Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Khoảng Lặng

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10728)
Chương 1: Khoảng Lặng

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN I: THIỀN LỘ

Chương 1

KHOẢNG LẶNG

Ani Tenzin Palmo

Ani Tenzen Palmo sinh năm 1943 tại Anh. Năm 1964, bà sang Ấn Độ và đã ở lại đó tổng cộng 24 năm. Bà đã trãi qua 6 năm ở Dalhousie trong tu viện của Thầy bổn sư, và 18 năm ở Lahul (gần Ladakh, phía Bắc Ấn Độ, vùng Hy Mã Lạp Sơn), trong đó có 12 năm nhập thất trong một hang núi, trước khi trở lại Âu châu để sống ở Assisi, Ý, năm 1988. Dầu bản chất thích sống ẩn dật, nhưng bà Ani Palmo là người rất vui tính, thẳng thắng, cởi mở khi tiếp xúc với người khác.

Bắt Đầu Từ Chỗ Của Bạn

Ai cũng phải bắt đầu từ một nơi nào đó. Không ai trên thế gian nầy có thể bắt đầu ngồi xuống tọa thiền ngay. Người Tây phương thường có quan niệm sai lầm là người Á châu chỉ cần ngồi xuống là mọi việc sẽ tuần tự xảy ra một cách hoàn hảo. Sự thật thì không phải vậy, tôi đã hỏi nhiều thiền sinh và các vị lạt ma về điều nầy. Tất cả đều cho biết lúc khởi đầu khó khăn thế nào, họ đã phải khổ công tu tập như thế nào. Vì thế chớ nên sớm nản lòng.

Nếu tâm bạn còn quá nhiều phiền não, bạn sẽ thấy rất khó định tâm lúc bắt đầu. Có nhiều con đường khác nhau để xuất phát, bởi nhiều phương cách hay bằng cách quán nội tâm. Điều quan trọng là: đừng nghĩ rằng bạn chỉ rèn luyện tâm khi ngồi trên chiếu thiền.

Thực Tập Từng Phút Giây

Người Tây phương thường nản chí vì cảm thấy họ không có thì giờ để thực hành. Họ luôn nói: "Chúng tôi phải làm việc, chúng tôi không có thời gian ngồi thiền". Họ nghĩ rằng chỉ có thể thực hành khi ngồi tụng niệm hay khi thực tập thở ra hít vào. Không đúng như thế. Thực tập là việc ta phải làm trong từng phút giây, suốt cả ngày. Đó là cách bạn tiếp xúc với người khác. Cách bạn uống trà, cách bạn làm việc và cách bạn cảm nhận được những phản ứng nội tâm với mọi sự. Đó là sống một cách tỉnh thức. Phần đông chúng ta sống trong trạng thái của người mộng du.

Thực tập là (bà búng ngón tay) sự tỉnh thức, phát triển trí tuệ, sáng suốt, đồng thời cũng thương yêu, tử tế, quan tâm đến người khác. Nhưng ta không chỉ tử tế đối với tất cả chúng sanh trong mười phương, như trong lời nguyện cầu, mà thực tế là phải tử tế với những người ở bên cạnh ta như chồng, như vợ, con cái, đồng nghiệp, người hành khách ta gặp trên xe buýt, hay bất cứ một ai. Bạn nên biết là họ cũng khổ như ta. Vì thế một nụ cười, một cử chỉ tử tế có ý nghĩa biết bao đối với họ. Đó là thực tập

Không phải là bạn đã niệm được bao nhiêu câu kinh, điều đó không quan trọng. Thật là sai lầm khi người ta nghĩ là phải nhập thất cho lâu, hay phải thực hiện hằng triệu thứ thực tập khác nhau mới đạt được điều gì. Sự thực tập chân chính của Bồ Tát đạo không liên quan nhiều đến những điều đó, mà quan trọng là cách chúng ta sống, đối xử với mọi người quanh ta.

Hằng ngày, tôi thực tập quý trọng mọi người, không kể họ là ai, tuổi tác thế nào. Mọi người đều xem mình quan trọng. Chúng ta phải coi trọng điều đó. Tôi cũng cố gắng để người khác có thể là họ, mà không phán đoán, đánh giá họ. 

Mỗi người đều đặc biệt, có cá tính riêng trong cách của họ. Giống như trong một vũ điệu, mà mỗi người đều có điệu nhảy riêng. Hay như trong một dàn nhạc giao hưởng, mỗi người sử dụng một nhạc cụ riêng, với tiết tấu riêng của mình. Người ta không phải hành động theo một mẫu mực nào đó; họ có quyền tự do được là họ.

Tôi thích có những lúc được ở một mình, nhưng không phải vì tôi không thích tiếp xúc với người khác. Chỉ vì trong tĩnh lặng, tôi tìm thấy sự hòa đồng cũng vũ trụ. Tôi không bỏ quên thế giới bên ngoài. Ngược lại, chính nhờ có những khoảng thời gian một mình, tôi cảm thấy cởi mở hơn với người khác, cảm nhận được sự có mặt của người khác.

'Bạn Là Một Kaguypa' (1)

Tôi trở thành một Phật tử năm 18 tuổi và bắt đầu tu tập ở Luân Đôn từ đó. Sau 6 tháng, tôi gia nhập hội Xã Hội Phật giáo. Họ có lớp cơ bản Phật giáo và lớp thiền.

Lúc bắt đầu tôi theo Nguyên thủy, tu tập ở Sinhalese Vihara. Lúc đó, bạn hoặc là tu theo Nguyên thủy hoặc là thiền. Phật giáo Tây tạng bị xem là không có phẩm chất, thấp hèn, với các phép thuật ma quái, những cách thể hiện dục tình kỳ quặc - tóm lại tuyệt đối không phải là Phật giáo, nên dứt khoát là tôi không muốn dính dáng gì đến. Nhưng một ngày kia, tôi đã đọc một quyển sách, đến phần cuối có đoạn ngắn nói về Phật giáo Tây tạng như sau: "Ở Tây tạng có bốn tông: Nyingmapa, Sakyapa, Kagyupa và Gelugpa".

Khi đọc đến đó, bên trong tôi như có tiếng nói: "Bạn là một Kaguypa". Tôi không biết khám phá nầy có ý nghĩa gì, nên đã hỏi một người thông thái về Phật giáo Tây tạng, "Kagyupa là gì?" Cô bạn bảo tôi đọc Milarepa, rồi cô trao cho tôi một quyển sách dịch của Evans-Wentz's về cuộc đời của Mila. Sự kiện đó đã thay đổi hoàn toàn cái nhìn của tôi. Tôi nhận ra rằng mình phải tìm một vị thầy, có nghĩa là tôi phải đi Ấn Độ.

Khoảng thời gian đó, ngài Chogyam Trungpa Rinpoche đã có mặt cùng với Akong Rinpoche từ Ấn Độ, và ông đã hướng dẫn tôi tu thiền. Một ngày, ông bảo tôi: "Có thể Cô khó tin điều nầy, nhưng ở Tibet, tôi cũng là một lạt-ma có tiếng. Tôi không hề nghĩ sẽ đến nơi đây, nhưng tôi có thể dạy thiền cho Cô không? Tôi phải có một đệ tử chứ".

Tôi trả lời không có vấn đề gì đối với tôi, thế là ông bắt đầu dạy tôi thiền. Đó là phương pháp Mahamudra, ngồi xuống, để tâm thư giãn, rồi quán sát các vọng tưởng đến rồi đi.

Mahamudra (2)

Phương pháp Mahamudra rất đơn giản, và có lẻ đó chính là cái khó của phương pháp nầy. Căn bản phương pháp nầy chỉ việc là ngồi xuống với tâm thư giãn, đồng thời giữ tâm rất chánh niệm, tỉnh giác. Bạn chỉ thực tập nhận biết các vọng tưởng khi chúng đến rồi đi, mà không cố gắng phát khởi, ngăn cản hay chạy đuổi theo chúng. Bạn chỉ biết sự có mặt của chúng. Bản chất của tư tưởngtrong sáng. Một khi sự thực tập đã được phát triển, các vọng tưởng sẽ thưa dần, vì tâm được thư giãn. Khi các vọng tưởng đã thưa nhạt, khi sự tỉnh giác của bạn ở cao điểm, ở khoảng giữa của hai tưởng, bạn có thể bắt gặp được một sự thanh tịnh ở giữa và sau các vọng tưởng. Sự trong sáng cực độ nầy là không gian bao la, sự tỉnh giác, bản tâm chân thật

Bạn có thể chỉ thực hành duy nhất phương pháp Mahamudra. Cần có một vị thầy uyên thâm cạnh bên, vì ta dễ đi bị dẫn dắt đi lang thang, lúc đó cần có người chất vấn ta: "Cái gì đã xảy ra? Như thế nào? Có giống như thế nầy hay thế kia?" Điều đó giúp cho sự thực hành của ta được định hướng, rõ ràng. Bằng không, nên thực hành Mahamudra ở cuối thời thực tập quán tưởng chính của ta. Rồi hãy để tâm được thư giãn đi vào khoảng vắng lặng của nội tâm, và ý thức được điều đó. Cái không gian bao la, sự sáng suốt, sự tỉnh giác mà bạn nắm bắt được giữa các vọng tưởng, đó là tâm không.

Nếu chánh niệm của bạn rất cao ở lúc đó, bạn sẽ thấy được nó. Nói rằng 'thấy' có thể làm bạn hiểu lầm, vì ở thời điểm đó, không còn cái thấy nữa. Mahamudra là như thế đó.

Dĩ nhiên là khi đã nhận biết được trạng thái đó, bạn bắt đầu có thể phân tách được điều đó với cái nhìn thật sự của Phật giáo: chánh niệm, vọng tưởng, sự vắng lặng sau vọng tưởng, chúng có giống nhau hay khác nhau? Nếu chúng khác thì khác như thế nào? Nếu giống nhau, thì giống ở những điểm nào? Bạn bắt đầu đặt câu hỏi để thấu đạt được cái kinh nghiệm đó. Điều nầy rất quan trọng khi tu tập theo Phật giáo; hành giả không chỉ có chứng nghiệm, mà còn phải hiểu được sự chứng nghiệm của mình bằng cách phân tích, đặt câu hỏi.

Pháp Nhiệm Mầu

Tôi luôn mơ ước được trở thành một nữ tu. Khi còn nhỏ, tôi đã nghĩ đến tu theo dòng Carmelites, là nơi mà bạn bước vào, cửa đóng lại sau lưng, và bạn sẽ không bao giờ ra khỏi nơi ấy. Rất tiếc là tôi không tin vào ý nghĩa của một vị Trời nào đó, nên Thiên Chúa giáo không hấp dẫn tôi. Khi mới được nghe nói đến Phật giáo, tôi chỉ nghe người ta nhắc đến các vị Tăng, nên tôi rất buồn vì tưởng là không có các nữ tu sĩ. Khi cuối cùng được thấy các ni cũng được nhắc đến ở đâu đó, tôi quá đỗi vui mừng, và biết đó là việc mình muốn được trở thành

Nếu nhìn bề ngoài, tôi không giống một tu sĩ chút nào. Tôi luôn ăn mặc đẹp, có nhiều bạn trai, chạy lăng xăng bên ngoài -không phải là loại người sẽ trở thành người tu. Tuy nhiên, khi gặp được vị lạt-ma của tôi, tôi chỉ muốn được ở cạnh Thầy, muốn hoàn toàn dâng hiến cả đời cho Phật pháp. Tôi hỏi Thầy cho tôi được xuất gia và Thầy đã chấp thuận dầu chỉ mới biết tôi được ba tuần.

Phật pháp quá thâm thẳm nhiệm mầu, tôi cảm thấy không thể bỏ phí chút thì giờ nào, mà không trì Pháp. Tôi không muốn bị xao lãng vì những công việc khác; tôi chỉ muốn suốt đời được ở bên Thầy, hành pháp, trì giới bằng tất cả khả năng của mình. Tôi không muốn phí thì giời cho tình cảm trai gái. Nếu tôi thật sự muốn yêu thương ai, thì tôi chỉ muốn dành sự thương yêu đó cho vị lạt-ma của mình, mà không cần gì thêm nữa. Dĩ nhiên là khi ở bên cạnh Thầy, tôi làm việc. Tôi là thư ký của Thầy, cũng như dạy tiếng Anh cho các vị tăng trẻ. Tôi làm việc 12 tiếng mỗi ngày. Vì tất cả là cho vị lạt-ma của tôi, cũng là cho Phật pháp

Quan hệ của tôi với người khác giới hoàn toàn thay đổi. Là người tu, tôi có thể thân cận với họ mà không còn có ý niệm trai gái nào. Họ cũng cảm thấy thoải mái cạnh tôi. Tôi coi họ như bạn, anh hay em tôi, nên đơn giản là không có vấn đề gì. Điều nầy làm cho sự quan hệ của chúng tôi thêm cởi mở, phóng khoáng, và tôi rất cảm ơn điều đó. 

Trong suốt bao năm làm nữ tu sĩ, tôi không hề, dù trong phút giây, ân hận về quyết định của mình. Tôi luôn hết lòng kính trọng, thương yêu tăng đoàn. Cái cảm giác rằng đã có được một truyền thống gìn giữ từ thời Đức Phật đến nay, cho tôi một sức mạnh, niềm vui vô bến bờ. Hình ảnh các vị tăng ni là tấm gương của cuộc sống vì đạo Pháp.

Tây phương cần có những tăng đoàn nhỏ, bao gồm các vị tăng ni thật sự là những người tận tụy, để trở thành trung tâm điểm của cuộc sống đầy chánh pháp. Điểm chánh yếu của việc trở thành tăng ni là chỉ với một hành động đó, nó có thể quét sạch bao vướng víu trong cuộc đời của bao người: sự quan hệ với người khác giới, việc yêu thương, ghen tuông, bất an, lập gia đình, có con cái. Đây là những điều quan trọng, nhưng chúng có thể làm suy giảm năng lực, sức mạnh tâm linh mà ta có thể dành cho sự thực hành Phật pháp.

Không phải ai cũng cần xuất gia, và cũng thật sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có người tu mới có thể hành pháp. Nhưng Đức Phật đã gầy dựng nên tăng đoànrõ ràng đó là một cách sống giúp người ta có sự tự do, phóng khoáng, và thời gian để dành cho sự tu tập thực hành pháp trọn vẹn.

Cuộc Sống Ẩn Dật

Thầy Lạt-ma bảo tôi: "Phần con, sống một mình thì tốt hơn". Bất cứ khi nào tôi đề nghị được sống với ai, với một vị ni khác, thì Thầy luôn bảo: "Không, với con, tốt hơn là sống một mình".

Lúc đầu khi đến Lahul, tôi sống trong khuôn viên của tu viện, dù tôi sống một mình trong một gian nhà, cũng như mọi người khác trong tu viện. Có cả tăng và ni ở đó. Nói chung, chúng tôi sống rất hoà hợp, không có vấn đề gì. Tuy nhiên, đó không phải là nơi lý tưởng để nhập thất, vì thường tôi là người duy nhất nhập thất, và nhà tôi ở giữa khuôn viên tu viện. Ai cũng có những sinh hoạt bình thường, tụ họp bạn bè, nói chuyện dai dẳng, trên các sân thượng từ nhà nầy qua nhà kia, vì thế thật không được yên tĩnh lắm.

Tôi quyết định phải sống cô lập hơn. Sau đó, tôi được nghe về một cái hang, nên đến đó sống. Thật là một nơi lý tưởng, tôi sẽ không trách được ai nếu việc tu tập không có kết quả. Rõ ràng là nếu bạn thực sự muốn tu chuyên sâu, thì hoặc là bạn phải tuyệt đối sống một mình hoặc là phải ở với những người cùng mục đích. Nếu không thì sẽ rất khó khăn.

Mỗi năm tôi thường bị tuyết giam một thời gian dài, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn. Trái lại, tôi thường nghĩ rằng không có nơi nào trên trái đất nầy tôi muốn có mặt hơn là ở đây và không có việc gì tôi muốn làm hơn là tu tập.

Lần duy nhất trong đời tôi cảm thấy cô đơn là khi tôi sống với Thầy lạt-ma của tôi trong tu viện của Thầy với 80 vị tăng khác và tôi là người ni, người ngoại quốc duy nhất. Mọi người sống với nhau như một cộng đồng, còn tôi luôn là người đứng ngoài. Khi tôi thực sự sống một mình, tôi lại không cảm thấy cô đơn dù trong phút giây. Thật là vui sướng khi biết rằng tôi có tất cả thời gian, không gian nầy để hoàn toàn chú tâm vào việc tu tập mà không bị cái gì khác làm xao lãng. Nếu thỉnh thoảng tôi thấy có hơi chán, tôi lại đọc một quyền sách thú vị về Phật pháp.

Tôi rất thích được một mình. Tôi cũng thích có người khác, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, trong khi tôi có thể ở một mình mãi mà không bao giờ chán. Tôi nghĩ có lẽ vì khi có người khác, tôi thường phải thỏa hiệp với họ, để thích hợp với hoàn cảnh, nên không hoàn toàn sống thật với chính mình. Khi một mình, tôi có thể sắp xếp việc trong ngày cho riêng mình, có thể chân thật với chính mình và tu tập. Điều đó khiến tôi cảm thấy không bị gò bó. 

Phần đông đều có khó khăn khi phải nhập thất một mình, nhưng theo tôi nghĩ, đó là tuỳ thuộc tâm bạn thế nào. Có một số người đến ở trong hang của tôi, khi tôi không có mặt ở đó, họ vấp phải nhiều khó khăn. Cuối cùng họ trở về tu viện, hoặc tệ hơn trở về làng. Họ không thể ở một mình trong hang. Họ trở nên quá giải đãi, hay rơi vào trạng thái hoang tưởng hay sợ hãi cùng cực, khiến họ không biết giải quyết thế nào.

Một số người nghĩ rằng việc sống một mình để tu tậpchủ nghĩa trốn tránh, nhưng thực ra đó khoảng thời gian khi bạn có thể thực sự đối mặt với thực tại vì không còn có nơi nào để trốn tránh. Bất cứ việc gì xảy ra, bạn không thể mở TV, tán gẫu với hàng xóm, đi lang thang hay làm gì đó, bạn chỉ phải ngồi đó và đối mặt với nó. Dầu cho đó là một vấn đề ở bên ngoài hay ở nội tâm, chỉ có bạn mới giải quyết được. Riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy điều đó cho tôi thêm sức mạnh, vì tôi khám phá ra rằng thực sự tôi có nhiều khả năng hơn tôi tưởng.

Đào Hầm Ra!

Một năm kia, một trận bão tuyết bất thường đã kéo dài bảy ngày, bảy đêm. Nó gây ra những trận lở tuyết kinh hồn khắp nơi ở Lahul, nhiều làng mạc bị hủy hoại hoàn toàn, hàng ngàn cây cối bị tróc gốc và hàng trăm người tử nạn. Tôi bị kẹt trong hang dưới hàng tấn tuyết. Ống khói bếp lò của tôi bị bể, nên tôi không thể đốt lửa. Bên trong hang, mọi thứ tối đen, còn khi tôi mở cửa ra thì chỉ có bức tường nước đá trước mặt.

Tôi bị kẹt trong khoảng không gian nhỏ bé nầy. Tôi cảm thấy không khí càng lúc càng ít đi, tôi thực sự cảm thấy cái chết gần kề. Tôi còn có thời gian nghĩ đến điều đó. Giờ nhìn lại, cũng thấy thú vị vì tôi không cảm thấy hoảng loạn, không có cảm giác bị giam hãm, tù túng; tôi rất bình tĩnh, hoàn toàn chấp nhận sự việc. Sau khi nghiền ngẫm, tôi nhận ra rằng chỉ có vị lạt-ma là đáng cho tôi nhớ đến; ngài là chỗ nương trú duy nhất của tôi.

Với tất cả lòng thành, tôi cầu nguyện ngài dẫn dắt tôi trong cõi trung ấm (cõi ở giữa sự chết và tái sinh), và khi tôi làm thế, tôi nghe một giọng nói vang lên trong tôi: "Đào hầm ra!" Nên tôi bắt đầu đào tuyết ra khỏi cửa. Dỉ nhiên làm thế thì tôi lại phải mang tuyết vào trong hang, không còn chỗ nào khác nữa. Lúc đầu tôi dùng một cái xẻng, sau đó, khi tôi bắt đầu có một đường hầm, tôi dùng nắp nồi, rồi sau đó là dùng tay. Mất khoảng một giờ hay gì đó. Có lúc tôi như bị nén trong cái ống nước đá nhỏ xí nầy. Bên dưới cũng tối, mà trước mặt cũng đầy bóng tối.

Dần dần đường hầm bắt đầu có ánh sáng, và tôi thoát ra được. Tuyết phủ nhiều đến độ không còn thấy cái hang đâu nữa. Tôi không còn nhìn thấy cây cối gì chung quanh, cũng không thấy nóc của cây trụ ba thước cao của tôi, chỉ là một không gian trắng xoá, trong khi bão tuyết vẫn không dứt.

Tôi phải xúc tuyết ra khỏi hang, nên lại chui trở vào hầm. Khi vào đến bên trong, mắt tôi cảm thấy đau buốt, đỏ cạch như thể có ai đã thải cát nóng vào đó. Nước mắt chảy ra, và tôi nhận biết mình đã bị chói tuyết. Dù sao, tôi cũng đã thoát chết.

Hôm sau, tuyết phủ trở lại, tôi lại phải xúc tuyết ra. Tôi phải làm như thế ba lần trước khi trận bão tuyết tan đi. Khoảng một tháng sau đó, một tăng sĩ từ tu viện đến báo cho tôi biết là các xóm làng đều bị tàn phá. Có lẻ tôi là người được an toàn nhất, sống trong cái hang không thể bị tàn phá nầy. Tôi nhận ra rằng trong lúc nguy kịch đó, tôi chỉ có thể dựa vào những gì mình có trong tầm tay và nghị lực bên trong. Không có ai để gánh vác cho tôi, tôi phải một mình vượt qua, và tôi đã làm được một cách hoàn toàn điêu luyện.

Đài Truyền Hình Nội Tâm

Tôi thường nhập thất từ tháng mười một đến tháng năm hay sáu. Thường là tháng năm, vì khoảng thời gian đó tuyết bắt đầu tan, và tôi phải để ý đến điều đó, nên thực sự không thể tiếp tục nhập thất một cách nghiêm ngặt nữa. Những gì tôi làm giữa tháng Năm và tháng Mười Một thường thay đổi. Tôi phải chăm sóc vườn tược, lấy thêm đồ dự trữ, kiếm củi, trét bùn lên hang, vân vân. Thỉnh thoảng cũng có người đến thăm. Tôi cũng dùng thời gian đó để đọc sách, vẽ nhiều hơn.

Rồi khoảng tháng mười, tôi đi Tashijong để thăm thầy lạt-ma và trên đường về đôi lúc tôi ghé qua Manali để mua đồ dự trữ. Dỉ nhiên tôi vẫn hành thiền vào sáng sớm và tối, khi tôi phải bận rộn trong ngày.

Có lần tôi nhập thất ba năm, nhưng cuối cùng bị gián đoạn, nên thực sự chỉ có hai năm và chín tháng. Trong khoảng thời gian nhập thất đó, một người Lahul tiếp tế vật thực cho tôi hằng năm.

Về nội tâm, vấn đề chính, là có những lúc tôi cảm thấy chán thực tập. Suốt mười hai năm sống trong hang, điều đó thường xảy ra. Thời gian đầu sau khi nhập thất, sau khoảng hai tuần lễ, tôi cảm thấy: "Ấy dà! Mình phải còn thực hành đến bao nhiêu tháng nữa!" Tóm lại, cũng giống như phải xem một chương trình truyền hình, bốn lần một ngày, tuần nầy sang tuần khác, tháng nầy qua tháng kia. Có những lúc, tôi cảm giác, "Thôi, không làm nữa!"

Vì không có ai ở đó để sách tấn tôi, hay để tôi tâm sự, hầu thoát ra khỏi sự đơn điệu, lần nữa tôi biết mình phải tự giải quyết thôi. Tôi biết cách duy nhất là không được đầu hàng, cứ phải tiếp tục. Sau một thời gian, tôi nhận diện được cảm thọ chán nản, nên nó không còn là vấn đề nữa. Tôi cứ tiếp tục, cứ tuân theo công việc đều đặn. Điều căn bản là không được gián đọan, không được tự hỏi là có thích thực hành không. Sau một thời gian, việc tu tập của tôi tự nhiên trôi chảy đâu vào đấy. Rồi nó bắt đầu lên một tầng cao hơn, trở nên rất thú vị, gần như cuốn hút. Vào cuối thời nhập thất, tôi tự động cảm thấy hăng hái tu tập hơn là lúc bắt đầu mới nhập thất.

Cuối cùng tôi nhận ra vấn đề chỉ là ở trong suy nghĩ của ta hơn là thực tế; cái ý nghĩ rằng làm sao tôi có thể chịu đựng suốt thời gian nhập thất, trong khi vẫn biết rằng thực ra tôi rất thích làm việc đó.

An TrúHỷ Lạc

Khi mới bắt đầu tu Thiền, nhiều người thường quá hăng hái, bắt đầu ngay bằng cách ngồi cả tiếng đồng hồ. Nhưng thực tế cho thấy là họ khó duy trì được sự chủ tâm trong suốt thời gian đó, ví thế họ trở nên chán nản. Sau đó, thì dù có ý hướng tốt, họ cũng đành bỏ cuộc. Tôi nghĩ tốt hơn hết là bắt đầu bằng 10 hay 20 phút mỗi ngày.

Bắt đầu bạn có thể đặt hình tượng vị nào mà bạn tôn kính, đốt nhang đèn, để chuẩn bị tâm thức. Hãy ngồi xuống và tự nhủ rằng bạn sẽ dành trọn khoảng thời gian ngắn ngủi nầy cho việc tham thiền, một việc không chỉ đem lại lợi ích cho bạn mà cho cả những người bạn tiếp xúc. Dầu ngắn ngủi, nhưng là một khoảng thời gian đặc biệt, riêng dành cho sự tu tập của bạn.

Khi bạn khởi niệm gì, suy tư hay lo lắng, hãy để chúng qua đi. Bằng cách chỉ ngồi theo dõi hơi thở. Đức Phật đã chứng ngộ bằng phương cách đó. Đó không phải điều đơn giản, nhưng ai cũng có thể làm được, rồi từ đó tiến lên, tiến lên mãi. Không có sự cùng tận.

Vì thế hãy ngồi im lặng, theo dõi hơi thở vào ra, ở mũi hay ở bụng, nơi nào bạn thấy thõa mái là được. Cố gắng trụ theo hơi thở, theo sự vào ra, đừng lo sợ mất tâm. Không có vấn đề gì đâu. Bạn dừng mong đợi mọi thứ sẽ tốt đẹp ngay lúc bắt đầu; đó là kiêu mạn. Hãy theo dõi hơi thở vào ra. Nếu tâm khởi vọng tưởng, chỉ cần kéo nó trở lại, lần nầy tới lần khác. Kéo tâm trở về với hơi thở chính là sự thực tập.

Thực tập như thế trong 10 hay 20 phút. Và hãy dừng ở đó dầu bạn vẫn còn có thể tiếp tục. Hãy ngưng lại ở đó hơn là tiếp tục đến khi bạn trở nên trạo cữ. Bằng không, lần sau bạn sẽ không cảm thấy sốt sắng ngồi nữa. Trái lại, nếu bạn ngưng lại khi vẫn còn muốn tiếp tục ngồi, thì bạn sẽ thấy hứng thú để ngồi lần sau. Hành thiền không phải là một thử thách, mà phải là sự an trúhỷ lạc.

Quá Trình Khám Phá

Qua nhiều năm thực tập, việc hành thiền của tôi đã chuyên sâu hơn, trở nên rõ ràng hơn. Người ta thường nói về những điều thiền giả đạt được khi hành thiền, nhưng đối với tôi điều quan trọng không phải là mình đã đạt được gì mà là mình đã đoạn diệt được gì. Quá trình hành thiền là để bộc lộ, khám phá ra những gì ta vẫn hằng biết. Bạn sẽ không khám phá ra được điều gì mới lạ đâu. Chỉ là những điều bạn đã biết mà không biết rằng mình biết. Chúng ta biết tất cả, nhưng chỉ là không nhận thức được điều ấy thôi. Thiền mở ra cho ta những lối về với chính trí tuệ nội tâm, và phá vỡ các chướng ngại để ta có thể thấy rõ ràng hơn.

Mỗi người khi hành thiền đều có những khó khăn riêng. Tuy nhiên nếu ta thực tập trong sự thoải mái, và có chú tâm thì khó thể sai lệch. Vấn đề là đôi khi ta thấy sự hành thiền của mình dễ dàng quá. Ta cảm thấy được an lạc, trong khi thực sự thì tâm ta lúc đó ở trạng thái ù lì. Bạn có thể dể dàng ngồi như thế vài tiếng đồng hồ mà không hề hay biết tâm đang bị hôn trầm

Dấu hiệu thực sự của việc hành thiền đúng cách là khi tâm sáng suốt, rõ rànghoàn toàn tỉnh thức, đồng thời cảm thấy thư giãn, nhẹ nhàng. Điều quan trọng là giữ được sự cân bằng nầy. Nếu bạn đạt được sự cân bằng đó, bạn sẽ biết ngay. Trong trạng thái tự tại, tỉnh thức, sáng suốt, bạn không thể nào có thể sai lạc được.

Vị Thầy Chỉ Đường

Tôi không nghĩ nhất thiết phải có thầy. Nếu bạn ở trong hoàn cảnh không có thầy, thì đó không phải là lý do để ta không thể bắt đầu tu tập. Có rất nhiều sách vở, và với chút ít hiểu biết căn bản, bạn có thể tự đi một bước dài mà không có thầy hướng dẩn.

Tuy nhiên, nếu có được một vị thầy chân chính thì chắc chắnmọi việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Như trên một cuộc hành trình, bạn có thể đi một mình, nhưng nếu có người hướng dẩn đã qua đoạn đường ấy, đã biết địa thế rõ ràng thì chắc chắn là chuyến đi của bạn sẽ dể dàng, nhanh chóng hơn. Bạn được đảm bảo không bị lạc đường, không phải lo lắng, vì bạn biết mình được bảo vệ. Đó là trách nhiệm của vị thầy, là để chỉ đường cho bạn. Họ không thể đi dùm bạn, không ai có thể làm được việc đó cho bạn. Họ chỉ có thể chỉ cho bạn hướng đi.

Với Thầy của tôi, thật là tuyệt vời. Từ lúc bắt đầu, ngay khi vừa nghe tên ông, tôi biết ngay đó là Thầy tôi. Ông cũng không nghi ngờ dù chỉ trong phút giây rằng tôi là đệ tử ông, nên từ lúc bắt đầu chúng tôi đã có một mối dây liên hệ thật thân thiết. Ông là một vị lạt-ma tuyệt vời, và tôi mang ơn ông sâu nặng, không thể diễn tả bằng lời với ông như thế nào. 

Ông đã dạy cho tôi thật nhiều bằng chính sự có mặt của mình, hơn là lời nói. Ông thường gợi ý tôi nên thực hành theo phương pháp nào và ban cho tôi khả năng thực hiện chúng. Sau đó tôi mới thực sự được các thiền sinh khác trong tu viện chỉ dạy. Vị lạt-ma ở đó chỉ để có mặt, để hướng dẫn và hộ trì. Chỉ được ở cạnh bên Thầy Rinpoche, tôi đã học được rất nhiều. Sự có mặt của một vị thầy chân chính không thể diển tả thành lời, một điều khó tin nổi - một hiện thân sống động của những gì ta mong đạt được. Bạn biết điều đó có thể thực hiện được vì Thầy có mặt để chỉ cho bạn phương cách.

Bất cứ điều gì tôi muốn thực hiện trong việc tu tập của mình, tôi có thể hỏi ý kiến Thầy và Thầy có thể cho tôi biết điều đó không cần thiết hay nên làm. Điều đó động viên tôi mạnh mẽ. Nếu vị lạt-ma nói: "Tốt lắm, hãy làm đi". Tôi có thể bắt đầu ngay, và đặt hết mọi nghị lực của mình vào đó mà không chút gì lo lắng.

Trong những lúc khó khăn, thí dụ như khi tôi phải tu tập một mình, tôi vẫn có thể cầu nguyện đến với lạt-ma. Nếu tôi có vấn đề gì, tôi chỉ cần chú tâm, cầu nguyện đến thầy Rinpoche xin một lời giải đáp. Dĩ nhiên đối với tôi, thì không thể thiếu Thầy. Lạt-ma luôn ở trong trái tim tôi.

Giờ thì chính sự hành thiền mang đến cho tôi sự cảm hứng. Ở thời điểm nầy, dù tôi có muốn bỏ hết tu tập, tôi cũng không làm được, nó đã trở thành một phần của tôi. Càng tu tập, tôi càng cảm nhận Phật pháp thật độc đáo, tuyệt vời làm sao. Tôi cảm tạ ơn sâu của Đức Phật đã truyền dạy lại cho chúng ta những điều này.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 10160)
Thật sung sướng khi mặc vào người, cái áo nhật bình bạc màu, chừa chóp tóc giữa đầu; cuộc sống hoàn toàn mới lạ, thanh thoát nhẹ nhàng...
(Xem: 10431)
Những chiếc lá vàng từ tán cây phượng bị gió lùa xuống ghế đá công viên, chỗ Thủy và chàng ngồi, làm cho Thủy chợt nhớ bài hát Mùa Thu Lá Bay...
(Xem: 9700)
Mặt trời ló dạng trải những ánh vàng óng ả trên mặt biển khơi, chiếu sáng rực rỡ một góc trời. Ngoài xa, từng cơn sóng nô đùa nối đuôi nhau cặp bờ.
(Xem: 23654)
Con đường tâm linhchúng ta đang cùng nhau tiến bước có vô số chướng ngại, đầy sỏi đá chông gai, chúng ta cần nắm chắc tay nhau...
(Xem: 11860)
Khi còn bé, mỗi dịp Vu lan về, tôi thường hay theo mẹ lên chùa lễ Phật. Khi nghe quý thầy giảng về công ơn cha mẹ, ông bà, tôi thấy khóe mắt mẹ tôi nhòa lệ.
(Xem: 10736)
Mỗi năm cứ độ thu về, tiếng chuông buồn da diết, trên cành cây khô trụi lá, ve sầu rỉ rả giọng ai oán thê lương như đa mang, như chất chứa nỗi niềm trong cô tịch...
(Xem: 10089)
Tất cả nghiệp tội đều do chấp trước mà phát sinh. Trong sáu cõi lại xuất hiện ra cảnh giới của ba đường ác. Tuy là ảo vọng không thực, nhưng cảm nhận đau khổ là thật.
(Xem: 28710)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 21640)
Các sự gia hộ được nhận qua các luận giảng này về sáu giai đoạn chuyển tiếp giống như một con sông nước dâng cao vào mùa xuân...
(Xem: 29456)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 11410)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 12388)
Đức Phật ra đời là để khơi mở tuệ giác cho hết thảy chúng sinh: - Tất cả chúng sinh đều có Phật tánh, tất cả chúng sinh đều có trí tuệ...
(Xem: 26360)
Đức Phật đã dạy chúng ta những cách sửa soạn bản thân cho sự chết bí ẩn và tận dụng những trạng thái của sự chết để tu tập. Nhiều vị Thầy đã viết sách về đề tài này.
(Xem: 31055)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25362)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22830)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 13069)
Chúng ta luôn nói rằng kiếp ngườihy hữu và đáng quý, vậy tại sao lại để cơ duyên uổng trôi?
(Xem: 21982)
Bàn về các pháp thế gian, Phật Pháp không bao giờ được dùng để thực hành với động cơ đem ra buôn bán nhằm mang lại danh tiếng hay tài bảo cho một cá nhân nào đó.
(Xem: 12242)
Tâm tĩnh lặng tự tại gọi là AN. Thân ở yên một chỗ gọi là CƯ. Tứ chúng là bốn hình tướng của người tu bao gồm xuất giatại gia (chư Tăng, Ni, và Cư sĩ nam, nữ).
(Xem: 14160)
Để tiến bước nhanh chóng và thuận lợi trên con đường tu tập tâm linh, chúng ta cần tới sự trợ duyên của hai thứ - công đứctrí tuệ -, cũng như hai cánh của một con chim...
(Xem: 12470)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 11268)
Không phải ngẫu nhiên mà người ta cho rằng Đạo Phật là Đạo hiếu. Đức Phật có rất nhiều lời dạy về hiếu đạo...
(Xem: 10710)
Việc tri ânbáo hiếu luôn là một đạo lý quan trọng đối với mọi tín đồ Phật tử. Đạo lý ấy không chỉ là một khúc tấu của bản trường ca thông thường...
(Xem: 38099)
Bộ Mật Tông - Gồm có 4 tập - Soạn giả: Thích Viên Đức
(Xem: 13685)
Người Phật tử trên bước đường tu tập hãy kiên trì, tinh tấn, gột rửa thân tâm mình sao cho ngày càng trong sạch, tinh khiết như những đóa sen, vươn lên khỏi bùn nhơ...
(Xem: 13479)
Với đạo Phật, đời sống có chất liệu để cho hoa sen vươn lên bầu trời, có sức đẩy để cho chiếc bè tự do nổi được và vươn ra đại dương.
(Xem: 12361)
Một mùa Phật đản nữa sắp về, tôi lại được vẽ Phật đản sinh. Ngài đứng trên đài sen, tay phải chỉ trời, tay trái chỉ đất. Tôi không thể nhớ đã vẽ được bao nhiêu bức tranh Phật như thế này.
(Xem: 12599)
Trong bản tâm của mỗi chúng sinh vốn có đầy đủ đức tính trong sạchsáng suốt nhưng do bụi trần cấu uế che phủ, nên bản tính uyên nguyên sáng suốt ấy chưa có cơ hội hiển bày.
(Xem: 12072)
Theo truyền thống các nước Phật giáo Nguyên thủy, ngày lễ Đản sanh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được mọi người biết đến với cái tên thân thiết hơn, đó là ngày lễ Vesak.
(Xem: 10729)
Vậy mà má đi đã xa rồi. Giờ đây mỗi lần có dịp con chỉ biết mua vài lá trầu và bửa vài trái cau thắp hương cho má vậy. Con xin má tha lỗi cho con...
(Xem: 11224)
Trong cuộc đời, phận làm con có báo hiếu cả đời, có dời sao lấp biển cũng không báo hiếu hết được công lao sinh thành của mẹ. Vì tình nghĩa mẹ ví như nước trong nguồn.
(Xem: 23378)
Chủ đề chính của bài này là những hình ảnh đẹp được chụp ở một số nước châu Á trong dịp Lễ Phật Đản. Mời anh em cùng xem qua.
(Xem: 33229)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 12817)
Trong trí tuệ vô ngã, ta có thể chứng nghiệm “Ta ở ngoài tất cả”. Đó gọi là giải thoát tuyệt đối. Vì ở ngoài tất cả cho nên ta có khả năng thấy được tất cả.
(Xem: 7413)
Kinh mô tả, mùa an cư đầu tiên, đức Phật đã có mặt tại vườn Nai, còn gọi là vườn Lộc Uyển.
(Xem: 12199)
Hôm nay mùa Phật đản Nắng xuân rọi chói chang, Chim reo hót muôn ngàn Chốn đạo tràng thênh thang
(Xem: 12638)
Suốt thời gian thị hiện Ta-bà, Đức Thích Ca Mâu Ni đã không ngừng giảng dạy cho chúng sanh ở mọi giai cấp, mọi căn cơ từ thấp lên cao...
(Xem: 12058)
Tuyết lạnh cổng chùa đóng Trong chùa ấm hương thiền Phật tâm ai cũng có Phật Đản thấy chân tâm.
(Xem: 12875)
Chân thành đốt nén tâm hương Cúng dường Chư Phật mười phương rạng ngời Mừng ngày Đức Phật ra đời Muôn hoa đua nở nơi nơi rộn ràng
(Xem: 11959)
Lễ Phật Đản tưng bừng khắp chốn, Từ sơn lâm cho đến thị thành. Lòng Phật tử vui mừng khôn xiết...
(Xem: 10709)
Đức Phậtđấng Giác ngộ, sống đời sống giải thoát, an lạc hoàn toàn, nhưng vì thương chúng sinh, nên Ngài thị hiện giữa cuộc đời này...
(Xem: 11384)
Đóa Sen hồng hé nụ Rằm tháng Tư lại về Xôn xao đến làng quê. Đường trần dệt ánh sáng.
(Xem: 11681)
Tóc mây pha màu trắng Biển xanh lộng bóng trời Chim về đôi cánh sãi Vun vút gió ngàn khơi.
(Xem: 10897)
Sự xuất hiện của Ngài được gọi là vi diệu vì sự xuất hiện đó như ánh sáng mặt trời xua tan bóng đêm tăm tối, mang lại hạnh phúc đích thực, bình an vĩnh cửu cho vạn loại...
(Xem: 10814)
Là một con người trên tất cả con người, là một vĩ nhân trên tất cả vĩ nhân, cuộc đời của Đức Thích Ca Mâu Ni gắn liền với một huyền thoại tuyệt đẹp...
(Xem: 10395)
Là những người học Phật, chúng ta nên khéo áp dụng lời dạy của Ngài vào cuộc sống đời thường, chuyển hóa thân tâm, đem Phật Pháp xây dựng thế gian...
(Xem: 10494)
Bản hoài của chư Phật mười phương là muốn chỉ cho chúng sinh thấy, ai cũng có tri kiến Phật, tức Phật tánh, như nhau, bình đẳng không khác.
(Xem: 10725)
Mỗi khi ta chế tác được một chánh tư duy, một tư tưởngbiểu lộ được tuệ giác vô thường, vô ngã, từ bi, trí tuệtương tức thì ta là Bụt.
(Xem: 10649)
Bảy bước chân đức Phật luôn hướng đến những nơi khổ đau. Hơn hai mươi lăm thế kỷ qua, những bước chân ấy vẫn miệt mài đưa biết bao nhiêu thế hệ đi vào từng trang sử đẹp.
(Xem: 11925)
Phước duyên thù thắng phước duyên xuân Từ thị long hoa hiện tánh thuần Hoa nở sắc hương hoa mãn giác Mười phương chung lạc phúc nhân quần
(Xem: 10708)
Bên đài hoa sen trắng Trông thấy ánh đạo vàng Bên niềm vui tĩnh lặng Thấy Phật tỏa hào quang
(Xem: 12751)
Hỡi Vesak thiêng liêng! Hãy cất cao ngọn lửa hùng thiêng cháy bỏng, tiêu hủy đi những tăm tối lầm mê, thắp sáng lên tình thươngtrí tuệ...
(Xem: 10824)
Kinh Tăng Nhất A Hàm quyển III kể rằng: Khi đức Phật hiệu Tì-bà-thi Như Lai ra đời, Thánh chúng lúc ấy có ba hội, toàn là bậc A la hán.
(Xem: 11402)
Lạy Như Lai, Ngài có nghe con khấn nguyện Ảo ảnh, phù du theo hướng khói bay xa Hòa bình thật sự ngự trị cõi Ta-bà
(Xem: 11101)
Có một ngày lịch sử Nhân loại không bao giờ quên Ngày thiêng liêng trọng đại Chúng sinh thoát khỏi ngục tù
(Xem: 11645)
Cách đây hai ngàn bảy trăm năm Vườn Lâm Tỳ Ni Hoa Ưu Ðàm rực sáng Hương đưa ngào ngạt...
(Xem: 10521)
Mỗi năm Phật Đản lại về với người con Phật. Khắp năm châu, muôn triệu con tim cùng hòa chung một nhịp đập, hân hoan kỷ niệm ngày đản sanh của đấng từ phụ.
(Xem: 11270)
Hãy sống như những người con Phật, mở lòng ra, nắm lấy những giờ phút đang có này, vứt bỏ mọi ức, hoài niệm, và nở nụ cười.
(Xem: 12319)
Giây phút ấy thế gian bừng chấn động, Ðóa Ưu Ðàm hé nụ mấy ngàn năm. Sen nở thắm bên hồ hương gió lộng...
(Xem: 11186)
Giờ này, đứng dưới mái chùa, ánh trăng đêm Phật Ðản như tắm gội cho mỗi cá nhân chúng tôi trôi và vơi đi bao lo lắngphiền muộn.
(Xem: 12497)
Đức Phật là nhà truyền giáo đầu tiên hoạt động tích cực nhất trong lịch sử nhân loại. Suốt 45 năm, Ngài đã đi từ nơi này sang nơi khác để hoằng dương chánh pháp cho giới bình dân lẫn trí thức.
(Xem: 11434)
Giáo pháp Phật nhắc ta làm chủ mình, điều tâm, lập hạnh bồi đức để hưởng hạnh phúc vĩnh hằng. Đức Phật không bao giờ dùng quyền uy đe dọa hay ép buộc ai phải theo mình.
(Xem: 11526)
Ngày Đức Thích Tôn từ Thiên cung phát tâm xuống phàm trần để hóa độ chúng sanh, cũng là ngày trần gian có thêm một ánh sáng, ánh sáng chân lý, từ khế kinh do Đức Phật nói...
(Xem: 11322)
Ðức Phật đản sanh là một sự kiện kỳ diệu hy hữu như lời Ngài đã dạy: ”Có một người sinh ra đời vì an lạc của quần sanh, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi ích, an lạchạnh phúc của chư thiênnhân loại.
(Xem: 11597)
Đã bao lâu rồi ta chưa về thăm cha-mẹ, hay bởi vì nghĩ rằng ta có điện thoại hỏi thăm và gởi hình về nên thôi không cần thiết phải về thăm?
(Xem: 13014)
Trong khuôn viên Lâm Tỳ Ni chiều nay, những lá cờ Phật giáo tung bay theo chiều gió, các lá phướn mầu rực rỡ của Phật tử Tây Tạng giăng trên các tàng cây.
(Xem: 14194)
Phật Đản lại về, cuối xuân đầu hạ, cây đủ lá xanh tràn trề sức sống, hoa sen rộ nở đóa đóa diệu hồng, trắng mát, tỏa hương khoe sắc, như đón bậc vĩ nhân...
(Xem: 11021)
Tâm hồn Tôi chao động mãnh liệt khi nhớ lại những ngày hội tấp nập người qua lại mừng ngày Ðản Sanh. Cờ xí Phật Giáo treo ngợp phố...
(Xem: 11883)
Với Ðức Phật, sự phát triển tâm linh cho mỗi cá nhân cũng như những vấn đề chung của cộng đồng xã hội là phải thực hành cho đúng chứ không phải lý thuyết hay quan điểm.
(Xem: 13181)
Hoa sen vừa nở trên đầm biếc Nắng đã lên rồi thức bình minh Chim non trên cành đang nói Pháp Phật đản đến rồi độ chúng sanh
(Xem: 11593)
Đức Từ-Bi vô lượng xuống trần gian Giờ phút thiêng liêng Huy hoàng cõi tục Ðịa cầu sáng ngời trong bạch ngọc Ðóa sen hồng nâng bước đấng cha lành
(Xem: 11443)
Ngày Ðản sinh của Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni là một sự kiện vĩ đại vào loại bậc nhất trong lịch sử xã hội loài người. Ðối với giới Phật tử, sự kiện lớn lao ấy còn mang đậm tinh chất kỳ vĩ...
(Xem: 10943)
Nếu chúng ta tìm hiểu các hoạt động, các nghi thứcPhật giáo ở các nước tổ chức Đại lễ Phật đản ở xứ họ thì chúng ta sẽ học hỏi được rất nhiều điều giá trị...
(Xem: 11297)
Đứng trên cao từ phía gác chuông đại hồng nhìn khắp sân Chùa, tôi thấy một đoàn quý Thầy tề chỉnh trang nghiêm trong bộ y vàng sáng rực...
(Xem: 10835)
Bài thơ mừng đón Đản sinh Âm ba đồng vọng ân tình nước non Quê hương đạo nghĩa vuông tròn Từng trang lịch sử vàng son thái hòa.
(Xem: 11068)
Kiếp nhân sinh chỉ như làn chớp nhoáng Duy có một ngày sinh Tồn tại giữa muôn nơi Phật đản ngày khai hóa nhịp thở cho đời
(Xem: 10902)
Đức Phật ra đời không phải là ngẫu nhiên mà do một đại sự nhân duyên: Ngài có nhiệm vụ mở bày (khai thị) cho chúng sinh thấy vào (ngộ nhập) Phật tri kiến...
(Xem: 10273)
Chúng ta đã học, đã tu, phải hành nữa mới đủ. Tu là sửa, hành là làm, sửa cong ra thẳng, sửa tà thành chánh, làm tất cả mọi việc lành với một tâm hồn trong sạch...
(Xem: 17130)
Hôm nay, trong bầu không khí trang nghiêm mừng Phật đản sanh, hình ảnh của Đấng Từ Tôn qua khói trầm xông tỏa, vẫn là nụ cười trầm tỉnh, uy hùng.
(Xem: 11019)
Sự kiện Thái tử Tất Đạt Đa có đủ 32 tướng đã báo hiệu Ngài không phải là một người thường. Điều đó trở thành hiện thực khi Ngài xuất gia tìm đạo và đã thành tựu được quả vị Phật Đà.
(Xem: 10879)
Những lời đức Phật dạy đã giúp cho nhân loại nhận thấy được qui luật vận độngbiến đổi của vũ trụnhân sinh, để rồi từ đó tạo dựng một cuộc sống phù hợp với những quy luật ấy...
(Xem: 10425)
Sự thị hiện đản sanh của đức Phật trong thân thế thái tử Tất-đạt-đa con vua Tịnh Phạn và hoàng hậu Ma-da cho ta một tia hy vọngchúng ta cũng sẽ có thể thành Phật.
(Xem: 10779)
Khi Thái tử Siddhàrtha vượt thành Kapilavatthu trong đêm trường thanh vắng để vào núi Himalayas tìm đường tu tập, Ngài đã xác định hướng đi cho cuộc chuyển hóa nhân sinh toàn diện nhất trong lịch sử nhân loại.
(Xem: 11397)
Nhân mùa Phật Đản đang trở về trong lòng người con Phật, chúng tôi xin trân trọng giới thiệu tập thơ đặc biệt "Tuyển tập Thơ Phật Đản" của Mặc Giang như là món quà nhỏ gởi đến quí vị...
(Xem: 11090)
Năng nhân là có khả năng thực hiện sự yêu thương; Năng nhẫn là có khả năng kham nhẫn; Năng tịch có khả năng thực hiện đời sống an tịnh...
(Xem: 10589)
Buổi sáng sớm của ngày trọng đại, trong gió có mùi thơm chiên đàn, trầm thủy phả xuống từ các cõi trời. Bầu trời trong xanh và sâu thẳm hơn thường ngày.
(Xem: 11392)
Ngày qua đi chúng ta làm được nhiều điều bổ ích cho tự thân và mọi người, một ngày qua đi cảm thấy có gì đó tiếc nuối. Ngày đó đều là ngày Phật Đản.
(Xem: 10363)
Hàng năm khi mùa sen nở, người con Phật ở khắp nơi trên hành tinh này hân hoan, tưởng nhớ về những lời dạy vàng ngọc của đức Thế Tôn; tâm niệm mỗi người luôn hướng về ngày kỷ niệm đản sanh của bậc Đạo Sư.
(Xem: 10662)
Cũng như hoa sen mọc ra từ bùn, lớn lên từ bùn nhưng không bao giờ nhiễm bùn. Đức Phật cũng vậy, tuy Ngài sanh ra trong cõi đời ô trược nhưng không bị nhiễm ô bởi cõi đời ô trược.
(Xem: 12786)
Như chúng ta đã biết, thế giới của Phật là trạng thái tự tại với tất cả mọi chướng ngại đến tri thứcquấy rầy của cảm thọ. Đấy là trạng thái mà tâm hoàn toàn khai mở.
(Xem: 19298)
Cho dù gặp lúc phong ba, Tình thương của mẹ chan hòa xiết bao! Ngày của mẹ, đẹp làm sao! Cho con dâng chút ngọt ngào nhớ ơn.
(Xem: 19733)
Chập chờn thức giấc nửa khuya, Tưởng hình bóng Mạ như vừa thoáng qua. Áo dài nối vạt phất phơ!
(Xem: 21319)
Đêm qua nhớ Mẹ xiết bao! Trằn qua trở lại, nghẹn ngào lòng con. Mơ màng giấc mộng chưa tròn, Nửa đêm ray rứt héo hon vô cùng.
(Xem: 20359)
Con đã viết nhiều bài thơ về Mẹ Không lần nào kể hết nỗi lòng con. Ơn nghĩa sinh thành như biển như non
(Xem: 19780)
Con nghe rằng mẹ giấu điều lo lắng Mẹ hay buồn, hay lo nghĩ về con Mẹ hay bước ra ngoài con đường vắng...
(Xem: 19070)
Cơn bão tuyết châm chíchvùi dập Ánh trăng thanh lạnh lẽo chiếu trên trời Giờ tôi lại thấy rìa làng quen thuộc...
(Xem: 20506)
Bình minh đang gọi ra bình minh khác Trên cánh đồng lúa mạch bốc khói sương? Tôi nhớ về người tôi thương mến nhất...
(Xem: 21115)
Vĩ đại thay! Sau từng cánh cửa Dù đi xa hay ở rất gần Ta vẫn nghe tiếng con gọi mẹ...
(Xem: 17957)
Mẹ có nghĩa là ánh sáng Một ngọn đèn thắp bằng máu con tim Mẹ có nghĩa là mãi mãi Là cho đi không đòi lại bao giờ
(Xem: 21863)
Con sẽ không đợi một ngày kia Khi mẹ mất đi mới giật mình khóc lóc Những dòng sông trôi đi có trở lại bao giờ?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant