Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 1: Khoảng Lặng

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 10738)
Chương 1: Khoảng Lặng

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN I: THIỀN LỘ

Chương 1

KHOẢNG LẶNG

Ani Tenzin Palmo

Ani Tenzen Palmo sinh năm 1943 tại Anh. Năm 1964, bà sang Ấn Độ và đã ở lại đó tổng cộng 24 năm. Bà đã trãi qua 6 năm ở Dalhousie trong tu viện của Thầy bổn sư, và 18 năm ở Lahul (gần Ladakh, phía Bắc Ấn Độ, vùng Hy Mã Lạp Sơn), trong đó có 12 năm nhập thất trong một hang núi, trước khi trở lại Âu châu để sống ở Assisi, Ý, năm 1988. Dầu bản chất thích sống ẩn dật, nhưng bà Ani Palmo là người rất vui tính, thẳng thắng, cởi mở khi tiếp xúc với người khác.

Bắt Đầu Từ Chỗ Của Bạn

Ai cũng phải bắt đầu từ một nơi nào đó. Không ai trên thế gian nầy có thể bắt đầu ngồi xuống tọa thiền ngay. Người Tây phương thường có quan niệm sai lầm là người Á châu chỉ cần ngồi xuống là mọi việc sẽ tuần tự xảy ra một cách hoàn hảo. Sự thật thì không phải vậy, tôi đã hỏi nhiều thiền sinh và các vị lạt ma về điều nầy. Tất cả đều cho biết lúc khởi đầu khó khăn thế nào, họ đã phải khổ công tu tập như thế nào. Vì thế chớ nên sớm nản lòng.

Nếu tâm bạn còn quá nhiều phiền não, bạn sẽ thấy rất khó định tâm lúc bắt đầu. Có nhiều con đường khác nhau để xuất phát, bởi nhiều phương cách hay bằng cách quán nội tâm. Điều quan trọng là: đừng nghĩ rằng bạn chỉ rèn luyện tâm khi ngồi trên chiếu thiền.

Thực Tập Từng Phút Giây

Người Tây phương thường nản chí vì cảm thấy họ không có thì giờ để thực hành. Họ luôn nói: "Chúng tôi phải làm việc, chúng tôi không có thời gian ngồi thiền". Họ nghĩ rằng chỉ có thể thực hành khi ngồi tụng niệm hay khi thực tập thở ra hít vào. Không đúng như thế. Thực tập là việc ta phải làm trong từng phút giây, suốt cả ngày. Đó là cách bạn tiếp xúc với người khác. Cách bạn uống trà, cách bạn làm việc và cách bạn cảm nhận được những phản ứng nội tâm với mọi sự. Đó là sống một cách tỉnh thức. Phần đông chúng ta sống trong trạng thái của người mộng du.

Thực tập là (bà búng ngón tay) sự tỉnh thức, phát triển trí tuệ, sáng suốt, đồng thời cũng thương yêu, tử tế, quan tâm đến người khác. Nhưng ta không chỉ tử tế đối với tất cả chúng sanh trong mười phương, như trong lời nguyện cầu, mà thực tế là phải tử tế với những người ở bên cạnh ta như chồng, như vợ, con cái, đồng nghiệp, người hành khách ta gặp trên xe buýt, hay bất cứ một ai. Bạn nên biết là họ cũng khổ như ta. Vì thế một nụ cười, một cử chỉ tử tế có ý nghĩa biết bao đối với họ. Đó là thực tập

Không phải là bạn đã niệm được bao nhiêu câu kinh, điều đó không quan trọng. Thật là sai lầm khi người ta nghĩ là phải nhập thất cho lâu, hay phải thực hiện hằng triệu thứ thực tập khác nhau mới đạt được điều gì. Sự thực tập chân chính của Bồ Tát đạo không liên quan nhiều đến những điều đó, mà quan trọng là cách chúng ta sống, đối xử với mọi người quanh ta.

Hằng ngày, tôi thực tập quý trọng mọi người, không kể họ là ai, tuổi tác thế nào. Mọi người đều xem mình quan trọng. Chúng ta phải coi trọng điều đó. Tôi cũng cố gắng để người khác có thể là họ, mà không phán đoán, đánh giá họ. 

Mỗi người đều đặc biệt, có cá tính riêng trong cách của họ. Giống như trong một vũ điệu, mà mỗi người đều có điệu nhảy riêng. Hay như trong một dàn nhạc giao hưởng, mỗi người sử dụng một nhạc cụ riêng, với tiết tấu riêng của mình. Người ta không phải hành động theo một mẫu mực nào đó; họ có quyền tự do được là họ.

Tôi thích có những lúc được ở một mình, nhưng không phải vì tôi không thích tiếp xúc với người khác. Chỉ vì trong tĩnh lặng, tôi tìm thấy sự hòa đồng cũng vũ trụ. Tôi không bỏ quên thế giới bên ngoài. Ngược lại, chính nhờ có những khoảng thời gian một mình, tôi cảm thấy cởi mở hơn với người khác, cảm nhận được sự có mặt của người khác.

'Bạn Là Một Kaguypa' (1)

Tôi trở thành một Phật tử năm 18 tuổi và bắt đầu tu tập ở Luân Đôn từ đó. Sau 6 tháng, tôi gia nhập hội Xã Hội Phật giáo. Họ có lớp cơ bản Phật giáo và lớp thiền.

Lúc bắt đầu tôi theo Nguyên thủy, tu tập ở Sinhalese Vihara. Lúc đó, bạn hoặc là tu theo Nguyên thủy hoặc là thiền. Phật giáo Tây tạng bị xem là không có phẩm chất, thấp hèn, với các phép thuật ma quái, những cách thể hiện dục tình kỳ quặc - tóm lại tuyệt đối không phải là Phật giáo, nên dứt khoát là tôi không muốn dính dáng gì đến. Nhưng một ngày kia, tôi đã đọc một quyển sách, đến phần cuối có đoạn ngắn nói về Phật giáo Tây tạng như sau: "Ở Tây tạng có bốn tông: Nyingmapa, Sakyapa, Kagyupa và Gelugpa".

Khi đọc đến đó, bên trong tôi như có tiếng nói: "Bạn là một Kaguypa". Tôi không biết khám phá nầy có ý nghĩa gì, nên đã hỏi một người thông thái về Phật giáo Tây tạng, "Kagyupa là gì?" Cô bạn bảo tôi đọc Milarepa, rồi cô trao cho tôi một quyển sách dịch của Evans-Wentz's về cuộc đời của Mila. Sự kiện đó đã thay đổi hoàn toàn cái nhìn của tôi. Tôi nhận ra rằng mình phải tìm một vị thầy, có nghĩa là tôi phải đi Ấn Độ.

Khoảng thời gian đó, ngài Chogyam Trungpa Rinpoche đã có mặt cùng với Akong Rinpoche từ Ấn Độ, và ông đã hướng dẫn tôi tu thiền. Một ngày, ông bảo tôi: "Có thể Cô khó tin điều nầy, nhưng ở Tibet, tôi cũng là một lạt-ma có tiếng. Tôi không hề nghĩ sẽ đến nơi đây, nhưng tôi có thể dạy thiền cho Cô không? Tôi phải có một đệ tử chứ".

Tôi trả lời không có vấn đề gì đối với tôi, thế là ông bắt đầu dạy tôi thiền. Đó là phương pháp Mahamudra, ngồi xuống, để tâm thư giãn, rồi quán sát các vọng tưởng đến rồi đi.

Mahamudra (2)

Phương pháp Mahamudra rất đơn giản, và có lẻ đó chính là cái khó của phương pháp nầy. Căn bản phương pháp nầy chỉ việc là ngồi xuống với tâm thư giãn, đồng thời giữ tâm rất chánh niệm, tỉnh giác. Bạn chỉ thực tập nhận biết các vọng tưởng khi chúng đến rồi đi, mà không cố gắng phát khởi, ngăn cản hay chạy đuổi theo chúng. Bạn chỉ biết sự có mặt của chúng. Bản chất của tư tưởngtrong sáng. Một khi sự thực tập đã được phát triển, các vọng tưởng sẽ thưa dần, vì tâm được thư giãn. Khi các vọng tưởng đã thưa nhạt, khi sự tỉnh giác của bạn ở cao điểm, ở khoảng giữa của hai tưởng, bạn có thể bắt gặp được một sự thanh tịnh ở giữa và sau các vọng tưởng. Sự trong sáng cực độ nầy là không gian bao la, sự tỉnh giác, bản tâm chân thật

Bạn có thể chỉ thực hành duy nhất phương pháp Mahamudra. Cần có một vị thầy uyên thâm cạnh bên, vì ta dễ đi bị dẫn dắt đi lang thang, lúc đó cần có người chất vấn ta: "Cái gì đã xảy ra? Như thế nào? Có giống như thế nầy hay thế kia?" Điều đó giúp cho sự thực hành của ta được định hướng, rõ ràng. Bằng không, nên thực hành Mahamudra ở cuối thời thực tập quán tưởng chính của ta. Rồi hãy để tâm được thư giãn đi vào khoảng vắng lặng của nội tâm, và ý thức được điều đó. Cái không gian bao la, sự sáng suốt, sự tỉnh giác mà bạn nắm bắt được giữa các vọng tưởng, đó là tâm không.

Nếu chánh niệm của bạn rất cao ở lúc đó, bạn sẽ thấy được nó. Nói rằng 'thấy' có thể làm bạn hiểu lầm, vì ở thời điểm đó, không còn cái thấy nữa. Mahamudra là như thế đó.

Dĩ nhiên là khi đã nhận biết được trạng thái đó, bạn bắt đầu có thể phân tách được điều đó với cái nhìn thật sự của Phật giáo: chánh niệm, vọng tưởng, sự vắng lặng sau vọng tưởng, chúng có giống nhau hay khác nhau? Nếu chúng khác thì khác như thế nào? Nếu giống nhau, thì giống ở những điểm nào? Bạn bắt đầu đặt câu hỏi để thấu đạt được cái kinh nghiệm đó. Điều nầy rất quan trọng khi tu tập theo Phật giáo; hành giả không chỉ có chứng nghiệm, mà còn phải hiểu được sự chứng nghiệm của mình bằng cách phân tích, đặt câu hỏi.

Pháp Nhiệm Mầu

Tôi luôn mơ ước được trở thành một nữ tu. Khi còn nhỏ, tôi đã nghĩ đến tu theo dòng Carmelites, là nơi mà bạn bước vào, cửa đóng lại sau lưng, và bạn sẽ không bao giờ ra khỏi nơi ấy. Rất tiếc là tôi không tin vào ý nghĩa của một vị Trời nào đó, nên Thiên Chúa giáo không hấp dẫn tôi. Khi mới được nghe nói đến Phật giáo, tôi chỉ nghe người ta nhắc đến các vị Tăng, nên tôi rất buồn vì tưởng là không có các nữ tu sĩ. Khi cuối cùng được thấy các ni cũng được nhắc đến ở đâu đó, tôi quá đỗi vui mừng, và biết đó là việc mình muốn được trở thành

Nếu nhìn bề ngoài, tôi không giống một tu sĩ chút nào. Tôi luôn ăn mặc đẹp, có nhiều bạn trai, chạy lăng xăng bên ngoài -không phải là loại người sẽ trở thành người tu. Tuy nhiên, khi gặp được vị lạt-ma của tôi, tôi chỉ muốn được ở cạnh Thầy, muốn hoàn toàn dâng hiến cả đời cho Phật pháp. Tôi hỏi Thầy cho tôi được xuất gia và Thầy đã chấp thuận dầu chỉ mới biết tôi được ba tuần.

Phật pháp quá thâm thẳm nhiệm mầu, tôi cảm thấy không thể bỏ phí chút thì giờ nào, mà không trì Pháp. Tôi không muốn bị xao lãng vì những công việc khác; tôi chỉ muốn suốt đời được ở bên Thầy, hành pháp, trì giới bằng tất cả khả năng của mình. Tôi không muốn phí thì giời cho tình cảm trai gái. Nếu tôi thật sự muốn yêu thương ai, thì tôi chỉ muốn dành sự thương yêu đó cho vị lạt-ma của mình, mà không cần gì thêm nữa. Dĩ nhiên là khi ở bên cạnh Thầy, tôi làm việc. Tôi là thư ký của Thầy, cũng như dạy tiếng Anh cho các vị tăng trẻ. Tôi làm việc 12 tiếng mỗi ngày. Vì tất cả là cho vị lạt-ma của tôi, cũng là cho Phật pháp

Quan hệ của tôi với người khác giới hoàn toàn thay đổi. Là người tu, tôi có thể thân cận với họ mà không còn có ý niệm trai gái nào. Họ cũng cảm thấy thoải mái cạnh tôi. Tôi coi họ như bạn, anh hay em tôi, nên đơn giản là không có vấn đề gì. Điều nầy làm cho sự quan hệ của chúng tôi thêm cởi mở, phóng khoáng, và tôi rất cảm ơn điều đó. 

Trong suốt bao năm làm nữ tu sĩ, tôi không hề, dù trong phút giây, ân hận về quyết định của mình. Tôi luôn hết lòng kính trọng, thương yêu tăng đoàn. Cái cảm giác rằng đã có được một truyền thống gìn giữ từ thời Đức Phật đến nay, cho tôi một sức mạnh, niềm vui vô bến bờ. Hình ảnh các vị tăng ni là tấm gương của cuộc sống vì đạo Pháp.

Tây phương cần có những tăng đoàn nhỏ, bao gồm các vị tăng ni thật sự là những người tận tụy, để trở thành trung tâm điểm của cuộc sống đầy chánh pháp. Điểm chánh yếu của việc trở thành tăng ni là chỉ với một hành động đó, nó có thể quét sạch bao vướng víu trong cuộc đời của bao người: sự quan hệ với người khác giới, việc yêu thương, ghen tuông, bất an, lập gia đình, có con cái. Đây là những điều quan trọng, nhưng chúng có thể làm suy giảm năng lực, sức mạnh tâm linh mà ta có thể dành cho sự thực hành Phật pháp.

Không phải ai cũng cần xuất gia, và cũng thật sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có người tu mới có thể hành pháp. Nhưng Đức Phật đã gầy dựng nên tăng đoànrõ ràng đó là một cách sống giúp người ta có sự tự do, phóng khoáng, và thời gian để dành cho sự tu tập thực hành pháp trọn vẹn.

Cuộc Sống Ẩn Dật

Thầy Lạt-ma bảo tôi: "Phần con, sống một mình thì tốt hơn". Bất cứ khi nào tôi đề nghị được sống với ai, với một vị ni khác, thì Thầy luôn bảo: "Không, với con, tốt hơn là sống một mình".

Lúc đầu khi đến Lahul, tôi sống trong khuôn viên của tu viện, dù tôi sống một mình trong một gian nhà, cũng như mọi người khác trong tu viện. Có cả tăng và ni ở đó. Nói chung, chúng tôi sống rất hoà hợp, không có vấn đề gì. Tuy nhiên, đó không phải là nơi lý tưởng để nhập thất, vì thường tôi là người duy nhất nhập thất, và nhà tôi ở giữa khuôn viên tu viện. Ai cũng có những sinh hoạt bình thường, tụ họp bạn bè, nói chuyện dai dẳng, trên các sân thượng từ nhà nầy qua nhà kia, vì thế thật không được yên tĩnh lắm.

Tôi quyết định phải sống cô lập hơn. Sau đó, tôi được nghe về một cái hang, nên đến đó sống. Thật là một nơi lý tưởng, tôi sẽ không trách được ai nếu việc tu tập không có kết quả. Rõ ràng là nếu bạn thực sự muốn tu chuyên sâu, thì hoặc là bạn phải tuyệt đối sống một mình hoặc là phải ở với những người cùng mục đích. Nếu không thì sẽ rất khó khăn.

Mỗi năm tôi thường bị tuyết giam một thời gian dài, nhưng tôi chưa bao giờ cảm thấy cô đơn. Trái lại, tôi thường nghĩ rằng không có nơi nào trên trái đất nầy tôi muốn có mặt hơn là ở đây và không có việc gì tôi muốn làm hơn là tu tập.

Lần duy nhất trong đời tôi cảm thấy cô đơn là khi tôi sống với Thầy lạt-ma của tôi trong tu viện của Thầy với 80 vị tăng khác và tôi là người ni, người ngoại quốc duy nhất. Mọi người sống với nhau như một cộng đồng, còn tôi luôn là người đứng ngoài. Khi tôi thực sự sống một mình, tôi lại không cảm thấy cô đơn dù trong phút giây. Thật là vui sướng khi biết rằng tôi có tất cả thời gian, không gian nầy để hoàn toàn chú tâm vào việc tu tập mà không bị cái gì khác làm xao lãng. Nếu thỉnh thoảng tôi thấy có hơi chán, tôi lại đọc một quyền sách thú vị về Phật pháp.

Tôi rất thích được một mình. Tôi cũng thích có người khác, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn, trong khi tôi có thể ở một mình mãi mà không bao giờ chán. Tôi nghĩ có lẽ vì khi có người khác, tôi thường phải thỏa hiệp với họ, để thích hợp với hoàn cảnh, nên không hoàn toàn sống thật với chính mình. Khi một mình, tôi có thể sắp xếp việc trong ngày cho riêng mình, có thể chân thật với chính mình và tu tập. Điều đó khiến tôi cảm thấy không bị gò bó. 

Phần đông đều có khó khăn khi phải nhập thất một mình, nhưng theo tôi nghĩ, đó là tuỳ thuộc tâm bạn thế nào. Có một số người đến ở trong hang của tôi, khi tôi không có mặt ở đó, họ vấp phải nhiều khó khăn. Cuối cùng họ trở về tu viện, hoặc tệ hơn trở về làng. Họ không thể ở một mình trong hang. Họ trở nên quá giải đãi, hay rơi vào trạng thái hoang tưởng hay sợ hãi cùng cực, khiến họ không biết giải quyết thế nào.

Một số người nghĩ rằng việc sống một mình để tu tậpchủ nghĩa trốn tránh, nhưng thực ra đó khoảng thời gian khi bạn có thể thực sự đối mặt với thực tại vì không còn có nơi nào để trốn tránh. Bất cứ việc gì xảy ra, bạn không thể mở TV, tán gẫu với hàng xóm, đi lang thang hay làm gì đó, bạn chỉ phải ngồi đó và đối mặt với nó. Dầu cho đó là một vấn đề ở bên ngoài hay ở nội tâm, chỉ có bạn mới giải quyết được. Riêng cá nhân tôi, tôi cảm thấy điều đó cho tôi thêm sức mạnh, vì tôi khám phá ra rằng thực sự tôi có nhiều khả năng hơn tôi tưởng.

Đào Hầm Ra!

Một năm kia, một trận bão tuyết bất thường đã kéo dài bảy ngày, bảy đêm. Nó gây ra những trận lở tuyết kinh hồn khắp nơi ở Lahul, nhiều làng mạc bị hủy hoại hoàn toàn, hàng ngàn cây cối bị tróc gốc và hàng trăm người tử nạn. Tôi bị kẹt trong hang dưới hàng tấn tuyết. Ống khói bếp lò của tôi bị bể, nên tôi không thể đốt lửa. Bên trong hang, mọi thứ tối đen, còn khi tôi mở cửa ra thì chỉ có bức tường nước đá trước mặt.

Tôi bị kẹt trong khoảng không gian nhỏ bé nầy. Tôi cảm thấy không khí càng lúc càng ít đi, tôi thực sự cảm thấy cái chết gần kề. Tôi còn có thời gian nghĩ đến điều đó. Giờ nhìn lại, cũng thấy thú vị vì tôi không cảm thấy hoảng loạn, không có cảm giác bị giam hãm, tù túng; tôi rất bình tĩnh, hoàn toàn chấp nhận sự việc. Sau khi nghiền ngẫm, tôi nhận ra rằng chỉ có vị lạt-ma là đáng cho tôi nhớ đến; ngài là chỗ nương trú duy nhất của tôi.

Với tất cả lòng thành, tôi cầu nguyện ngài dẫn dắt tôi trong cõi trung ấm (cõi ở giữa sự chết và tái sinh), và khi tôi làm thế, tôi nghe một giọng nói vang lên trong tôi: "Đào hầm ra!" Nên tôi bắt đầu đào tuyết ra khỏi cửa. Dỉ nhiên làm thế thì tôi lại phải mang tuyết vào trong hang, không còn chỗ nào khác nữa. Lúc đầu tôi dùng một cái xẻng, sau đó, khi tôi bắt đầu có một đường hầm, tôi dùng nắp nồi, rồi sau đó là dùng tay. Mất khoảng một giờ hay gì đó. Có lúc tôi như bị nén trong cái ống nước đá nhỏ xí nầy. Bên dưới cũng tối, mà trước mặt cũng đầy bóng tối.

Dần dần đường hầm bắt đầu có ánh sáng, và tôi thoát ra được. Tuyết phủ nhiều đến độ không còn thấy cái hang đâu nữa. Tôi không còn nhìn thấy cây cối gì chung quanh, cũng không thấy nóc của cây trụ ba thước cao của tôi, chỉ là một không gian trắng xoá, trong khi bão tuyết vẫn không dứt.

Tôi phải xúc tuyết ra khỏi hang, nên lại chui trở vào hầm. Khi vào đến bên trong, mắt tôi cảm thấy đau buốt, đỏ cạch như thể có ai đã thải cát nóng vào đó. Nước mắt chảy ra, và tôi nhận biết mình đã bị chói tuyết. Dù sao, tôi cũng đã thoát chết.

Hôm sau, tuyết phủ trở lại, tôi lại phải xúc tuyết ra. Tôi phải làm như thế ba lần trước khi trận bão tuyết tan đi. Khoảng một tháng sau đó, một tăng sĩ từ tu viện đến báo cho tôi biết là các xóm làng đều bị tàn phá. Có lẻ tôi là người được an toàn nhất, sống trong cái hang không thể bị tàn phá nầy. Tôi nhận ra rằng trong lúc nguy kịch đó, tôi chỉ có thể dựa vào những gì mình có trong tầm tay và nghị lực bên trong. Không có ai để gánh vác cho tôi, tôi phải một mình vượt qua, và tôi đã làm được một cách hoàn toàn điêu luyện.

Đài Truyền Hình Nội Tâm

Tôi thường nhập thất từ tháng mười một đến tháng năm hay sáu. Thường là tháng năm, vì khoảng thời gian đó tuyết bắt đầu tan, và tôi phải để ý đến điều đó, nên thực sự không thể tiếp tục nhập thất một cách nghiêm ngặt nữa. Những gì tôi làm giữa tháng Năm và tháng Mười Một thường thay đổi. Tôi phải chăm sóc vườn tược, lấy thêm đồ dự trữ, kiếm củi, trét bùn lên hang, vân vân. Thỉnh thoảng cũng có người đến thăm. Tôi cũng dùng thời gian đó để đọc sách, vẽ nhiều hơn.

Rồi khoảng tháng mười, tôi đi Tashijong để thăm thầy lạt-ma và trên đường về đôi lúc tôi ghé qua Manali để mua đồ dự trữ. Dỉ nhiên tôi vẫn hành thiền vào sáng sớm và tối, khi tôi phải bận rộn trong ngày.

Có lần tôi nhập thất ba năm, nhưng cuối cùng bị gián đoạn, nên thực sự chỉ có hai năm và chín tháng. Trong khoảng thời gian nhập thất đó, một người Lahul tiếp tế vật thực cho tôi hằng năm.

Về nội tâm, vấn đề chính, là có những lúc tôi cảm thấy chán thực tập. Suốt mười hai năm sống trong hang, điều đó thường xảy ra. Thời gian đầu sau khi nhập thất, sau khoảng hai tuần lễ, tôi cảm thấy: "Ấy dà! Mình phải còn thực hành đến bao nhiêu tháng nữa!" Tóm lại, cũng giống như phải xem một chương trình truyền hình, bốn lần một ngày, tuần nầy sang tuần khác, tháng nầy qua tháng kia. Có những lúc, tôi cảm giác, "Thôi, không làm nữa!"

Vì không có ai ở đó để sách tấn tôi, hay để tôi tâm sự, hầu thoát ra khỏi sự đơn điệu, lần nữa tôi biết mình phải tự giải quyết thôi. Tôi biết cách duy nhất là không được đầu hàng, cứ phải tiếp tục. Sau một thời gian, tôi nhận diện được cảm thọ chán nản, nên nó không còn là vấn đề nữa. Tôi cứ tiếp tục, cứ tuân theo công việc đều đặn. Điều căn bản là không được gián đọan, không được tự hỏi là có thích thực hành không. Sau một thời gian, việc tu tập của tôi tự nhiên trôi chảy đâu vào đấy. Rồi nó bắt đầu lên một tầng cao hơn, trở nên rất thú vị, gần như cuốn hút. Vào cuối thời nhập thất, tôi tự động cảm thấy hăng hái tu tập hơn là lúc bắt đầu mới nhập thất.

Cuối cùng tôi nhận ra vấn đề chỉ là ở trong suy nghĩ của ta hơn là thực tế; cái ý nghĩ rằng làm sao tôi có thể chịu đựng suốt thời gian nhập thất, trong khi vẫn biết rằng thực ra tôi rất thích làm việc đó.

An TrúHỷ Lạc

Khi mới bắt đầu tu Thiền, nhiều người thường quá hăng hái, bắt đầu ngay bằng cách ngồi cả tiếng đồng hồ. Nhưng thực tế cho thấy là họ khó duy trì được sự chủ tâm trong suốt thời gian đó, ví thế họ trở nên chán nản. Sau đó, thì dù có ý hướng tốt, họ cũng đành bỏ cuộc. Tôi nghĩ tốt hơn hết là bắt đầu bằng 10 hay 20 phút mỗi ngày.

Bắt đầu bạn có thể đặt hình tượng vị nào mà bạn tôn kính, đốt nhang đèn, để chuẩn bị tâm thức. Hãy ngồi xuống và tự nhủ rằng bạn sẽ dành trọn khoảng thời gian ngắn ngủi nầy cho việc tham thiền, một việc không chỉ đem lại lợi ích cho bạn mà cho cả những người bạn tiếp xúc. Dầu ngắn ngủi, nhưng là một khoảng thời gian đặc biệt, riêng dành cho sự tu tập của bạn.

Khi bạn khởi niệm gì, suy tư hay lo lắng, hãy để chúng qua đi. Bằng cách chỉ ngồi theo dõi hơi thở. Đức Phật đã chứng ngộ bằng phương cách đó. Đó không phải điều đơn giản, nhưng ai cũng có thể làm được, rồi từ đó tiến lên, tiến lên mãi. Không có sự cùng tận.

Vì thế hãy ngồi im lặng, theo dõi hơi thở vào ra, ở mũi hay ở bụng, nơi nào bạn thấy thõa mái là được. Cố gắng trụ theo hơi thở, theo sự vào ra, đừng lo sợ mất tâm. Không có vấn đề gì đâu. Bạn dừng mong đợi mọi thứ sẽ tốt đẹp ngay lúc bắt đầu; đó là kiêu mạn. Hãy theo dõi hơi thở vào ra. Nếu tâm khởi vọng tưởng, chỉ cần kéo nó trở lại, lần nầy tới lần khác. Kéo tâm trở về với hơi thở chính là sự thực tập.

Thực tập như thế trong 10 hay 20 phút. Và hãy dừng ở đó dầu bạn vẫn còn có thể tiếp tục. Hãy ngưng lại ở đó hơn là tiếp tục đến khi bạn trở nên trạo cữ. Bằng không, lần sau bạn sẽ không cảm thấy sốt sắng ngồi nữa. Trái lại, nếu bạn ngưng lại khi vẫn còn muốn tiếp tục ngồi, thì bạn sẽ thấy hứng thú để ngồi lần sau. Hành thiền không phải là một thử thách, mà phải là sự an trúhỷ lạc.

Quá Trình Khám Phá

Qua nhiều năm thực tập, việc hành thiền của tôi đã chuyên sâu hơn, trở nên rõ ràng hơn. Người ta thường nói về những điều thiền giả đạt được khi hành thiền, nhưng đối với tôi điều quan trọng không phải là mình đã đạt được gì mà là mình đã đoạn diệt được gì. Quá trình hành thiền là để bộc lộ, khám phá ra những gì ta vẫn hằng biết. Bạn sẽ không khám phá ra được điều gì mới lạ đâu. Chỉ là những điều bạn đã biết mà không biết rằng mình biết. Chúng ta biết tất cả, nhưng chỉ là không nhận thức được điều ấy thôi. Thiền mở ra cho ta những lối về với chính trí tuệ nội tâm, và phá vỡ các chướng ngại để ta có thể thấy rõ ràng hơn.

Mỗi người khi hành thiền đều có những khó khăn riêng. Tuy nhiên nếu ta thực tập trong sự thoải mái, và có chú tâm thì khó thể sai lệch. Vấn đề là đôi khi ta thấy sự hành thiền của mình dễ dàng quá. Ta cảm thấy được an lạc, trong khi thực sự thì tâm ta lúc đó ở trạng thái ù lì. Bạn có thể dể dàng ngồi như thế vài tiếng đồng hồ mà không hề hay biết tâm đang bị hôn trầm

Dấu hiệu thực sự của việc hành thiền đúng cách là khi tâm sáng suốt, rõ rànghoàn toàn tỉnh thức, đồng thời cảm thấy thư giãn, nhẹ nhàng. Điều quan trọng là giữ được sự cân bằng nầy. Nếu bạn đạt được sự cân bằng đó, bạn sẽ biết ngay. Trong trạng thái tự tại, tỉnh thức, sáng suốt, bạn không thể nào có thể sai lạc được.

Vị Thầy Chỉ Đường

Tôi không nghĩ nhất thiết phải có thầy. Nếu bạn ở trong hoàn cảnh không có thầy, thì đó không phải là lý do để ta không thể bắt đầu tu tập. Có rất nhiều sách vở, và với chút ít hiểu biết căn bản, bạn có thể tự đi một bước dài mà không có thầy hướng dẩn.

Tuy nhiên, nếu có được một vị thầy chân chính thì chắc chắnmọi việc sẽ dễ dàng hơn nhiều. Như trên một cuộc hành trình, bạn có thể đi một mình, nhưng nếu có người hướng dẩn đã qua đoạn đường ấy, đã biết địa thế rõ ràng thì chắc chắn là chuyến đi của bạn sẽ dể dàng, nhanh chóng hơn. Bạn được đảm bảo không bị lạc đường, không phải lo lắng, vì bạn biết mình được bảo vệ. Đó là trách nhiệm của vị thầy, là để chỉ đường cho bạn. Họ không thể đi dùm bạn, không ai có thể làm được việc đó cho bạn. Họ chỉ có thể chỉ cho bạn hướng đi.

Với Thầy của tôi, thật là tuyệt vời. Từ lúc bắt đầu, ngay khi vừa nghe tên ông, tôi biết ngay đó là Thầy tôi. Ông cũng không nghi ngờ dù chỉ trong phút giây rằng tôi là đệ tử ông, nên từ lúc bắt đầu chúng tôi đã có một mối dây liên hệ thật thân thiết. Ông là một vị lạt-ma tuyệt vời, và tôi mang ơn ông sâu nặng, không thể diễn tả bằng lời với ông như thế nào. 

Ông đã dạy cho tôi thật nhiều bằng chính sự có mặt của mình, hơn là lời nói. Ông thường gợi ý tôi nên thực hành theo phương pháp nào và ban cho tôi khả năng thực hiện chúng. Sau đó tôi mới thực sự được các thiền sinh khác trong tu viện chỉ dạy. Vị lạt-ma ở đó chỉ để có mặt, để hướng dẫn và hộ trì. Chỉ được ở cạnh bên Thầy Rinpoche, tôi đã học được rất nhiều. Sự có mặt của một vị thầy chân chính không thể diển tả thành lời, một điều khó tin nổi - một hiện thân sống động của những gì ta mong đạt được. Bạn biết điều đó có thể thực hiện được vì Thầy có mặt để chỉ cho bạn phương cách.

Bất cứ điều gì tôi muốn thực hiện trong việc tu tập của mình, tôi có thể hỏi ý kiến Thầy và Thầy có thể cho tôi biết điều đó không cần thiết hay nên làm. Điều đó động viên tôi mạnh mẽ. Nếu vị lạt-ma nói: "Tốt lắm, hãy làm đi". Tôi có thể bắt đầu ngay, và đặt hết mọi nghị lực của mình vào đó mà không chút gì lo lắng.

Trong những lúc khó khăn, thí dụ như khi tôi phải tu tập một mình, tôi vẫn có thể cầu nguyện đến với lạt-ma. Nếu tôi có vấn đề gì, tôi chỉ cần chú tâm, cầu nguyện đến thầy Rinpoche xin một lời giải đáp. Dĩ nhiên đối với tôi, thì không thể thiếu Thầy. Lạt-ma luôn ở trong trái tim tôi.

Giờ thì chính sự hành thiền mang đến cho tôi sự cảm hứng. Ở thời điểm nầy, dù tôi có muốn bỏ hết tu tập, tôi cũng không làm được, nó đã trở thành một phần của tôi. Càng tu tập, tôi càng cảm nhận Phật pháp thật độc đáo, tuyệt vời làm sao. Tôi cảm tạ ơn sâu của Đức Phật đã truyền dạy lại cho chúng ta những điều này.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11400)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11574)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13570)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14133)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10319)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10812)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11345)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11296)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11457)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10187)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9973)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10728)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11330)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42262)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10496)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11881)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10040)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10475)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10646)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45817)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32147)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11353)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10718)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11364)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10653)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13491)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12400)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11052)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10631)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12342)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11184)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11858)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29320)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9233)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10561)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10258)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10611)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10921)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10830)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32187)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27428)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17826)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11890)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12301)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10455)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11714)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10445)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10804)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28119)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10169)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10296)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10666)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10781)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11240)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10412)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10699)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11484)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18283)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10537)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12864)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11762)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29237)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28630)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28330)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13347)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22811)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13465)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11590)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13837)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25759)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26111)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22339)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14501)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12079)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11821)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11698)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11499)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33233)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31880)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12051)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39683)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22542)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11982)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14262)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13364)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14319)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12081)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10422)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11247)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13350)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34572)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12649)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12242)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13549)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12641)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12996)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16321)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11769)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27423)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28481)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant