, biến thành một con trâu trắng, ở bên mình suốt ngày. Lại một hôm, sư lên tòa nói: “Lão tăng một trăm năm sau sẽ biến thành một con trâu ở dưới núi”(7). 

Rất sống động và rất hồn nhiên, tự tại, nhưng có dấu ấn hơn hết vẫn là hình ảnh con trâu trong thơ của Tuệ Trung. Tác giả đã thi hóa quá trình điều phục trâu bùn như là quá trình điều phục tâm của mỗi người, trong bài Phóng ngưu, ông viết: “Ngẫu hứng Quy Sơn đắc đệ lân, Hoang vu cam tác mục ngưu nhân. Quốc vương đức trạch khoan như hải, Tuy phận ta ta thủy thảo xuân” (Quy Sơn xóm nọ bỗng quay sang, Cam nhận chăn trâu chốn nội hoang. Ơn đức quốc vương như biển cả, Riêng vui cỏ suối với hoa ngàn”(8). 

Hơn ai hết, Tuệ Trung trong cuộc hành trình tìm về miền đất an lạc, từ việc tự nhận làm kẻ chăn trâu cho chính mình và cũng tự mình chuyển hóa hình tượng con trâu ban đầu thành hình tượng con trâu đất Việt Nam quen thuộc ngày nào. Nhưng việc chăn trâu đâu có dễ dàng gì, nó đòi hỏi công phu, kiên nhẫn để điều phục, thuần tịnh “Kim tiên đả sấn nê ngưu tẩu, Thiết sách khiên trừu thạch hổ ngồi” (Trâu bùn chạy tuốt, roi vàng đuổi, Cọp đá lôi về, gậy sắt giong)(Nhập Trần)(9). 

Chưa dừng tại đó, việc giữ trâu cần được thuần hóa bằng cách tiến thêm một bước nữa. Quá trình xỏ mũi trâu được người chăn trâu khéo léo điều ngự để “xỏ mũi dắt trâu về”. Ai từng chăn trâu trên đồng xanh cỏ nội, ắt hẳn sẽ hiểu quá trình này như thế nào. Nó thật tế nhị và thiện xảo biết chừng nào “Nhất thân độc thủ nhất nê ngưu, Đằng tỵ khiên lai vị khẳng hưu. Tương đáo Tào Khê đô phóng hạ, Mang mang thủy cấp đả viên cầu” (Một mình riêng giữ con trâu đất, Xỏ mũi dắt về chưa từng chịu nghỉ. Đem đến Tào Khê thì thả ra, Mênh mông nước chảy cuốn quả cầu tròn) (Thủ Nê ngưu)(10). 

Cuối cùng là hình con trâu đã hoàn toàn được thuần phục dưới sự điều phục của người chăn trâu cần mẫn sau một thời gian tương thân, tương thích. Cả người chăn trâu và trâu không còn phân biệt người chăn và được chăn, ở đây có hòa điệu, trong cái thế ung dung tự tại: “Nhất khúc vô sinh xướng liễu thì, Đảm hoành tất lật cố hương quy. Thượng đầu đả quá hồ hà hữu, Nhất cá nê ngưu nhậm đảo ky” (Khi hát xong khúc hát vô sinh, Thì cầm ngang ống sáo trở về làng cũ. Bỏ qua cái trước đây không gì cả, Mặc sức cưỡi ngược con trâu đất) (Điệu tiên sư)(11). 

Và như thế, quá trình hàng phục trâu là quá trình hàng phục tìm lại chân tâm thường tịnh trong mỗi con người thường xuyên giáp mặt những ham muốn của cuộc sống quá nhiều bụi trần đeo bám. Hình tượng con trâu được Tuệ Trung cho người đọc thấy được tiến trình chuyển hóa tâm linh của ông rất thực và rất sống động mà bất cứ ai cũng cảm nhận được. Từ khi phát hiện, gặp gỡ trâu cho đến việc chăn dắt, rồi điều phục, thuần hóa, tương thích, tương thân giữa người chăn và trâu trong tinh thần vô phân biệt, an nhiên tự tại, thong dong… 

Cuối cùnghình ảnh của một thiền sư thỏng tay vào chợ, sống an nhiên giữa trần thế. Có gì diệu kỳ hơn nữa, chẳng khác gì hình ảnh “Thạch ngưu - nhập Hải đông” mà Tuệ Trung hát ca trong Trừu trần ngâm: “Tâm vương vô tướng diệc vô hình, Nhãn tự ly châu dã bất minh. Dục thức giá ban chân diện mục, Ha ha nhật ngọ dã tam canh” (Đến khi nào thì “lý” và “sự” mới hoàn toàn rõ rệt, Sao còn đắn đo gì nắm cầm và buông bỏ. Trâu đá nửa đêm chạy xuống Hải đông, Xông vào giữa đám san hô ánh trăng như nước)(12). 

Tóm lại, từ hình ảnh con trâu hiện hữu gắn liền với cuộc sống người nông dân hiền hòa trên đồng ruộng, khi đi vào thế giới thi ca thì không chỉ có giá trị biểu trưng cho hình ảnh sự thực tâm linh, tu hành chứng ngộ, trở về bản tính chân như giác ngộ, giải thoát mà còn mang cả tính nghệ thuật cao. Trên hết là sự hấp dẫn của thi ca qua những cảm hứng từ sự trực cảm tâm linh của các thiền sư chứng đạo, những hình ảnh con trâu đời thường trở thành phương tiện diễn đạt các giáo nghĩa uyên áo để đánh thức tâm trí con người bước vào cửa đạo khi Xuân về Tết đến. 

(1) Xem Diệu pháp Liên Hoa kinh, Thích Trí Tịnh dịch, Nxb TP. HCM 
(2) Tứ thập nhị chương HT Thích Trí Quang dịch, Nxb TP. HCM, 1994, tr. 57. 
(3) Xem Di giáo kinh, Thích Hoàn Quan dịch, THPGTP. HCM, 1992 
(4) Viện Văn học, Thơ văn Lý Trần, tập 2, Nxb KHXH, 1989, tr. 122. 
(5) Viện Văn học, Sđd, tr. 464. 
(6) Viện Văn học, Sđd, tr. 509. 
(7) Viện Văn học, Sđd, tr. 530. 
(8) Viện Văn học, Sđd, tr. 238. 
(9) Viện Văn học, Sđd, tr. 247. 
(10) Viện Văn học, Sđd, tr. 227 
(11) Viện Văn học, Sđd, tr. 230 - 231. 
(12) Viện Văn học, Sđd, tr. 294.
 
Thích Phước Đạt
Source: thuvienhoasen


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14433)
Karma Dordji quỳ phục dưới chân vị Lạt ma theo nghi thức bái sư, rồi trình bày cho ông ta biết là mình đã được chư thiên đưa đến đây “dưới chân thầy”.
(Xem: 14153)
Bổn sư, bậc quý báutốt lành nhất, Pháp Vương của mạn đà la, Nơi nương tựa (quy y) duy nhất, trường cửu, không bao giờ vơi cạn, Với lòng đại bi của Ngài, xin hộ trì cho con...
(Xem: 39717)
Phật dạy đại chúng: “Lúc nào cõi nước không an, tai nạn nổi lên và kẻ nam người nữ bị tai ương biến họa, chỉ thỉnh chúng Tăng như Pháp kiến lập đạo tràng...
(Xem: 15319)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 13884)
Sự thậtchúng ta đều rất lười biếng và cần có những lý do hợp lý để khuyến khích mình hành trì Pháp. Nếu không, chúng ta sẽ không có động cơ nào để thực hành bất cứ pháp tu nào.
(Xem: 13933)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 37341)
Nếu có chúng sanh muốn vãng sanh về Chín phẩm Tịnh độ như thế, hãy phụng quán 12 Viên diệu ấy, ngày đêm ba thời, xưng Chín phẩm Tịnh độ như vậy...
(Xem: 40068)
Trong thể trạng giác ngộ, chúng ta có hai thân Phật được biết như thân hình thể và thân chân thật, tức là sắc thânpháp thân. Sắc thân Phật là thân tự tại...
(Xem: 14642)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14313)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12658)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14837)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19226)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13798)
Câu chuyện về mười hai thử thách lớn và mười hai thử thách nhỏ của nhà học giả Narota đã trở thành kinh điển trong giới huyền thuật Tây Tạng...
(Xem: 42627)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13841)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 37268)
Khi chúng ta thấy những chức năng của luật nhân quả, chúng ta có thể phân biệt hai loại chủ thể trải nghiệm mối quan hệ nhân quả này. Đây là thế giới của thân thể vật lýtâm thức.
(Xem: 12683)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 11768)
Truyền thống PG Tây Tạng chia giáo pháp Đức Phật ra ba thời kỳ chuyển pháp luân: thời kỳ đầu, dạy pháp Tứ Diệu Đế; thời kỳ thứ nhì, dạy pháp Tánh Không...
(Xem: 22550)
Long Thọ cùng với Vô Trước, là hai bậc khai phá vĩ đại của truyền thống Đại thừa. Long Thọ tiếp nối và trao truyền những giáo huấn thậm thâm vi diệu của tính không...
(Xem: 12514)
Cuộc đời này tựa như giấc mơ và ảo ảnh Đối với những ai không nhận thức được điều này, hãy phát tâm bi mẫn với họ.
(Xem: 12573)
Khi Đức Dalai Lama học môn tranh luận, Ngài thường xuyên tranh luận với một nhà tranh luận (tsenshab) được chỉ định, và hai vị sẽ tranh luận riêng với nhau.
(Xem: 13067)
Bạn thực hành các tư tưởng tích cực thật nhiều lần, và khi bạn có thể dần dần loại bỏ các tư tưởng tiêu cực thì điều này sẽ tạo ra các thực chứng.
(Xem: 13114)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 17269)
Trong đất trời bao la rộng lớn, em mơ thấy mẹ đang cầu nguyện cho em, mẹ đưa cho em sữa, thứ quý giá của đất trời, mẹ của em ở một nơi rất xa.
(Xem: 33257)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 14839)
Đàn Thành Khổng Tước Minh Vươngpháp hội, thánh thành, nơi cung thỉnh Chư Phật Bồ Tát giáng lâm, chư Thiên, Hộ Pháp, Long Thần tập hội...
(Xem: 11048)
Mùa xuân đang đến. Nhìn những bọt tuyết bay bay trong trời giá lạnh, tôi lại mường tượng đến những cánh hoa xuân rơi lả tả giữa một chiều mưa bão ở quê nhà.
(Xem: 12459)
Ngài không có bàn thờ, kinh sách, chẳng có gì cả. Ngài đã học thuộc lòng tất cả các kinh sách và bài cầu nguyện trong những năm tu học tại Sera, nên Ngài không cần những thứ này.
(Xem: 11965)
Khi bạn thực hành Chulen, bạn tự hóa hiện như một bổn tôn, sau đó bạn dùng viên thuốc và quán tưởng rằng bạn đang thọ dụng những tinh túy của ngũ đại, không khí...
(Xem: 11937)
Tôi đã học ngữ pháp và thơ, rồi tiếng Phạn. Tôi đã học môn nghiên cứu về âm thanh. Có một môn Phạn ngữ khác mà bạn ghép các chữ cái để tạo thành các mật chú.
(Xem: 13142)
Nhìn đôi tay bé nhỏ của con cài cành hoa hồng vải lên ngực áo mình, nước mắt Hiền lại chực trào ra. Không như chị Ba, Hiền còn diễm phúc cài hoa hồng đỏ...
(Xem: 51270)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 12389)
Cần nói đôi lời về nguồn gốc của hai dòng dõi tulkou nổi tiếng nhất: dòng dõi Đạt lai Lạt ma - hóa thân của Bồ tát Quan Âm, và dòng dõi của Ban Thiền Lạt ma...
(Xem: 6618)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 30423)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 13130)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 13334)
Từ trong tâm khảm mình con cảm ơn mẹ đã cho con một lần sinh, một lần ra đời. Mẹ đã nâng niu nhẹ nhàng từng bước đi chậm chạp, lúc cất tiếng khóc chào đời.
(Xem: 30685)
Một cách tự nhiên, cảm xúc có thể tích cựctiêu cực. Tuy nhiên, khi nói về sân hận hay giận dữ, v.v..., chúng ta đang đối phó với những cảm xúc tiêu cực.
(Xem: 19370)
Mẹ già tần tảo tháng ngày Giành con tấm áo kịp tày lứa đôi Hiên ngoài rả rích giọt rơi
(Xem: 12481)
Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm yêu thương. Mẹ là giáo sư dạy về yêu thương, một phân khoa quan trọng nhất trong trường đại học cuộc đời.
(Xem: 11851)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 14767)
Dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa đã truyền lại, để nhắc nhở cho các con cháu của các thế hệ sau này phải lấy chữ “HIẾU” làm đầu, vì công ơn mẹ cha thăm thẳm như trời cao...
(Xem: 13197)
Tình thương của cha mẹ đối với con là thứ tình thương tuyệt vời, không bút nào tả xiết, không có bất cứ tình thương nào trên cõi đời này có thể so sánh được.
(Xem: 13200)
Khi Đức Phật còn tại thế, Ngài có đặt ra một giới luật cho hàng tu sĩ là: - Hằng năm, trong 3 tháng mưa (mùa hè ở Ấn Độ), chư tăng ni không được phép du hành ra ngoài...
(Xem: 30701)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 12042)
Muốn loại bỏ Tham Sân Si, ta cần phải huấn luyện tâm mình, vì một cái tâm thiếu huấn luyện luôn luôn dính mắc vào ưa - ghét, lấy - bỏ: Nắm giữ cái ưa thích...
(Xem: 11837)
Pháp thế gian là mộc bổn thủy nguyên, do đó mình phải thận chung truy viễn, nghĩa là hết lòng hiếu thảo với cha mẹ. Hiếu với cha mẹ, cung kính Sư trưởngđạo lý của trời đất.
(Xem: 12728)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Con cái, báo hiếu cha mẹ, không phải chỉ phụng dưỡng cha mẹ bằng tất của cải vật chất, mà còn giúp cho cha mẹ có được lòng tin chân chính...
(Xem: 31907)
Chết là một phần của đời sống chúng ta. Cho dù chúng ta thích hay không, nó bắt buộc phải xảy ra. Thay vì tránh nghĩ về điều đó, chúng ta tốt hơn thấu hiểu ý nghĩa của nó.
(Xem: 29419)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 11789)
Kể từ sau giấc mơ ấy, tôi ngày càng cảm thấy rằng mẹ tôi đúng là hiện thân của Bồ- tát Quán Thế Âm. Thật vậy, đối với tôi thì không ai có thể dịu hiền hơn mẹ...
(Xem: 11753)
Tình mẹ và con, một tình yêu thiêng liêng trong nhân loại. Tình yêu ấy gắn bó thiết tha như sóng và nước. Nước là mẹ và sóng là con. Sóng ôm lấy nước...
(Xem: 10435)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 11565)
Mẹ tôi qua đời đã hơn 10 năm rồi, nhưng cái bếp thân yêu, như là chỗ ghi nhớ bóng dáng mẹ, thì vẫn được các em tôi dùng làm nơi đun nước hàng ngày...
(Xem: 9643)
Ngày rằm, mồng một chị tranh thủ dẫn hai đứa lên chùa lạy Phật. Chị yêu anh Tư, thương chúng như con ruột, nên tuy cực khổ tảo tần mà mái tranh vẫn đầy ắp tiếng cười.
(Xem: 9670)
Mẹ đón mừng, không kịp nghĩ suy, không hề toan tính, với tất cả bản năng hiền từ. Mẹ nói, mẹ cười, mẹ âu yếm, mẹ trìu mến nhìn đứa con ngoan, đang bé bỏng bên mình.
(Xem: 9993)
Thứ bảy, ngày 13 là buổi lễ bắt đầu. Phần khai kinh Trai đàn Bạt độ diễn ra rất long trọng, có sự tham dự rất đông của chư Tôn đức và quý Phật tử khắp nơi.
(Xem: 35406)
Trong việc phát triển hành xả, chúng ta cần thấu hiểu rằng những cảm xúc tiêu cực như thù hận và dính mắc là không thích đáng và không lành mạnh...
(Xem: 10159)
Bàn tay ba không đủ làm con ấm. nhưng tình thương ba làm con ấm biết chừng nào. Chúng tôi lớn lên vì tình thương lớn lao của ba.
(Xem: 10099)
Con lớn dần lên, sự vất vả của mẹ cũng tăng dần. Không biết có bao nhiêu buổi chợ trưa như thế đã đi qua đời mẹ.
(Xem: 10052)
Và ở giữa ngạt ngào hương huệ tím Đêm Vu lan anh lặng khóc duyên mình. Em cứ thế, khi gần khi khuất dạng...
(Xem: 9664)
Đạo hiếu nếu xét cho kỹ nó đã được sách vở, kinh giảng nói đến nhiều, nhưng nó là cái đạo tự nhiên từ lúc con người mới xuất hiện.
(Xem: 27812)
Tất cả chư Phật đều là đã từng là chúng sinh, nhờ bước theo đường tu nên mới thành đấng giác ngộ; Phật Giáo không công nhận có ai ngay từ đầu đã thoát mọi ô nhiễm...
(Xem: 15501)
Ôi Tình Mẹ dạt dào như biển lớn, Khi con đau Mẹ thức suốt năm canh, Từ sinh ra cho đến tuổi trưởng thành...
(Xem: 9864)
Chữ “Mẹ” đối với ai cũng thật cao quý, thân thương, vì không ai không có mẹ, không ai không được mẹ mang nặng đẻ đau, chăm lo săn sóc...
(Xem: 13686)
Mỗi người sinh ra và lớn lên giữa cuộc đời này, được nên danh và thành công phần nhiều đều nhờ vào công sức nuôi dưỡng dạy dỗ của mẹ cha.
(Xem: 9849)
Tình thương của mẹ là chất liệu nuôi dưỡng trái tim con, nâng đỡ cho con từng bước từ sơ sinh đến lúc trưởng thành.
(Xem: 9695)
Mẹ đã đi xa, nhưng lời dặn dò sáng sớm hôm nay vẫn còn văng vẳng quanh tôi. “Đừng làm gì có tội với tổ tiên, với cha mẹ nghe con…”
(Xem: 18329)
Con đành xa Mẹ từ lâu Đến nay mấy bận bạt màu xiêm y Thời gian còn lại những gì?! Còn hình bóng Mẹ khắc ghi trong lòng.
(Xem: 12046)
Mỗi chúng ta chỉ có duy nhất một người cha, một người mẹ ruột mà thôi. Xin đừng làm cho lòng mẹ đớn đau, đừng làm cho lòng cha chua xót.
(Xem: 9574)
Mẹ ơi! Đường về nhà sao vắng vẻ quá, vẫn ngôi nhà đó, mảnh vườn ngày nào mẹ còn ra vào nhổ cỏ, hái rau. Thế mà nay cỏ mọc đầy mà rau thì lụi tàn đâu mất.
(Xem: 9695)
Cha! Mẹ! Hai tiếng gọi đơn sơ mà cao quý vô cùng! Hãy cho chúng con một lần được quỳ bên chân cha mẹ, đôi chân phong trần đã bao năm nắng mưa xuôi ngược.
(Xem: 8723)
Mười bảy năm, về thăm ba, thắp hương khóc tràn. Nhớ nụ cười ba hiền lành, bao dung… Con đứng nơi bàn thờ, tụng cho ba bài Tâm Kinh Bát Nhã...
(Xem: 8918)
Người cha là ánh thái dương chiếu sáng khắp vũ trụ, soi đường chỉ lối, là kim chỉ nam dẫn dắt, dạy dỗ cho các con đi đúng đường, học đúng lối, trọn vẹn cả đức lẫn tài...
(Xem: 8421)
Mẹ là người đã mang tôi đến cõi đời này để tôi thấy được thế giới bao la muôn màu muôn vẻ. Mẹ là vị giáo sư đầu đời chắp cánh cho chúng tôi bay cao trong cuộc sống.
(Xem: 11484)
Bất cứ một hoàn cảnh khó khăn nào ta có thể gặp ở trung tâm Phật giáo, nơi thuyết pháp hay trong đời ta nói chung, ta sẽ chuyển hóa nó trong tâm mình.
(Xem: 31742)
Chúng ta chẳng thể nào mang theo bất kỳ thứ gì khi từ giã thế giới này ngoại trừ nghiệp và những giá trị tâm linh như tình yêu thương, lòng bi mẫntrí tuệ mà ta đã trưởng dưỡng...
(Xem: 12336)
Tiếng “mẹ” “cha” ôi sao quá giản dị, quá mộc mạc. Thế nhưng, ẩn chứa bên trong sự mộc mạc, giản dị ấy là cả tình yêu thương bao la, là sự hy sinh bất tận...
(Xem: 13322)
PGVN cùng là hệ phái Bắc Tông, vì thế có nhiều điểm tương đồng gặp nhau và dễ chấp nhận nhau, từ đó trở thành thói quen trong nhận thức lẫn trong hình tượng.
(Xem: 8831)
Lịch sử vẫn như dòng sông xuôi chảy, trải qua bao biến thiên thăng trầm của dân tộc, Phật giáo đã hòa mình gắn liền vận mệnh mình như một định lý không thể tách rời...
(Xem: 9445)
Lòng Hiếu tức là lòng Phật, hoặc “Hiếu vi công đức mẫu” (孝為功德母) - Hiếu là mẹ các công đức... Trí Bửu
(Xem: 11945)
Ân cha, nghĩa mẹ quả thật bao la, rộng lớn, chính vì thế mà trong Kinh Vu Lan Đức Phật đã khuyên dạy các hàng đệ tử: “Dù vai trái cõng cha, vai mặt mang mẹ...
(Xem: 9233)
Đạo Phật là đạo giải thoát. Đức Phật dạy: “Hiếu tâm tức thị Phật tâm. Hiếu hạnh vô phi Phật hạnh. Nhược đắc đạo đồng chư Phật. Tiên tu Hiếu dưỡng nhị thân”
(Xem: 9076)
Xem ra bước vào cửa thiền là bước vào cửa hiếu, cửa hiếu cũng là cửa tỉnh thức, cửa chơn không diệu hữu. Nơi đó mỗi người luôn cất lên tiếng nói yêu thươnghiểu biết.
(Xem: 9673)
Đạo Phật quan niệm, khi vẫn trong cảnh sanh tử lưu chuyển, thì hiện đời có cha mẹ; quá khứ, tương lai trong bao đời sanh tử lại có vô số mẹ cha.
(Xem: 29372)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 9080)
Tấm gương hiếu thảo của mình đối với cha mẹ là một bài học sống, một hình thức thân giáo đầy thuvết phục, có tác dụng rất sâu sắc đối với con cháu của chính mình...
(Xem: 9109)
Kinh Vu Lan kể rằng: sau khi đắc quả A La Hán, đạt được tâm bất sinh, Bồ Tát Mục Kiền Liên muốn độ cho mẹ là bà Thanh Ðề, bèn dùng thần thông kiếm tìm mẫu thân...
(Xem: 33271)
Hình ảnh của Bồ Tát Địa Tạng với khuôn mặt đôn hậu, từ ái, đầu đội mũ tỳ lư, tay cầm tích trượng là một hình ảnh luôn tỏa sáng trong tâm khảm của những người con Phật...
(Xem: 8435)
Thực chất Vu Lan chính là sự kết hợp của tự lực với tha lực, từ bi với trí tuệ, tu và học, tri hành đi đôi, đó là điều kiện tất yếu để đi đến giải thoát.
(Xem: 30630)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31243)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37136)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32273)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 9936)
Tính nhân văn của ngày lễ hội Vu lan rất sâu xa, rất đậm tình, không những loài người mà cả loài vật, không những loài vật mà luôn cho những người đã khuất.
(Xem: 27106)
Tôi nghe như vầy: Một thời đức Bạc-già-phạm ở tại núi Bồ-đạt-lạt-ca, trong cung điện Quán Tự Tại, trong đó có nhiều cây báu như cây ta-la, đam-ma-la...
(Xem: 8452)
Đại Lễ Vu Lan trong ký ức của tôi như nặng đầy thương nhớ, bởi những ai khi mẹ không còn trên cõi đời này nữa, mới thật sự cảm nhận đầy đủ ân tình của ngày báo hiếu Vu Lan.
(Xem: 19247)
Đại Lễ Vu Lan Bồn khởi nguyên từ hạnh hiếu của Mục Kiền Liên Tôn Giả, trở thành nét văn hóa đạo đức hiếu hạnh của Đạo Phật, một trong “Tứ trọng ân”...
(Xem: 13017)
Công ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dụcgiới thiệu con vào đời không thể phủ nhận được. Cha mẹ luôn luôn thương yêu con cái...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant