Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật tại tâm

19 Tháng Hai 201100:00(Xem: 10069)
Phật tại tâm

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch - Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

PHẦN II. Phù trợ người lâm chung

Phật tại tâm

"Vì tâm là nhân của trí huệ bát-nhã, đừng tìm tánh Phật ở đâu khác."

Nhờ hiểu được tâm là đạt được trí Bát-nhã, nên quán chiếu viên mãn nhất là [biết được] không cần tìm Phật tính ở một nơi nào khác.

Phát biểu thứ năm này vừa là câu kết luận, vừa là tổng hợp của bản kinh này. Thật thế, qua năm điều mà Ngài xiển dương, đức Phật đã vạch ra cả một con đường.

Ta bắt đầu bằng cách quán sát cẩn thận những tai hại của thế giới Ta-bà và phát khởi lên tâm xả chấp, và khi nhận thức rõ những khổ đau đang chờ đợi mình nếu cứ tái sinh mãi trong cõi Ta-bà, ta không thể cam lòng được nữa mà chỉ còn mỗi một ý muốnxuất ly. Hiểu rõ cõi Ta-bà đối với ta tai hại ra sao rồi, cần phải phát triển ý nghĩ đó hướng đến người khác. Khi ta thấy người khác cũng phải chịu cùng những khổ đau như mình, ta cảm nhận rằng đối với người khác cũng như đối với ta, điều ấy không thể chấp nhận được! Thế thì, sau khi khởi tâm xả chấp trước những khổ đau của chính mình, cần phải phát triển tâm từ bi, tâm đại bi, và cảm thấy bất bình trước sự khổ đau của người khác. Do sự thúc đẩy bởi tâm đại bi, ta bèn quyết định ra tay hành động để cứu người khác thoát mọi khổ đau, điều này dẫn đến việc phát tâm Bồ-đề, vì càng suy nghĩ ta càng thấy phải đi đến kết luận rằng để giúp đỡ người khác một cách hữu hiệu và cứu họ thoát mọi khổ đau một cách chắc chắn, biện pháp duy nhất là chính mình đạt đến quả vị Phật càng nhanh càng tốt.

Tóm lại, ta bắt đầu từ tâm xả chấp để khởi tâm đại bi, dẫn đến việc phát tâm Bồ-đề. Tâm cuối cùng này quan trọng nhất. Nhưng vì mục đíchđạt đến Phật quả nên tâm này vẫn chưa đủ: phải kết hợp tâm này với trí huệ tánh Không, nghĩa là trí huệ thấy biết sự vắng mặt của tự tánh nơi mọi sự hữu.

Hiểu được các pháp đều là Không trong một khoảng thời gian đặc biệt nào đó vẫn chưa đủ. Một khi đã bước lên đến trình độ hiểu biết ấy rồi, ta phải tiếp tục kiên trìtu tập cho tâm thức quen thuộc với quan điểm mới mẻ này. Sự phối hợp giữa tâm Bồ-đề và trí tuệ trực ngộ tánh Không sẽ đối trịcuối cùng phá tan tất cả các màn chướng vốn che phủ tâm của phàm phu. Các màn chướng này, quý vị đã ghi nhận, vốn chỉ là từ bên ngoài đến, nghĩa là do trần cảnh tạo ra. Khi tâm đã được gột sạch [những bụi trần này] cho đến các tầng lớp sâu thẳm nhất, tức là vi tế nhất của hai loại che chướng, thì người này trở thành một vị Phật. Nói cách khác, người thành Phật là người mà tâm đã vĩnh viễn loại bỏ hai loại che chướng trên tất cả bình diện, kể cả các bình diện vi tế nhất của chúng.

Từ những điều này ta rút ra được rằng, cuối cùng, cái [sẵn có] trong ta mà một ngày nào đó sẽ thành Phật chính là dòng tương tục, là tâm của chúng ta. Chúng ta khám phá Phật ở đâu, nếu không phải là ở trong tâm ta? Chính tâm ta phải được chuyển hóa thành Phật. Đức Phật cũng nói đúng như thế ở đây: "Không cần phải đi tìm Phật – tính Phật – ở ngoài quý vị. Phải tìm ở bên trong tự thân mình. Hãy làm cho tính Phật này hiển lộ trong mình. Hãy làm cho tâm quý vị thăng tiến cho đến khi thành Phật."

Vì đề tài này khá quan trọng, hãy trở lại nhìn dưới một góc độ hơi khác một chút. Nếu chúng ta cẩn thận đọc lại điểm thứ năm trong lời dạy của đức Phật, ta sẽ hiểu rằng trên phương diện chân đế không hề có sự khác biệt giữa bản thể tâm của một đức Phậtbản thể tâm của chúng ta, những kẻ phàm phu. Ngược lại, trên phương diện tục đế, sự khác biệt rất rõ rệt. Tâm của đức Phật không hề bị nhiễm ô bởi bất cứ sự che chướng ở bất cứ trạng huống nào, thí dụ như phiền não hay gì khác, trong khi đó tâm chúng sinh thì luôn bị các che chướng bao phủ. Phải thấy rõ rằng, chỉ có bản chất tương đối của tâm mới bị tạm thời che phủ, còn bản chất tuyệt đối của nó thì không. Bản chất này bình đẳng giữa tất cả hữu tình, Phật và chúng sinh không khác.

Phân tích như thế đem lại gì cho ta? Vì còn là phàm phu, chúng ta nên phối hợp phương tiện thiện xảotrí tuệ tánh Không hay vô ngã. Phương tiện thiện xảokhởi tâm Bồ-đề trên căn bản đại từđại bi, cả hai [tâm này] được gọi là "đại" vì chúng bao hàm tất cả chúng sinh đau khổ không chừa một ai. Tư duy về tâm Bồ-đề phối hợp với trí tuệ trực ngộ vô ngãcông năng làm cho chúng ta thành tựu được "phúc trí nhị nghiêm": vừa phát triển trí tuệ, chúng ta vừa tích lũy được rất nhiều phước đức.

Con đường này dẫn ta đến đâu? Khi đạt tới mức độ viên mãn, trí tuệ của một cá nhân vốn từ trước đến nay chỉ là một phàm phu sẽ biến chuyển thành "Trí pháp thân" (Jđna-dharmakya) của một đức Phật. Trong tiến trình tu tập trí tuệ, một cá nhân sẽ lìa bỏ các lậu hoặc và các màn che chướng, các thứ này sẽ trở thành "Đoạn đức" của vị Phật mới thành.

Thế thì, theo Phật giáo, nếu muốn thăng tiến và đạt quả vị Phật, không thể hướng ra bên ngoài mà tìm được kết quả. Thật ra, đó là những điều mà ta không thể tìm kiếm ở bên ngoài. Ta muốn thành Phật? Nếu muốn, thì phải hạ thủ công phu tu trì. Sự tu trì này gồm có những pháp môn tịnh hóa và sự tích lũy công đức. Nói giản dị hơn, phải xả bỏ những tập khí xấu, những lậu hoặc đã tích chứa từ vô thủy. Cùng lúc phải tu phướctu huệ. "Phước huệ song tu" cũng có nghĩa là vun bồi nhiều đức hạnh, trong đó có trí huệ. Khi phối hợp sự tịnh hóa với phước-trí thì một người có thể chuyển hóa địa vị phàm phu của mình để chứng được quả giác ngộ của một vị Phật. Hãy ghi nhận rằng chính đức hạnh của người này đã biến chuyển thành đức hạnh của một vị Phật. Chính tâm người này đã biến thành Nhất thiết trí của Phật. Vì thế, tìm cầu sự giác ngộ ở bên ngoài là một ảo tưởng.

Một sự thăng tiến như thế có thể thành tựu được bởi vì, ít nhất là theo Phật giáo, tất cả chúng hữu tình đều hàm chứa "Như Lai tạng" (Tathgata-garbha). Từ ngữ tiếng Phạn này ta còn có thể dịch là "tánh Phật", "hạt giống Phật".

Như Lai tạng là tiềm năng thành Phật. Tiềm năng này sẵn có trong tất cả hữu tình, loài người hay các loài khác. Như Lai tạng này là gì? Các triết gia Phật giáo đề nghị nhiều định nghĩa, trong đó có ba định nghĩa chính. Nhưng đây là một đề tài tự nó riêng biệt và khá phức tạp. Ở đây cần thiết nhất là chúng ta hiểu rằng đức Phật khuyên hãy xem kỹ hơn những khả năng ẩn tàng trong mỗi chúng ta. Nói rằng trong mỗi chúng ta đều hàm chứa Như Lai tạng, có nghĩa là ai cũng có thể thăng tiến và đạt đến trạng thái viên mãnPhật giáo gọi là "tánh Phật". Khi hiểu và tin chắc điều này rồi, chúng ta chỉ cần hạ thủ công phuáp dụng các phương tiện cần thiết để đạt đến mục đích.

°

Chúng ta vừa xem qua
hai quyển kinh nói về những trạng thái tâm thức nên có vào giờ phút cuối của cuộc đời. Như thế, chúng ta có thể thấy rằng có rất nhiều sự chọn lựa khác nhau để giúp đỡ một người lâm chung, huống chi hai quyển kinh này chỉ đề cập đến những khía cạnh chính, chứ không liệt kê hết tất cả những trạng thái tâm thức thuận lợi cho người lâm chung.

Tuy nhiên, dầu người lâm chung là người khác hay là chính chúng ta, để đạt được các trạng thái tâm thức nói trên trước khi trút hơi thở cuối cùng, hiển nhiên là nếu chúng ta có tập luyện trước, có kinh nghiệm trước về những trạng thái này thì trong những giây phút rất tế nhị lúc sắp lìa đời, chúng ta sẽ có thể sinh khởi chúng trong tâm một cách dễ dàng hơn.

Để chuẩn bị một trạng thái tâm thức tốt vào giờ lâm chung, theo Phật giáo thì quan trọng nhất là phải giữ thiện giới. Vì tuy đức hạnh nào cũng rất có lợi cho người sắp lìa trần, nhưng trong tất cả các đức hạnh mà ta có thể trau dồi trong trường hợp này, giới hạnhtác dụng trực tiếp nhất, vì chỉ có thiện giới mới có công năng giúp ta lìa xa ác nghiệptích lũy thiện nghiệp. Nhờ giữ thiện giới mà sau khi nhắm mắt lìa đời ta có thể hướng đến một nẻo tái sinh tốt. Nếu ta không thể giữ tất cả các giới thì ít nhất cũng cần giữ một giới, miễn là phải giữ cho thật nghiêm túc, như vậy đã là rất có ích cho ta. Điều này thì mọi người, chắc chắn là tất cả mọi người đều có thể làm. Hãy lấy thí dụ về giới không giết hại, nghĩa là ta phát khởi quyết tâm không giết hại. Lý tưởng nhất là ta không giết hại bất cứ sinh mạng nào, nhưng điều này không phải ai cũng có thể giữ được trong mọi lúc. Nếu ta không giữ được giới không giết hại một cách trọn vẹn (tức là không giết hại bất cứ chúng sinh nào, dưới bất cứ hình thức nào), chúng ta vẫn có thể giữ được giới không giết hại ngay cả khi ta là một thợ săn. Về nguyên tắc, thợ săn là người phải giết hại để mưu sinh, nhưng một người thợ săn vẫn có thể giữ giới không giết hại, chẳng hạn như bằng cách phát nguyện rằng: "Tôi không thể bỏ nghề thợ săn, nhưng tôi nguyện từ nay sẽ không giết loài thú này nữa." Thú vật có rất nhiều loài, người thợ săn có thể quyết tâm không giết một trong những loài thú như cách nói trên. Như thế, đối với riêng loài thú ấy, ông ta đã có thể giữ giới một cách đúng đắn, và làm như thế cũng rất có lợi cho ông ta trong đời này cũng như đời sau, [hơn là không giữ giới gì cả].

Có một cách khác để giữ giới, tuy hạn hẹp nhưng vẫn đúng đắn, đó là không tự hạn chế các loài chúng sinh nữa mà tự đặt ra giới hạn thời gian. Lấy lại thí dụ người thợ săn ban nãy. Người này có thể tự nhủ: "Tôi không thể hoàn toàn từ bỏ nghề săn bắn, nhưng từ nay tôi phát nguyện không săn bắn ban ngày nữa mà chỉ săn bắn ban đêm." Hoặc ngược lại, ông ta có thể nói: "Từ nay tôi chỉ săn bắn ban ngày mà thôi, và bắt đầu từ lúc màn đêm buông xuống cho tới bình minh hôm sau tôi quyết không săn bắn nữa." Nếu giữ vững được quyết định trên là ông ta đã có giới, tuy không trọn vẹn thật nhưng vẫn thuộc về thiện giới.

Tôi khẳng định rằng những điều vừa nói trên đều có ghi rõ trong kinh sách do Phật dạy, chứ không phải là một phát kiến mới của bất cứ ai hay là chính tôi, càng không phải là một kiểu thỏa hiệp để cho việc giữ giới được dễ dàng hơn. Thật thế, điều này có thể tìm thấy trong các kinh điểnđức Phật giảng cho một trong Thập đại đệ tử của ngài, tôn giả Ca-chiên-diên, hoặc trong các luận giải của ngài Vô Trước, khi ngài liệt kê 10 nghiệp bất thiệnchỉ dẫn 10 phương pháp để có thể tránh phần nào các nghiệp bất thiện ấy.

Ở đây chúng ta chỉ đưa ra một vài thí dụ, nhưng ngài Vô Trước đã đưa ra tới 100 phương pháp để giữ giới bằng cách này hay cách khác. Ngài chỉ dẫn mười cách để giữ một phần giới không giết hại; rồi cũng thế, ngài chỉ dẫn mười cách để giữ giới trộm cắp, tà dâm v.v... Như thế, với mười giới bất thiện thì ta có 100 phương pháp để có thể giữ một phần nào các giới luật.

Như ta đã biết, những ai muốn giúp đỡ người lâm chung thì quan trọng nhất là phải làm thế nào nói lên những lời khuyên thích hợp vào một thời điểm thích hợp, giúp cho người lâm chung an trụ được vào một trạng thái tâm thức hiền thiện, tốt lành. Nhưng ngoài việc này ra, còn có những phương pháp khác để giúp một người lâm chung, như cầu nguyện cho họ, hay là tạo công đứchồi hướng công đức ấy về cho họ.

Chúng ta vừa bàn xong những phương phápcông năng giúp đỡ người lâm chung. Nhưng rồi sau đó, làm sao giúp đỡ một người đã vào thân trung ấm? Câu hỏi này chỉ có liên quan đến những người tin có tái sinh, vì nếu quả quyết rằng cuộc sống chỉ giới hạn trong mỗi một đời này mà thôi thì câu "giúp người đã vào thân trung ấm" không có một ý nghĩa nào cả.

Giả sử chúng ta tin có tái sinh, và muốn giúp đỡ một người đang tạm thời trong cõi trung hữu. Hoàn cảnh của mỗi người trong cõi trung hữu có thể rất khác biệt, nhưng nói chung thì không dễ dàng, và chúng sinh trong cõi này thường phải chịu đựng nhiều khó khăn, nhiều khổ đau. Điều này dĩ nhiên tùy thuộc vào nghiệp lực đưa đẩy, tùy thuộc vào những thói quen mà họ đã tạo hay không có lúc còn sống.

Nhưng nói tóm lại, đối với đa số thì khoảng thời gian trong cõi trung hữu không dễ dàng chút nào, và nếu muốn giúp những chúng sinh trong cõi ấy, điều chúng ta làm được là cầu nguyện và tạo công đức để hồi hướng cho họ. Việc làm công đức có thể là bất cứ việc gì, miễn là hiền thiện, tốt lành thì chúng ta đều có thể hồi hướng cho họ, thí dụ như cầu nguyện, tụng kinh, tụng chú hoặc cúng dường, làm việc từ thiện. Thế thì những việc hiền thiện và mang lại lợi ích cho tha nhân có thể nhiều vô kể, miễn là làm việc ấy rồi chúng ta hồi hướng cho người trong cõi trung hữu để giúp đỡ họ là đủ.

Đúng vậy, theo quan điểm Phật giáo, khi có một chúng sinh chết và tái sinh trong cõi trung hữu, họ không hề được hưởng một chế độ tuyệt đối bình đẳng, vì thật ra có nhiều loại trung hữu. Có những cõi trung hữu dẫn dắt đến những kiếp tái sinh tốt như cõi trời, và có những cõi dẫn đến những con đường xấu ác như kiếp súc sinh. Điều này tùy thuộc vào các nghiệp lực đã thành thục trong tâm người lâm chung ngay trước khi tâm thức ở bình diện thô của họ ngừng hoạt động.

Hãy tưởng tượng một người có nghiệp ác đã thành thục, khi ánh quang minh của sự chết vừa chấm dứt, họ đã tái sinh vào cõi trung hữu, mà lẽ ra sẽ đưa họ đến kiếp tái sinh của súc vật. Nếu họ phải đương đầu một mình, nếu không có ai giúp đỡ họ, thì họ sẽ tái sinh ngay trong thân một con thú. Nhưng nếu có người can thiệp để giúp họ bằng cách hồi hướng công đức cho họ sau khi thực hiện những việc hiền thiện tốt lành như bố thí chẳng hạn, thì hoàn cảnh của họ liệu có phải là vô phương cứu vãn hay không?

Phần đông Phật tử sẽ trả lời "không", và những nghiệp súc sinh đã thành thục vào giây phút cuối cùng của đời sống không nhất thiết sẽ đưa họ đầu thai vào cõi súc sinh. Nếu được sự giúp đỡ từ bên ngoài, họ sẽ có cơ hội chuyển qua một cõi trung hữu khác lợi lạc hơn, và điều đó có thể đưa họ tái sinh về cõi người, hay cõi trời không chừng. Đó là lý do vì sao người Phật tử quan niệm rằng việc giúp đỡ một người sau khi mạng chung rất cần thiết và quan trọng, nếu tin rằng người ấy vẫn còn mang thân trung ấm.

Đến đây thì ta có thể tự hỏi, làm sao mà việc những người khác gom góp công đức lành và hồi hướng cho một chúng sinh trong cõi trung hữu có thể tác động đến chúng sinh ấy, và sẽ giúp họ trong việc gì? Nghĩa là đã có một sự thay đổi, nhưng thay đổi như thế nào?

Đúng vậy, khi một chúng sinh ở trong cõi trung hữu, nhất là một cõi trung hữu mà lẽ ra sẽ dẫn dắt đến kiếp súc vật, thì chúng sinh ấy khó có thể phát khởi một trạng thái tâm thức đức hạnh, một trạng thái tâm thức tốt lành. Nhưng nếu có những người ngoài, những người tạo công đức với một động cơ tốt lànhhồi hướng cho chúng sinh nói trên một cách chân thành và đúng pháp, thì điều này có thể tác động lên thân trung ấm của chúng sinh kia đến mức độ có thể giúp họ sinh khởi một trạng thái tâm thức tốt lành và hữu ích, điều mà họ không làm được lúc lâm chung. Và điều này có thể làm cho những nghiệp lành trong tâm thức chúng sinh ấy trở nên thành thục [sớm hơn], nên thay vì ở lại trong một cõi trung hữukết thúctái sinh trong thân thú vật, thì ngược lại chúng sinh ấy sẽ có khả năng tạm gọi là chuyển sang một cõi trung hữu khác để tái sinh vào một cõi tốt đẹp hơn.

Có một câu hỏi khác là, làm sao chúng ta có thể chấp nhận rằng một chúng sinh trong cõi trung hữu có khả năng, ngay cả trong trạng thái này, khởi sinh những tư tưởng đức hạnh, hiền thiện? Đó là vì tâm của tất cả mọi chúng sinh, nghĩa là bao hàm cả tâm của những chúng sinh trong cõi trung hữu, là một hiện tượng rất vô thường, rất dễ thay đổi. Chúng ta dùng chữ "tâm" để đơn giản hóa vấn đề một chút, sự thực thì điều chúng ta đang nói đến là một dòng tâm thức tương tục, luôn luôn lưu chuyển. Và thật ra, trong sự chuyển tiếp không ngừng của dòng tâm tưởng thiên sai vạn biệt ấy có thể xảy ra những sự chuyển hóa đáng kể. Nghĩa là một người, bao hàm cả người đã thác vào cõi trung hữu, trong một lúc nào đó có những tư tưởng xấu ác và độc hại, lại rất có khả năng khởi lên những tư tưởng đức hạnh và hiền thiện ngay trong niệm tưởng sau đó chỉ vì hoàn cảnh đã thay đổi. Vì thế, khi nhân duyên hoà hợp trong một chiều hướng tốt đẹp hơn thì một người vừa có những tư tưởng bất thiện trong niệm tưởng trước đó có thể nảy sinh những tư tưởng vô cùng đức hạnh trong niệm tưởng tiếp theo sau.

Như vậy, một người vừa kết thúc cuộc đời một cách bất lợi vẫn có thể có được một cơ hội để chuyển sang chiều hướng tốt đẹp hơn nhiều nhờ được giúp đỡ như đã nói trên. Chính vì lẽ đó mà Phật giáo cho rằng tiếp tục giúp đỡ một người dầu đã quá cố là điều vô cùng quan trọng, và đặc biệttrong vòng 49 ngày sau khi người này lìa đời. Vì sao? Vì theo quan điểm Phật giáo thì khi một người chết đi và sinh vào cõi trung hữu, họ sẽ trụ ở trong cõi này cho đến khi tìm được những điều kiện phù hợp với kiếp tái sinh được định đoạt bởi những nghiệp lực đã thành thục của họ. Có thể những điều kiện cần thiết này sẽ xuất hiện rất mau lẹ, nhưng không nhất định như vậy. Trong trường hợp đó, chúng sinh này sẽ trụ ở cõi trung hữu trong một thời gian rất ngắn. Nhưng nếu không tìm được những điều kiện thích hợp thì sao? Theo Phật giáo thì mạng sống của một chúng sinh trong cõi trung hữu không vượt quá bảy ngày. Nghĩa là sau bảy ngày, nếu người này chưa tìm ra những điều kiện cần thiết để tái sinh thì nhất định người ấy sẽ phải chết đi để tái sinh trở lại cũng trong cõi trung hữu. Và điều này chỉ có thể lặp lại không quá bảy lần liên tiếp, nghĩa là chúng sinh chỉ có thể trụ trong cõi trung ấm 49 ngày mà thôi, với những thọ mạng tối đa là 7 ngày. Chính vì lý do này mà cứ mỗi 7 ngày, người Phật tử sẽ tìm đủ mọi cách để tích tập công đức, làm điều thiện bằng cách này hay cách khác và hồi hướng cho thân nhân vừa mới mạng chung, vì họ tin rằng trong trường hợp người quá vãng chưa tìm được điều kiện thích hợp thì vẫn còn phải đương đầu với một cái chết và một sự tái sinh mới trong cõi trung hữu, và chính ở những giây phút chuyển tiếp ấy ta mới có thể giúp đỡ hương linh một cách trực tiếp.

Ta còn có thể giúp đỡ một thân nhân một thời gian lâu dài sau khi người này đã qua đời không? Theo Phật giáo thì có thể. Bằng cách nào? Bằng cách cầu nguyệnlàm công đức hồi hướng cho họ y như khi họ còn ở trong cõi trung hữu, bất kể họ đã qua đời từ bao nhiêu năm trước.

Có một cách khác để giúp đỡ các sinh linh, không chỉ riêng loài người mà còn là tất cả chúng sinh hữu tình đã mạng chung, đó là dùng những chất liệu đã được chú nguyện đặt trên tử thi, hoặc trên tro, xương cốt còn lại của họ. Ở đây cần cử hành một số lễ nghi, trì tụng một số câu chú để chú nguyện vào những chất liệu như nước, cát, hay bất cứ gì khác. Trong Phật giáo [Tây Tạng], người ta tin rằng nếu đổ những chất ấy lên di thể của hương linh mà ta muốn hộ trì, với một lòng tin và sự cầu nguyện chí thành, thì điều này có thể giúp ích cho họ. Đây là một cách nhìn hoàn toàn theo Phật giáo [Tây Tạng], dĩ nhiên những người thuộc về các tôn giáo khác không nhất thiết phải đồng ý. Nhưng dầu sao đi nữa, người Phật tử [Tây Tạng] nhìn sự việc như thế.

Nhưng khi người Phật tử xử sự như vậy đối với một sinh linh đã qua đời từ lâu, thì họ hy vọng giúp đỡ sinh linh này bằng cách nào? Nếu sinh linh này đang sống một cuộc sống mới, họ tin rằng họ cũng giúp đỡ được sinh linh ấy ngoài sự gia trì phù hộ của chư Phật và chư Bồ Tát hoặc những vị cao tăng trong thiền định của các ngài. Nhờ thế, sinh linh này có thể thành công trong việc làm, được sức khoẻ dồi dào, không bệnh tật v.v... và nhất là vì kiếp tái sinh nào cũng vô thường nên sinh linh ấy sẽ phải một lần nữa đương đầu với cái chết, và sự giúp đỡ hồi hướng của người Phật tử nói trên sẽ có công năng hướng dẫn sinh linh ấy tới một kiếp tái sinh thật sự thuận lợi.

Những công đức mà ta có thể làm cho thân nhân quá cố, là tạo tượng Phật, in ấn hoặc giúp lưu hành, phổ biến kinh sách, hoặc cúng dường Tam Bảo, giúp đỡ các tự viện. Ngoài ra ta cũng có thể bố thí cho người nghèo, người bệnh... Tóm lại, ta có thể giúp đỡ người quá cố bằng đủ mọi hình thức, [miễn là những việc hiền thiện, tốt lành, làm lợi lạc cho người khác].

Chúng ta đã nói một cách khá ngắn gọn về những phương pháp mà người Phật tử có thể làm để giúp những người trong thân trung ấm hoặc những người đã quá vãng từ lâu. Thời gian trôi nhanh quá, chúng ta đã có hai ngày cùng nhau thảo luận những đề tài khác nhau về cách giúp đỡ người lâm chung và những hương linh trong cõi trung ấm hoặc đã quá vãngtái sinh. Quý vị đã đến khá đông đảo và đã chăm chú nghe, tôi rất vui mừng và cám ơn sự tham gia của quý vị.

Bây giờ, sau khi đã thâu thập được những sự hiểu biết như thế rồi, tôi rất mong quý vị có thể rút tỉa được những phương pháp áp dụng thực tiễn để giúp cho những chúng sinh đang ở trong các giai đoạn khó khăn trước [và sau] cửa tử. Tôi sẽ không quên cầu nguyện cho mọi người thành công trong những cố gắng này.

Khi nói đến "phù trợ người lâm chung", phần đông chúng ta có khuynh hướng nghĩ rằng điều này chỉ liên quan đến người khác chứ không liên quan đến chính mình. Nhưng trên thực tế, điều này liên quan rất nhiều đến chính ta, vì ta cũng là người lâm chung trong tương lai. Chúng ta đã sinh ra đời, nghĩa là [chắc chắn] một ngày nào đó ta sẽ chết, điều này không thể tránh được. Nói cách khác, những gì chúng ta đã học, dĩ nhiên ta sẽ dùng để giúp đỡ người khác, và điều này rất tốt, rất đáng làm. Nhưng nếu không giúp được ai khác, nếu ta không bao giờ có cơ hội đem những hiểu biết của mình để làm lợi lạc cho người khác thì ít nhất một ngày nào đó ta sẽ có thể giúp được chính mình khi đến lượt ta. Cứ cho là mạng sống của ta còn dài, nhưng từ đây đến giờ phút ấy, lý tưởng nhất là chúng ta phải làm sao rút tỉa được tất cả những gì tốt đẹp nhất trong cuộc sống, và làm tất cả những gì lợi lạc nhất để chuẩn bị cho chính cái chết của mình trong tương lai.

Hiện chúng ta còn sống và khoẻ mạnh, nghĩa là ta đang có những điều kiện lý tưởng nhất để chuẩn bị cho cái chết của ta [về sau] được hoàn hảo. Và dĩ nhiên, điều đó tùy thuộc vào con đường của mỗi người, nghĩa là niềm tin vào một tôn giáo hay phi tôn giáo. Nhưng có tôn giáo hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là sự chọn lựa của mỗi chúng ta để có thể tự chuẩn bị cho giây phút lìa đời của mình được lợi lạc nhất, hoàn hảo nhất.

Và như tôi vừa nói, chúng ta đang có được những điều kiện lý tưởng, vì chỉ riêng việc chúng ta có mặt với nhau ở đây [hôm nay] cũng đủ chứng tỏ rằng trên phương diện thể chất, chúng ta hãy còn mạnh khoẻ, thể xác hay tinh thần không bị giày vò nhức nhối đến mức không thể suy nghĩ được, không thể tư duy được. Cho dầu chúng ta có thể có những lúc đau đớn hay khó chịu nhưng không đến nỗi tất cả khả năng suy tư của ta bị ngưng trệ. Vậy thì, khi chúng ta hãy còn có thể tùy ý sử dụng khả năng tư duy của mình, cũng như khi không quá bệnh hoạn, không quá khổ đau hay lo âu, chúng ta nên tận dụng thời gian này để chuẩn bị.

Thời gian qua mau, nếu đợi đến lúc phải giáp mặt với những giây phút tế nhị nhất, tức là những giây phút cuối cùng của đời mình, chúng ta mới bắt đầu suy tư lần thứ nhất thì lúc ấy chúng ta có nguy cơ chịu nhiều đau đớn thể xác và không còn suy nghĩ gì được nữa.

Tôi xin mời mỗi người trong quý vị hãy cố gắng tự chuẩn bị khi các điều kiện thể chấttinh thần còn cho phép. Tôi sẽ cầu nguyện cho quý vị đạt đến những kết quả tốt đẹp.

Ngoài ra tôi không có gì đặc biệt để nói thêm, trừ một lời khuyên nhỏ: "Quý vị hãy cố gắng tối đa để giữ cho tâm mình thanh thảnan bình." Xin cho tôi được nhấn mạnh điều này. Bởi vì, để có thể làm một điều gì và muốn cho điều mình làm có kết quả tốt đẹp, thì chúng ta phải làm với tâm thanh thảnan bình. Điều này rất quan trọng.

Xin cám ơn tất cả quý vị!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 25721)
Trăng bồng bềnh trên ngàn thông Và thềm đêm vắng lạnh, khi âm xưa trong veo từ các ngón tay anh đến. Giai điệu cổ luôn khiến người nghe rơi nước mắt, nhưng nhạc Thiền ở bên kia tình cảm.
(Xem: 37926)
“Teachings from Ancient Vietnamese Zen Masters” là bản dịch tiếng Anh nhiều bài thơ, bài kệ và bài pháp của chư tôn thiền đức Phật Giáo Việt Nam từ ngài Khương Tăng Hội ở thế kỷ thứ 3 sau Tây Lịch...
(Xem: 19651)
Hiển Tông Ký là ghi lại những lời dạy về Thiền tông của Thiền sư Thần Hội. Còn “Đốn ngộ vô sanh Bát-nhã tụng” là bài tụng về phương pháp tu đốn ngộ để được trí Bát-nhã vô sanh.
(Xem: 18759)
Uyển Lăng Lục là tập sách do tướng quốc Bùi Hưu ghi lại những lời dạy của thiền sư Hoàng Bá lúc ông thỉnh Ngài đến Uyển Lăng, nơi ông đang trấn nhậm để được sớm hôm thưa hỏi Phật pháp.
(Xem: 14321)
Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao tăng làm sáng cho Phật Giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ VI mãi đến nay đều là các Thiền sư.
(Xem: 20168)
Chư Phật cùng tất cả chúng sanh chỉ là một tâm, không có pháp riêng. Tâm nầy từ vô thủy đến nay không từng sanh không từng diệt...
(Xem: 9549)
Kinh có ghi lại một cuộc đối thoại giữa du sĩ khổ hạnh Vacchagotta với đức Thế Tôn, và cuộc đối thoại này rất thiền.
(Xem: 14415)
Trì Châu Nam Tuyền Phổ Nguyện Thiền Sư quê ở Tân Trịnh, Trịnh Châu, họ Vương, theo Đại Hoè Sơn, Đại Huệ thiền sư xuất gia, đến Tung Nhạc thọ giới cụ túc.
(Xem: 35648)
Tám vạn bốn ngàn pháp môn thảy đều do một tâm mà khởi. Nếu tâm tướng trong lặng như hư không, tức ra khỏi thân tâm.
(Xem: 10686)
Trên núi Linh Thứu ngày nọ, trước một cử toạ gồm 1.250 Tì kheo, thay vì thuyết pháp Đức Phật chỉ cầm lên một cành hoa. Ngài se cành hoa ấy giữa mấy ngón tay, và im lặng.
(Xem: 19776)
Quyển Hai quãng đời của Sơ tổ Trúc Lâm do chúng tôi giảng giải, để nói lên một con người siêu việt của dân tộc Việt Nam.
(Xem: 23253)
Hôm nọ, Phật ở trong hội Linh-sơn, tay cầm cành hoa sen đưa lên, cả hội chúng đều ngơ-ngác. Chỉ có ngài đắc ý chúm chím cười (niêm hoa vi tiếu)...
(Xem: 13410)
Thiền sư Khánh Hỷ (1067–1142) thuộc dòng thứ 14, thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi. Sư họ Nguyễn, quê ở Cổ Giao, huyện Long Biên, thuộc dòng tịnh hạnh, từng được vua Lý Thần Tông phong chức Tăng Thống.
(Xem: 10794)
“Chân như Đạo Phật Nhiệm mầu, Tâm trung chữ Hiếu, niệm đầu chữ Nhân, Hiếu là độ được song thân, Nhân là cứu vớt trầm luân muôn loài…”
(Xem: 20300)
Bát-nhã tâm kinh (prajñāpāramitāhṛdayasūtra) là một bản văn ngắn nhất về Bát-nhã ba-la-mật (prajñā-pāramitā). Trong bản Hán dịch của Huyền Trang, kinh gồm 262 chữ.
(Xem: 10642)
Tôi rất cảm phục BS Thynn Thynn khi bà đã tận tình giải thích thấu đáo, trong quyển sách của bà, về cách sống tỉnh giác trong đời sống thường ngày.
(Xem: 10014)
Hoài niệm về tấm lòng yêu thương của cha mẹ nhân mùa Vu Lan.
(Xem: 14923)
Mùa Vu-lan báo hiếu vào tiết Trung Nguyên tháng bảy âm lịch hằng năm, xuất phát từ tích ngài Mục-kiền-liên cứu mẹ...
(Xem: 17732)
Trong các sinh hoạt nhân gian của truyền thống ta, tháng bảy là tháng đượm nhiều sắc thái văn chương nhất. Tháng bảy, mưa ngâu, nhịp cầu ô thước bắt qua giải Ngân-hà...
(Xem: 17646)
Rằm tháng bảy theo tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm tháng bảy có nhiều ý nghĩa...
(Xem: 13233)
Phàm là bậc Sa-môn Thích tử, nhất định phải lấy việc hướng thượng làm tông chỉ, lìa bỏ các duyên, sống đời đạm bạc...
(Xem: 31231)
Tiết Vu Lan bâng khuâng nhớ Cha công dưỡng dục, Mùa Báo Hiếu bùi ngùi thương Mẹ đức cù lao
(Xem: 25846)
Trong hệ thống giáo điển Phật đà, cả Nam truyền và Bắc truyền đều có những bài kinh, đoạn kinh nói về công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ rất là cảm động.
(Xem: 14016)
Con đang ở lại trần gian trong bầu không khí Đạo pháp hơn 2000 năm. Nhưng kinh sách thiên vạn quyển cũng không bằng được sống bên bậc danh Tăng thạc đức trong ngôi nhà Vạn Hạnh.
(Xem: 17563)
cho dù nghiệp quả của thời quá khứ có nghiệt ngã cỡ nào, trong thời hiện tại ta cứ việc làm tốt, bảo đảm tương lai của ta sẽ an lạc...
(Xem: 11023)
Không đo không lường được tình thương, người ta thường lấy vẻ bao la của trời biển để tạm so sánh. Nhưng kỳ thực, trời và biển có những giới hạn, biên tế.
(Xem: 12337)
Trong truyền thống Phật giáo Trung Hoa-Nhật Bản, hệ thống giáo lý Trung quán và Du-già Duy thức tông đã được xem là cùng đi song song và đối nghịch với nhau.
(Xem: 10502)
Vu Lan phiên âm từ Phạn ngữ Ullambana, Trung Hoa dịch là “Giải đảo huyền” có nghĩa là cởi mở những cực hình hay giải thoát những khổ đau trong 3 cảnh giới: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh.
(Xem: 12320)
Tôi xin rất thận trọng để nói rằng, tư liệu tôi dựa vào để viết đa phần thuộc Tam Tạng Pāḷi văn, và một số nguồn được lấy từ tiếng Anh cùng một hệ Nam tông..
(Xem: 11810)
Gia đình tôi đầy những câu chuyện này… Có những hành giả vĩ đại như cha tôi và bác tôi, những người thực hành từ trái tim và có năng lực thực sự...
(Xem: 9663)
Nếu cái nhìn tâm linh của mình mà không trải ra đến bờ cõi xa xôi nhất thì “thiện đức” của y không phải là “thiện đức” thứ thiệt...
(Xem: 12394)
Khảo sát về “Năm đức của người xuất gia” để thấy được những nét cao đẹp trong đời sống phạm hạnh, từ đó mà có ra lối hạnh xử ứng hợp với phước điền của pháp phục...
(Xem: 9238)
Con đường Trung đạo Thiền định, không phải chỉ dành riêng cho Thiền tông không đâu, mà chúng dành chung cho tất cả các tông phái Phật giáo trong đó có Tịnh độ tông, và Mật tông.
(Xem: 8526)
Trần Thái Tông là vị vua đầu của triều Trần. Ngài là đệ tử của thiền sư Viên Chứng trên núi Yên Tử. Ngài vừa làm vua vừa thực tập thiền.
(Xem: 10001)
Đây là một trong nhiều pháp môn của Phật, mà đặc điểm là dể tu, dể chứng, rất thích hợp với đại đa số quần chúng...
(Xem: 9789)
...Từ tầm nhìn đúng, hành động đúng, sẽ đưa đến kết quả đúng như ý muốn. Khi làm một công việc gì, thông thường chúng ta phải biết trước rồi làm sau, như vậy sẽ có kết quả tốt.
(Xem: 12077)
Tây Tạng bắt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo vào thế kỷ thứ 7 trong triều đại của vua Songtsen Gampo.
(Xem: 14511)
Tịch Hộ đã đến Tây Tạng vào thế kỷ thứ 8, cho nên đến thế kỷ 11 truyền thống Na Lan Đà đã được thiết lập một cách vững vàngTây Tạng.
(Xem: 9929)
Theo nghĩa thông thường, đắc pháp có nghĩa là đắc pháp nhãn tịnh, chứng ngộ, không còn kiến thủ, giới cấm thủnghi ngờ Tam bảo, không còn trần sa hoặcphiền não vi tế, tức khắc thành Phật...
(Xem: 11241)
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống mình, rồi chót đuôi.
(Xem: 8343)
Tất cả pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt, ảnh, Như sương, như ánh chớp, Hãy quán sát như vậy.
(Xem: 10999)
Là một trong những dòng Kagyu, dòng truyền thừa Drikung Kagyu do Đạo sư tâm linh vĩ đại Kyobpa Jigten Sumgon sáng lập 852 năm trước.
(Xem: 14149)
Dharma tức là Đạo Pháp của Đức Phật thì lại nhất thiết chủ trương một sự buông xả để giúp con người trở về với chính mình...
(Xem: 9953)
Các bạn có thể bắt đầu pháp quán niệm hơi thở (anapana sati, a-na-pa-ná sa-tị) bằng cách định tâm vào hơi thở vào, hơi thở ra tại lỗ mũi hay ở môi trên.
(Xem: 15262)
“Con người thường trở thành cái mà họ muốn. Nếu tôi cứ nghĩ rằng tôi không thể làm được điều ấy, thì chắc chắn rút cuộc tôi sẽ không làm được gì..."
(Xem: 13131)
Bài viết này khám phá những khả năng của học thuyết và sự hành trì của Phật giáo đã được áp dụng vào cuộc sống hàng ngày trong suốt hơn 2.500 năm...
(Xem: 23140)
156 vị Tăng Ni đã về Phật Học Viện Quốc Tế từ ngày 15 để bắt đầu cho khóa An cư vào lúc 5 giờ sáng ngày mai, 16 tháng 06 năm 2014.
(Xem: 24095)
Vào dịp lễ Vu-lan Thắng hội, Phật tử có tục lệ cúng thí người chết. Dưới đây Tập san trích dịch đoạn kinh có liên hệ đến ý nghĩa cúng thí này.
(Xem: 12633)
Hầu như bất cứ sách nào viết về Thiền tập Phật giáo thời kỳ sơ khai cũng nói với bạn rằng Đức Phật giảng dạy hai kiểu thiền tập: Thiền chỉThiền quán
(Xem: 15482)
Theo Kim Cương thừa, chúng bị rơi vào cõi sinh tử bất tận này bởi những nhận thức bất tịnh.
(Xem: 17847)
Sự Thực Hành Guru Yoga Theo Truyền Thống Longchen Nyingthig
(Xem: 15132)
Theo Mật giáo, trong vũ trụ có ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành đạo.
(Xem: 16604)
Mật tông là một nền văn hóa đặc sắc của Phật giáo Đại thừa giai đoạn cuối, còn gọi là Mật giáo hoặc Bí mật giáo, Chân ngôn tông, Kim cang thừa, Mật thừa, Quả thừa v.v..
(Xem: 16142)
“Con lớn rồi vẫn là con của mẹ, Suốt cuộc đời mẹ vẫn theo con…”
(Xem: 17724)
Vào đầu thế kỷ XV, ngụy tạo danh nghĩa diệt Hồ phù Trần, nhà Minh sai bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem quân đánh chiếm nước ta.
(Xem: 11642)
Tinh thần hiếu hòa với lân bang, ông cha ta từng thể hiện, nhưng không vì thế mà phải hy sinh quyền lợi của dân tộc.
(Xem: 11662)
Đại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc là một ngày lễ hội mang tính văn hóa và nhân văn ở tầm mức quốc tế của tổ chức Liên Hiệp Quốc.
(Xem: 17904)
Thông Điệp Đại Lệ Phật Đản Vesak 2014 của Tổng Thư Ký Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc 2014 PL. 2558... Ban Ki Moon
(Xem: 10835)
Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy...
(Xem: 10549)
Chúng ta đã có phước đức được sanh trong một thế giới nơi đã có một Đức Phật đến và dạy Pháp... Mặc Phương Tử
(Xem: 11371)
Trong vô lượng pháp môn tu ấy, nhìn chung Thiền và Tịnh đều được coi là phổ cập nhiều nhất hiện nay, nhất là các nước Á đông... Võ Thị Thanh Thảo
(Xem: 12126)
Thiền Lâm Tế Nhật Bản - Nguyên tác: Matsubara Taidoo; Việt dịch: HT Thích Như Điển
(Xem: 11090)
Chư vị Tổ sư trong khoảng thời gian diệu ngộ, tâm tư bay bổng thênh thang như trời mây... Hạnh Huệ; Thuần Bạch dịch
(Xem: 36473)
Cuộc đời của thiền sư Bạch Ẩn là bức tranh sống với câu chuyện ―Thế à! cho đến bây giờ vẫn được nghe kể. Biên dịch lại là góp thêm công hạnh của Ngài.
(Xem: 8999)
Từ thế giới biến đổi vô cùng của thời gian, xuyên suốt qua từng hiển hiện của không gian, từ đỉnh cao ngút ngàn đi lại của tâm thức, đến chốn không cùng của uyên nguyên... Như Hùng
(Xem: 9728)
Giác Minh Diệu Hạnh Bồ Tát giảng; Bồ Tát giới đệ tử Thường Nhiếp kết tập; Cư Sĩ Như Hòa dịch Việt
(Xem: 34783)
Tăng đoàn thực hành đúng Pháp và Luật của Phật đã chế định trong sự cùng nhau cộng trú hòa hợpthanh tịnh, cùng nhau giải tán trong sự hòa hợpthanh tịnh.
(Xem: 17330)
Đi đến nước cùng non tận chỗ, Tự nhiên được báu chẳng về không... Thích Tâm Hạnh
(Xem: 10266)
Quyển sách này là một phần trong bộ sách Niệm Phật Pháp Yếu do Cư sĩ Mao Dịch Viên tuyển tập... Thích Minh Thành dịch
(Xem: 10513)
Tác phẩm “Thiền Tông Chỉ Nam” hay còn gọi là “La Bàn Thiền” này, chủ yếu dựa trên các cuộc Pháp thoại của Thiền sư Sùng Sơn qua sự trình bày giáo lý căn bản của Phật giáo... Thích Giác Nguyên dịch
(Xem: 12233)
Đối với người mới tập thiền, không nên ngồi thiền trong lúc qúa no đói, có bệnh, thiếu ngủ, khát nước, quần áo qúa chật, qúa nóng lạnh, qúa ồn ào, không có tọa cụ... Toàn Không
(Xem: 13697)
Thuyết Giảng Mỗi Chiều Chủ Nhật Tại Tổng Hội Cư Sĩ Phật Giáo... HT Thích Huyền Dung
(Xem: 14718)
Mật thừa xem thấy thế giới gồm những yếu tố và những tương quan tương phản, đối kháng: bản thểhiện tượng, tiềm năng và biểu lộ, nhân và quả...
(Xem: 9198)
Thiền viết đầy đủ là thiền na, phiên âm từ phạn ngữ dhyana, có nghĩa là tư duy suy xét về một đối tượng tâm thức... Hư Thân Huỳnh trung Chánh
(Xem: 24918)
Thiền Luận - Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki; Quyển Thượng, Dịch giả: Trúc Thiên; Quyển Trung và Hạ, Dịch giả: Tuệ Sỹ
(Xem: 11689)
Thể của tâm lìa tất cả niệm, nghĩa là vốn vô niệm. Nó như hư không, không chỗ nào mà chẳng toàn khắp... Nguyễn Thế Đăng
(Xem: 10365)
Thật cần yếu để học hỏithành đạt trong sự học vấn. Rèn tâm là một tiến trình làm cho quen thuộc... Đạt Lai Lạt Ma; Tuệ Uyển dịch
(Xem: 15999)
12 lời nguyện niệm Phật này, nhằm giúp cho Phật tử có định hướng trong việc tu tậpchí nguyện để về thế giới Cực Lạc của Đức Phật A-Di-Đà... Thích Chân Tính
(Xem: 15631)
Thư cho người em Tịnh độ là một bộ luận nhỏ, gom nhặt những yếu nghĩa của Tông Tịnh độ, chia thành từng bài nhỏ, mỗi bài là một chủ đề... Thích Hồng Nhơn
(Xem: 14576)
Nghĩa Huyền Thiền Sư hiệu là Nghĩa Huyền Hình, quê quán ở Nam Hoa Tào Châu, Thích Duy Lực dịch
(Xem: 13045)
Nguyên tác của Hoài Hải Thiền Sư; Việt dịch Thích Duy Lực, Từ Ân Thiền Ðường Hoa Kỳ Xuất Bản 1992
(Xem: 12489)
Tác giả huý HOÀI HẢI, họ VƯƠNG, người Trường Lạc, Phước Châu, sanh năm Khai Nguyên thứ 12 đời Đường Huyền Tông (CN 724)... Thích Duy Lực dịch
(Xem: 14621)
Choden Rinpoche là một trong những Lạt ma phái Gelug cao cấp nhất, trước năm 1985 ngài hầu như không được biết tới ở ngoài xứ Tây Tạng... Thanh Liên
(Xem: 18406)
Đi vào cửa Pháp: Tuyển tập Giáo huấn của các Đạo sư Tây Tạng - Bản dịch Việt ngữ của Liên Hoa & Thanh Liên
(Xem: 9605)
Tìm Phật ở đâu? Trăm ngàn kẻ điên đi tìm Phật, nếu có tìm thấy một người thì đó cũng không phải là Phật... Dương Đình Hỷ
(Xem: 18576)
Con Đường dẫn đến Phật Quả là một trong những sự giới thiệu tuyệt hảo cho giáo lý của Phật giáo Tây Tạng được sử dụng ngày nay.
(Xem: 18668)
Chỉ vì tín lực chẳng sâu nên thắng nghiệp chìm trong hữu lậu, lại muốn bỏ pháp này để chọn pháp khác, lầm lạc lắm thay!... Như Hòa dịch
(Xem: 19093)
Kính nghĩ, đức Thích-ca mở ra vận hội lớn làm lợi ích rộng lớn cho chúng sinh có duyên, xiển dương giáo pháp tùy theo mỗi quốc độ khiến pháp nhũ thấm nhuần khắp cả... Nguyên Trang dịch
(Xem: 18915)
Pháp Niệm Phật Tam Muội xét về nguồn gốc là từ Viễn Tổ (tổ Huệ Viễn) đề xướngLô Sơn, sáng khởi Liên Xã sáu thời tịnh hạnh, trở thành quy củ cao đẹp cho muôn đời... Như Hòa
(Xem: 11861)
Những ngày đầu xuân, thay vì chào đón mùa xuân mới bằng nụ cười tươi mát, chúng ta lại bắt đầu bằng sự sợ hãi, âu lo vì: năm nay là năm tuổi!... Thiện Ý
(Xem: 13378)
Ở quê anh mới tới đây, Việc quê anh biết đổi thay thế nào. Hôm đi, trước cửa buồng thêu, Cây mai mùa lạnh nở nhiều hoa chưa?... Hoang Phong
(Xem: 48030)
Đêm nay ngày lành Nguyên Đán Giờ nầy phút thiêng Giao thừa. Tuân lệ cổ tục ngày xưa Mở cửa nghinh Xuân tiếp phước. Truyền thừa di phong thuở trước...
(Xem: 11092)
Năm ngựa đến. Người ta hay chúc nhau "mã đáo thành công“. Mã là ngựa, đáo là đến nơi, ngựa đến thì thành công đến... Nguyên Đạo Văn Công Tuấn
(Xem: 13598)
Chúc phúc là ứng xử văn hóa nhằm sẻ chia và gửi gắm những ước mơ hay khát vọng sống thanh cao, thánh thiện... Chúc Phú
(Xem: 13089)
Từ chiều ba mươi, bàn thờ Phật ở mỗi nhà đã sạch sẽ, nhiều hoa tươi, trái cây; người nghèo chỉ cần thành kính dâng lên ly nước trong cũng khiến chư Phật hết lời khen ngợi... Nhụy Nguyên
(Xem: 11119)
Tết Nguyên Đánlễ hội lớn nhất trong các lễ hội truyền thống Việt Nam từ hàng ngàn đời nay, là điểm giao thời giữa năm cũ và năm mới... Ngọc Nữ
(Xem: 12604)
Hễ muốn có lộc thì phải gieo nhân. Một khi nhân đã gieo trồng thì tương lai cảm quả sẽ không sai khác, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu... Tịnh Thủy
(Xem: 11076)
Nụ cười của Ngài thực là lạ! Cười gì mà căng hết cả đường gân sớ thịt của khuôn mặt. Cười gì mà phô ra ngoài hết tất cả hàm răng, cả đầu lưỡi... Hạnh Phương
(Xem: 31844)
Noi gương Hưng Đạo, Quang Trung, Chúng ta không thể mất vùng Hoàng Sa, Nam Quan Bản Dốc ngời ngời, Hao mòn một tất tội đời khó dung... Đào Chiêu Vọng
(Xem: 11723)
Tìm kiếm mùa xuân ở đâu xa, An lạc nào hơn xuân trong nhà, Hàm tiếu nụ cười Xuân Di Lặc, Hành nụ cười này, Xuân trong ta... Thích Viên Giác; TVG PhiLong
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant