Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

1. Tình Cha

24 Tháng Hai 201100:00(Xem: 9256)
1. Tình Cha

SUỐI NGUỒN YÊU THƯƠNG
Tâm Chơn

TÌNH CHA

Xin được bắt đầu bằng câu chuyện viết về “Người Cha” rất tuyệt vời mà tôi đã đọc trong một cuốn sách dạy làm người.[1]

Truyện kể rằng:

“Khi ông Trời bắt đầu tạo ra người cha đầu tiên trên thế gian, ngài chuẩn bị sẵn một cái khung thật cao. Một nữ thần đi qua ghé mắt xem và thắc mắc: ‘Thưa ngài, tại sao người cha lại cao đến như vậy? Nếu ông ta chơi bi với trẻ con thì phải quỳ gối, nếu ông ấy muốn hôn những đứa con mình lại phải cúi người thật bất tiện.’ Trời trầm ngâm một chút rồi gật gù: “Ngươi nói có lý. Thế nhưng nếu ta chỉ để người cha cao bằng những đứa trẻ thì lũ trẻ biết lấy ai làm tầm cao mà vươn tới?’

“Thấy Trời nặn đôi bàn tay người cha to và thô ráp, vị nữ thần lại lắc đầu buồn rầu: ‘Ngài có biết Ngài đang làm gì không? Những bàn tay to lớn thường vụng về. Với đôi bàn tay ấy, người cha phải chật vật lắm mới có thể găm kim đóng tã, cài nút áo cho con trai, thắt chiếc nơ hồng cho con gái. Bàn tay ấy không khéo léo để lấy những mảnh dằm nằm sâu trong da thịt mềm mại của trẻ.’

“Ông Trời mỉm cười đáp: ‘Nhưng đôi bàn tay to lớn vững chãi đó sẽ dìu dắt bọn trẻ qua mọi sóng gió, cho tới lúc trưởng thành.’

“Vị nữ thần đứng bên cạnh nhìn Trời nặn người cha với một đôi vai rộng lực lưỡng. ‘Tại sao ngài phí như thế?’, nữ thần thắc mắc. Ông Trời đáp: ‘Thế người cha sẽ đặt con ngồi đâu khi phải đưa nó đi xa? Lấy chỗ đâu cho đứa con ngủ gật gối đầu khi đi xem xiếc về khuya? Quan trọng hơn, đôi vai đó sẽ gánh vác cả gia đình.’

“Ông Trời thức trắng đêm để nặn cho xong người cha đầu tiên. Ngài cho tạo vật mới ít nói, nhưng mỗi lời phát ra là một lời quyết đoán. Tuy đôi mắt của người cha nhìn thấu mọi việc trên đời, nhưng lại bình tĩnhbao dung.

“Cuối cùng, khi đã gần hoàn tất công việc, Trời thêm vào khoé mắt người cha vài giọt nước mắt. Nhưng sau một thoáng tư lự, Ngài lại chùi chúng đi. Thành ra người đời sau không mấy khi thấy được những giọt lệ hiếm hoi của người cha, mà chỉ có thể cảm và đoán được rằng ông ta đang khóc.

“Xong việc, ông Trời quay lại nói với nữ thần: ‘Ngươi thấy đó, người cha cũng đáng yêu như người mẹ mà ta đã dồn công sức để tạo ra.’

Thật vậy! Bên cạnh tấm lòng bao la như biển lớn, bất tận như suối nguồn của mẹ là một tình cha vút cao vòi vọi như ngọn Thái Sơn.

Thế nên người xưa đã ví:

“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Hay:
“Công cha như núi ngất trời,
Nghĩa mẹ như nước ở ngoài biển Đông.”
Bởi lẽ:
“Có cha mẹ mới có ta,
Làm nên là bởi mẹ cha vun trồng.”

Chính nhờ cha mẹchúng ta nên vóc nên hình, công thành danh toại. Công ơn đó lớn tợ biển trời mà bổn phận làm con phải luôn luôn ghi nhớ, ngõ hầu đáp đền trong muôn một.

“Núi cao biển rộng mênh mông
Cù lao chín chữ ghi lòng con ơi!”

Như tất cả chúng ta đều biết, cha mẹ đã vì con cái mà sớm hôm tần tảo, mưa nắng dãi dầu. Mẹ cực khổ thế nào thì cha cũng lao nhọc chừng ấy. Nhưng vì cha thường nghiêm nghị, ít nói nên con cái không nhận ra được tình yêu thương của cha. Thật ra thì cha cũng như mẹ, cũng thấp thỏm lo âu những khi con vắng nhà. Dù cha không tựa cửa ngóng trông con như mẹ nhưng bên tách trà khuya nguội lạnh cha đã lặng lẽ đợi chờ. Cha không nói, nhưng lòng cha cũng tơ vò trăm mối!

Cho nên, chúng ta phải tập nhìn sâu, nghĩ suy cặn kẽ để thấu hiểu tình thương sâu lắng của cha. Bởi tình thương ấy chỉ biểu lộ khi con còn thơ ấu.

Mà thật ra, ngay khi mẹ mang thai con là cha đã thể hiện tình thương đủ đầy rồi! Cha khoe với họ hàng, bạn bè; cha hỏi han mẹ về những động đậy của con trong bụng ra sao, con đạp con chòi thế nào?...

Cha làm việc quên cả mệt mỏi, gánh vác hết mọi việc lớn nhỏ trong ngoài để mẹ bớt nhọc nhằn mà lo bảo dưỡng thai nhi. Mẹ vốn đã cẩn thận trong việc đi đứng ngồi nằm, nhưng hễ có cha là cha luôn bên cạnh mẹ để đỡ nâng, dìu dắt.

Nếu là người cha không mấy quan tâm đến vấn đề tâm linh, tôn giáo, thì khi mẹ sắp đến kỳ sanh nở cũng sẽ thầm vái van, cầu khẩn cho được “mẹ tròn con vuông.” Khi con đầy tháng, thôi nôi thì chính cha là người đứng ra lo việc cúng kiếng, cầu nguyện Phật Trời cho con đuợc khoẻ mạnh, thông minh. Cũng có những lúc cha thay mẹ mớm cơm cho con, hát ru con ngủ...

Không cần tìm kiếm đâu xa, nếu chịu nhìn cho kỹ, chúng ta sẽ dễ dàng nhận thấy được tình cha qua hình ảnh những người cha trẻ chung quanh mình.

Vâng! Mới ngày nào người cha ấy còn là một thanh niên chưng diện bảnh bao, áo quần tươm tất, sao hôm nay trông đầy vẻ xốc xếch, luộm thuộm?

À! Thì ra chàng trai ấy bây giờ đã trở thành một người cha rồi. Khi đã mang vào trách nhiệm làm cha thì đâu có thời giờ dòm ngó tới bản thân mình nữa! Nếu như gia đình khá giả thì còn đỡ, bằng gặp cảnh khổ nghèo thì cha càng gầy guộc hơn vì phải ngược xuôi bươn chải. Tuy vậy, cha vẫn luôn dành thời gian ít ỏi để được gần con mà âu yếm, nâng niu trìu mến.

Bạn thấy đó, người cha trẻ ấy đã cõng con trên vai, có lúc đội con trên đầu, hớn hở, nghêu ngao đi khắp xóm làng. Lỡ khi con tiểu vãi trên đầu thì cha cũng thản nhiên mà lo rửa ráy cho con trước. Gặp khi trái gió trở trời, con ấm đầu lạnh cẳng, chớm bệnh ốm đau là cha mẹ buồn rầu đứng ngồi không yên, chạy ngược chạy xuôi rước thầy tìm thuốc. Lớn lên một chút, đi đâu cha cũng dắt con theo. Con quanh quẩn bên cha suốt những sáng chiều.

Nhất là ở miền quê, quanh năm bận bịu với nương khoai ruộng lúa, lúc nào con cũng quấn quít bên cha, cha con làm lụng cùng nhau, hủ hỉ nói cười dưới bóng tre, bên ao cá...

Ở chốn thành thị thì có khác, vì cuộc sống tất bật vội vàng, cha con ít khi gần gũi, nhưng hai buổi sớm chiều cha vẫn giành phần đưa đón con đến lớp. Cha con chở nhau trên xe, hoặc có khi đi bộ, miệng nói líu lo như thể trên đường không có ai ngoài hai cha con vậy!

Rồi con lớn lên, có bạn bè, dần dần rời xa vòng tay yêu thương của cha mẹ. Con chỉ đến bên cha mẹ vào những lúc cần thiết!

Riêng cha thì vẫn tháng tháng ngày ngày dõi theo từng bước chân con. Cha để ý, khuyên răn, nhắc nhở con dù không tự mình chăm sóc, vỗ về như mẹ. Cha rất ít khi lên tiếng nhưng đã dạy dỗ cho con rất nhiều điều hữu ích trong cuộc sống. Có thể nói, cha là người nhận trách nhiệm giáo dục con cái, gìn giữ kỷ cương nề nếp trong gia đình. Mẹ nặng về tình cảm, cha nghiêng về lý trí, nên “mẹ đánh 100 roi không bằng cha hăm một tiếng.”

Nhờ thế mà:

“Mẹ dạy thì con khéo,
Cha dạy thì con khôn”

Tục ngữ Ý có câu: “Người mẹ yêu thương con dịu dàng, người cha yêu thương khôn ngoan” cũng là nói lên ý này.

Nói đến tình cha, trong Phật giáocâu chuyện rất cảm động về tình thâm phụ tử mà vua Bình-sa[2] đã dành cho thái tử A-xà-thế.[3]

Truyện kể rằng: “Từ ngày hoàng hậu Vi-đề-hy[4] thọ thai, bà bỗng dưng khởi lên cơn thèm thuồng kỳ lạ. Bà thèm những món ăn tươi sống, có mùi máu tanh hôi. (Dĩ nhiên là Bà đã kiềm chế được cơn thèm ma quái đó.). Các vị quan cận thần tiên đoán rằng đứa trẻ trong bụng hoàng hậu sau này sẽ là một đứa con đại nghịch. Nghe vậy, hoàng hậu hoang mang lo sợ.

“Thế nhưng hoàng hậu cũng phớt lờ đi lời khuyên phá bỏ thai nhi nghịch tử của các cận thần. Vua Bình-sa thì dứt khoát hơn. Ngài thẳng thắn bác bỏ lời tâu trình đó và quyết giữ lại bào thai. Vua nói rằng, dẫu sau này thái tử có giết ngài thì ngài cũng không oán trách, vì đó là giọt máu của mình. Tình phụ tử nặng sâu đã không cho phép vua hủy hoại bào thai dù sau này nó có là nghịch tử.

“Và sự tình quả là như thế. Khi thái tử A-xà-thế lớn lên, dù biết ngai vàng trước sau cũng là của mình, nhưng vì không cưỡng lại được lòng tham muốn sớm lên ngôi cực độ, lại thêm nghe lời xúi giục của Đề-bà-đạt-đa[5] nên thái tử đã âm mưu hành thích vua cha để soán ngôi. Cơ mưu không thành, thái tử bị bắt quả tang. Triều đình kiến nghị rằng ‘pháp bất vị thân’, thái tử phải chịu tội chết. Nhưng vì tình phụ tử thiêng liêng, Vua Bình-sa chẳng những không trị tội mà còn vui vẻ nhường ngôi sớm hơn dự định để con được tròn ước muốn.

“Thái tử A-xà-thế lên ngôi vua. Những tưởng thái tử nhận ra được tình yêu thương thắm thiết của vua cha và tỏ lòng biết ơn vua cha đã tha tội chết mà lo đền đáp. Ai ngờ, A-xà-thế như mất cả nhân tính, nhẫn tâm hạ ngục cha mình và còn ra lệnh bỏ đói cho đến chết.

“Đứng trước cảnh ngộ này, mẫu hậu Vi-đề-hy vô cùng đau khổ. Biết không thể nào khuyên ngăn được việc làm độc ác của A-xà-thế, bà đã nén lòng bi thương tìm cách đưa thức ăn vào cho đức vua. Mỗi ngày, bà giấu thức ăn trong búi tóc để đem vào ngục cho đức vua. Nhờ vậy vua mới duy trì được sự sống.

“Không lâu sau, A-xà-thế phát hiện việc làm lén lút này, liền cấm bà đem thức ăn cho vua cha. Thế là bà phải tìm cách khác. Trước khi vào thăm đức vua, bà tắm rửa thật sạch rồi thoa mật ong vào người, hầu đức vua được đắp đổi sự sống qua ngày.

“Cuối cùng, chuyện này cũng bị phát giác. Thế là A-xà-thế cấm tuyệt mẫu hậu không được tới lui thăm vua cha nữa.

“Ở trong ngục, dù bị bỏ đói khát nhưng nhờ Vua Bình-sa biết thực hành phương pháp tu tập, tĩnh tâm tham thiền, kinh hành niệm ân Tam Bảo như lời Phật dạy nên dung sắc không thay đổi.

“A-xà-thế biết vua cha sắc diện vẫn còn tươi tắn bình thường nên đã hạ lệnh cắt gót chân, xát muối rồi đưa vào hơ lửa. Không chịu nổi cực hình tàn nhẫn mà đứa con bất hiếu đã bày ra, đức vua băng hà.

“Ngay khi đức vua băng hà thì cũng là lúc vợ vua A-xà-thế hạ sanh một hoàng nam. Được tin, A-xà-thế vui mừng khôn xiết liền chạy đến tìm mẫu hậu mà thưa hỏi rằng: ‘Mẫu hậu ơi! Con có hoàng tử rồi! Ngày trước vua cha có vui mừng, có sung sướngyêu thương con như thế này không hở mẹ?’

“Mẫu hậu hướng ánh mắt u buồn về phía xa xăm rồi quay lại nhìn A-xà-thế trìu mến: “Phụ hoàng thương con nhiều lắm. Thương con tha thiết y như con thương hoàng tử vậy! Mẹ còn nhớ khi con còn nhỏ, con bị mụn nhọt ở đầu ngón tay. Mụn nhọt hành con đau nhức khóc la suốt cả đêm. Mẹ dỗ hoài mà con không nín. Cha thấy con như vậy nên đã lấy miệng ngậm ngón tay nhọt cho con bớt nhức. Và hơi ấm trong miệng vua cha đã đem lại sự êm dịu cho con.

“Đến lúc lâm triều, vua cha cũng bồng con theo, vừa ngậm tay con vừa luận bàn việc triều chính. Bất thần, mụn nhọt bể ra, máu mủ vọt cả vào miệng vua cha. Vua cha định lấy tay con ra khỏi miệng nhưng lại sợ con đau nên người đành nuốt hết máu mủ vào bụng. Nhờ vậy mà con không còn đau nhức nữa!.”

“Nghe đến đây, A-xà-thế giật cả mình. Một nỗi ân hận vô biên đã khiến A-xà-thế phải thảng thốt, kêu lên thất thanh: ‘Thả cha ta ra! Thả cha ta ra!’

“A-xà-thế vừa la vừa chạy như một kẻ mất hồn. Vừa tới nơi ngục lạnh thì đức vua đã hóa ra người thiên cổ. A-xà-thế khóc lóc thảm thiết, đau đớn vô cùng. Nỗi ân hận ám ảnh, dày vò lương tâm A-xà-thế mãi cho đến khi gặp Phật, được Phật hóa độ mới thôi..”

Bạn ơi! Câu chuyện đã cho chúng ta thấy một tình cha cao cả biết dường nào! Và trường hợp thức tỉnh của Vua A-xà-thế cũng giống như rất nhiều người trong chúng ta:

“Ở đời ai cũng có lần,
Làm cha mẹ mới biết ơn sinh thành.
Người xưa khó nhọc nuôi mình,
Khác gì mình đã hết tình nuôi con.”

Cha thương con, một tình thương giấu kín trong lòng nên chúng ta chỉ thấy sự nghiêm khắc của cha mà không nhận ra tấm lòng cao cả tiềm ẩn trong từng lời nói khô khan. Chúng ta đâu ngờ rằng “tấm lòng của người cha là một tuyệt tác của tạo hóa” đang bị chính chúng ta phớt lờ, ruồng bỏ.

Chúng ta chạy theo nhu cầu phàm tục, văn minh vật chất, quay lưng với huyết thống cội nguồn, không thèm nhớ nghĩ đến người cha đã một đời lam lũ vì con. Nếu có mẹ cận kề thì cha đỡ phần cơ cực. Bằng như mẹ sớm lìa trần thì cha phải một mình cam phận “gà trống nuôi con”, đảm trách cả vai trò làm mẹ:

“Nghiêng mình mở hột nút ra,
Con ơi, con bú cho cha yên lòng”

Hỡi ôi! có những buổi trưa hè oi bức, bên chiếc võng đong đưa kẽo cà kẽo kẹt, cha cất giọng khô cằn hát ru con:

“Thôi đừng khóc nín đi con,
Cha dỗ cha bồng cha hát cha cưng.
Ngủ đi con ngủ cho ngoan,
Mặt trời đã xuống hoàng hôn đã tàn.”

Rồi có những đêm trời mưa tầm tã, con nhớ mẹ khóc nấc từng cơn. Cha ôm con vào lòng ấp ủ mà nghe uất nghẹn buồng tim. Những khi trời nóng nực, cha ngồi suốt bên con, tay gãi lưng, tay quạt, miệng ngâm nga ầu ơ buồn bã:

“Ví dầu nhớ mẹ khó coi,
Đêm đêm lại khóc để cha chong đèn.
Tìm vàng tìm bạc dễ tìm,
Tìm câu nhân nghĩa khó tìm con ơi!”

Biết tay mình chai sần bởi năm tháng vất vả mưu sinh sẽ làm đau da thịt mịn màng con trẻ nên cha hết sức nhẹ nhàng khi xoa lưng con. Tiếng cha khàn khàn, lạc lõng đã không đủ êm dịu để đưa con vào giấc ngủ say, nên chốc chốc con lại giật mình khóc ré lên. Và thế là cha phải “năm canh chầy thức đủ năm canh.”

Thời trẻ cha cực khổ đã đành, khi tuổi già bóng xế rồi mà vẫn còn tần tảo:

“Cha tôi nay đã già rồi,
Vẫn còn làm lụng để nuôi cả nhà.
Sớm hôm vừa gáy tiếng gà,
Cha tôi thức dậy để ra đi làm.”

Cha ơi!

“Cha lăn lộn giữa cuộc đời,
Áo cơm đè một kiếp người gian nan.
Cha bơi lội giữa nhân gian,
Đắng cay cơ cực nguy nàn... một cha.”

Để rồi, cuộc sống khó nghèo đôi lúc đã làm cho cha rơi nước mắt. Và cha đã khóc vì thấy mình không lo cho con được đủ đầy, để con thua sút bạn bè. Nhìn con thiếu hụt mà lòng cha nghe đau nhói!

câu chuyện rằng:

“Người cha làm nghề sửa khóa, nuôi đứa con trai bại liệt đã mất mẹ. Năm nào cũng vậy, đến mùa Noel, một công ty dịch vụ thường thuê người cha đóng vai ông già Noel. Đêm lễ, cậu con trai nằm một mình trong căn phòng nghèo nàn, trống vắng, vì người cha phải đến những địa chỉ qui định. Mỗi khi đến những nhà đang sum vầy hạnh phúc, chúc những lời tốt đẹp, miệng ông cười rất tươi nhưng lòng đau nhói. Người cha đang nghĩ tới đứa con ở nhà một mình...

“Sau đêm lễ, người cha kể cho con nghe về ông già Noel. Nào là râu bạc trắng, miệng ông cười rất tươi, tay ông lắc chuông vàng, vai mang túi quà, lòng tràn đầy tình thương trẻ thơ... Và ông sẽ đi bất cứ nơi đâu, đến không thiếu một đứa trẻ nào. ‘Thế khi nào ông già Noel đến nhà mình hở cha?’ ‘Chắc sang năm, con ạ!’

“Một năm nữa lại trôi qua. Người cha đến công ty đăng ký việc làm và đóng lệ phí một suất.

“Đêm Noel, cậu bé nằm mong ngóng và tưởng tượng mọi điều. Chợt ông già Noel xuất hiện đúng như hình ảnh người cha từng kể. Đến bên cậu, ông già Noel nhẹ nhàng âu yếm: ‘Ta biết con rất ngoan, rất yêu cha của con, con rất tốt bụng, con rất dũng cảm, con rất... Chúc con một đêm an lành, nhiều hồng phúc... Chúc con... ’

“Ông già Noel đi rồi, lòng cậu con trai tràn ngập hạnh phúc. Cậu nhủ lòng sẽ kể với cha rằng ông già Noel rất nhân từ, rất yêu trẻ thơ và còn khóc với mình nữa...”[6]

Câu chuyện đã cho chúng ta thấy một tình cha ngọt ngào sâu lắng. Vậy mà, chúng ta lại vô tình không đón nhận tình thương nồng ấm đó. Trái lại, chúng ta còn buông lời hằn học, trách móc những khi ngỡ cha không chịu đáp ứng ước muốn của mình. Để rồi khi sực tỉnh ra thì đã muộn màng, như trong câu chuyện sau đây:

“Một chàng trai sắp tốt nghiệp đại học. Đã từ lâu anh mơ ước một chiếc xe thể thao tuyệt đẹp được trưng bày ở cửa hiệu. Và anh đã nói với cha điều ước muốn đó. Ngày tốt nghiệp đến, anh náo nức chờ đợi...

“Buổi sáng, người cha gọi anh vào phòng riêng. ‘Con trai, ta rất tự hào về con’, ánh mắt ông nhìn anh thật trìu mến. Rồi ông trao cho anh một hộp quà được gói rất trang trọng. Ngạc nhiên, chàng trai mở hộp quà và thấy một quyển sách được bọc bằng vải da, có tên chàng được mạ vàng. Tức giận, anh ta nói lớn tiếng: ‘Với tất cả tiền bạc mà cha có, sao chỉ tặng con một quyển sách này thôi?’ Rồi anh chạy vụt ra khỏi nhà, vứt quyển sách vào góc phòng.

“Nhiều năm trôi qua, chàng trai giờ đã là một nhà kinh doanh thành đạt. Anh có một ngôi nhà khang trang và một gia đình hạnh phúc. Người cha lúc này đã già. Một hôm anh nghĩ mình cần phải đi gặp cha. Anh đã không gặp ông ấy kể từ ngày tốt nghiệp.

“Trước lúc lên đường, anh nhận được bức điện tín rằng người cha đã qua đời và để lại tất cả tài sản cho con trai. Anh cần phải về ngay lập tức để chuẩn bị mọi việc.

“Khi bước vào ngôi nhà của cha, bỗng nhiên anh cảm thấy một nỗi buồnân hận khó tả xâm chiếm tâm hồn. Đứng trong căn phòng ngày xưa, những ký ức bỗng ùa về trong anh... Và bất chợt, anh nhìn thấy quyển sách khi xưa nằm lẫn trong những tập giấy tờ quan trọng của cha ở trên bàn. Nó vẫn còn mới nguyên như lần đầu tiên anh nhìn thấy cách đây nhiều năm.

“Nước mắt lăn dài, anh lần giở từng trang, bỗng có vật gì đó rơi ra... Một chiếc chìa khóa! Kèm theo đó là tấm danh thiếp ghi tên người chủ cửa hiệu, nơi có bán chiếc xe thể thao mà anh từng mơ ước. Trên tấm thiếp còn ghi ngày tốt nghiệp của anh và dòng chữ “đã trả đủ.”[7]

Bạn ạ! Tình thương của cha là như vậy đó. Ngẫm kỹ lại xem, tình cảm, kiến thức, sự nghiệp, công danh... của chúng ta đều do cha mẹ tạo nên. Bổn phận làm con không cho phép chúng ta phụ rẫy công ơn lớn lao sâu dày đó.

“Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con chớ hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.”

Chúng ta sống ỷ lại vào cha, dựa nương vào mẹ mà không biết rằng:

“Có cha có mẹ thì hơn,
Không cha không mẹ như đờn đứt dây.
Đờn đứt dây còn thay còn nối,
Cha mẹ mất rồi ruột rối như tơ.”

vị trí người cha rất quan trọng:

“Còn cha gót đỏ như son,
Một mai cha mất gót con đen sì.”
Hay:
“Còn cha nhiều kẻ yêu vì,
Một mai cha thác ai thì nuôi con.”
Hoặc là:
“Con có cha như nhà có nóc,
Con không cha như nòng nọc đứt đuôi.”

Than ôi! Chỉ những ai sớm mất cha mẹ mới nghe lòng trống trải những khi chiều xuống; có chịu cảnh mồ côi mới nghe đau đớn xót xa những lúc đêm về:

“Lòng riêng nhớ mẹ thương cha
Bóng chim tăm cá biết là tìm đâu.”
Hay:
“Lá vàng rơi nhẹ bên thềm,
Mồ côi mới biết nỗi niềm bơ vơ.”
Hoặc là:
“Lời ru vang vọng bốn bề,
Mà câu hiếu đạo chưa hề trả xong.”

Vậy, hỡi những ai diễm phúc còn cha mẹ hiền, xin chớ làm cha mẹ buồn mà lỗi đạo làm con. Cha mẹ đã dành trọn cuộc đời hy sinh cho con mà không hề mong con đáp lại:

“Biển Đông có lúc đầy vơi,
Chớ lòng cha mẹ suốt đời tràn dâng.”
Nhưng trớ trêu thay:
“Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng,
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày.”

Cha mẹ nuôi con không mong con nuôi lại! Chúng ta đừng bao giờ khởi lên ý niệm tính thiệt so hơn mà làm đau lòng các bậc sanh thành như trường hợp sau đây:

“Ông Năm có hai con: một trai, một gái đều đã thành đạt, đã có gia đình hẳn hoi. Vậy mà ông vẫn không ‘cậy vào con’ được. Đã 74 tuổi rồi mà ông vẫn thui thủi một mình kiếm ăn bằng nghề mài dao kéo trong căn nhà trống trước dột sau. Người con trai lớn của ông là một viên chức nhà nước cũng có nhà, có xe nhưng tuyệt nhiên y không hề nghĩ tới chuyện phụng dưỡng cha già.

“Những ngày ông Năm đau ốm, anh con trai ghé qua một chút, để lại ít tiền rồi đi. Đứa con gái còn tệ hơn, cứ ghé qua là cằn nhằn cửi nhửi: ‘Già rồi mà không biết lo thân. Ba bán đất rồi về ở với con, mài dao mài kéo được mấy đồng!’

“Tuần trước, ông Năm lại bịnh. Bà con trong xóm chạy tới chạy lui chăm sóc. Anh con trai ghé qua: ‘Ba đưa giấy tờ đất cho con mượn thế chấp ngân hàng, con cần một số vốn làm ăn.’ Vừa lúc đó, đứa con gái cũng xuất hiện: ‘Ba bệnh hoài, biết chết nay sống mai? Thôi thì phân chia tài sản cho rồi, để nằm xuống rồi phiền phức lắm!’

“Ông Năm nghe đau ở ngực. Hai đứa con ruột thịt tới chỉ đòi mượn, đòi chia. Không đứa nào quan tâm ông đau ốm thế nào. Một người hàng xóm bưng qua tô cháo. Những giọt nước mắt lặng lẽ chảy dài trên gương mặt già nua tội nghiệp của ông...

“Hai ngày nay, bệnh ông Năm trở nặng. Bà con lối xóm đưa ông vào bệnh viện. Hai đứa con ông vẫn chưa hay biết gì, chúng đang khởi đơn đòi thừa hưởng miếng đất duy nhất của ông. Buổi chiều, tiếng người bạn già của ông Năm hớt hải gọi vào điện thoại: ‘Chú Hai ơi! Anh Năm không qua được nữa rồi! Chú vô bệnh viện mau.’

“Trong phòng cấp cứu, đứa con gái rên rỉ: ‘Vậy ba để miếng đất cho con hay cho anh Hai? Đã kêu lo tính trước mà không nghe!’ Người con trai vừa tới, ông Năm đưa mắt nhìn hai đứa con thân yêu của mình: ‘Ba đã sớm lo liệu vì không muốn chết rồi lại nằm không yên. Ba đã làm di chúc chia tài sản cho hai con. Chừng nào miếng đất ấy được bồi thường theo giá quy hoạch, hai con sẽ được chia đều. Ba không cần đứa nào thờ cúng hết. Ba không muốn nghe tụi con cằn nhằn mỗi lần cúng kiếng ba. Cứ hỏa thiêu rồi đem tro cốt rải xuống sông. Như vậy, tụi con không cần cúng mộ nữa.’

“Nói xong những lời cuối cùng và chừng như lòng dạ cũng thanh thản, ông Năm lặng lẽ ra đi.

“Đến bây giờ hai anh em mới thảng thốt nhìn nhau. Họ đã có những cái mình cần nhưng những lời trăn trối của cha như ngọn roi mãi quất vào lương tâm họ.”[8]

Do vậy, để không biến mình thành kẻ vong ân, bạc tình bội nghĩa, ngỗ nghịch bất hiếu, chúng ta phải lắng lòng nghe lại những lời dạy của cổ nhân:

“Một lòng thờ mẹ kính cha,

Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”

SG, mùa sen nở 2007

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 11399)
Hơn hai ngàn năm trăm năm đã qua, kể từ khi bảy bước chân của đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật đặt những dấu chấm phá trên mãnh đất thế giới này...
(Xem: 11564)
Khi đem cái “tôi” đặt xuống đất giá trị nhân cách ấy trở nên đáng quý thanh cao, khi cố công tạo dựng một cái “tôi” cho cao sang nó lại hóa ra tầm thường rẻ rúng.
(Xem: 13562)
Những giọt lệ của A Tư Đà là kết tinh của chí nguyện, ưu tư và sự tha thiết của một hành giả đã dành trọn đời mình để tầm cầu chân lý tối hậu.
(Xem: 14132)
Đức Phật ra đời là mang lại cho thế gian niềm tinhạnh phúc tuyệt đối. Ngài là người kêu gọi và khen ngợi một cuộc sống không thù hằn và cuộc sống hướng đến tiến bộ.
(Xem: 10315)
Sớm mai ấy, nơi vườn Lâm Tỳ Ni hoa Vô Ưu Mạn Đà La bừng nở và chim Ka Lăng Tần Già bay lượn, cất tiếng hót vang lừng đón mừng thái tử Tất Đạt Đa...
(Xem: 10792)
Có Phật trong lòng là có tất cả, có bầu trời trong xanh mây trắng, có phương trời giải thoát giác ngộ, có bờ kia mình vừa mới vượt qua, bờ của cứu cánh an vui…
(Xem: 11343)
nguyện lực Người chôn vùi cát bụi A-Tăng-kỳ, bao kiếp nối đường quanh Từ Đâu-suất gót mờ vang bóng nguyệt
(Xem: 11288)
Hai ngàn sáu trăm hai mươi ba năm trước Thế giới ba ngàn sinh diệt diệt sinh Cõi hồng trần kết bằng nghiệp tham ái sân si...
(Xem: 11445)
Bảy đóa hoa sen tinh khiết, là biểu hiện cho cả sức sống cao thượng ngàn đời, là hình ảnh sống động mang chất liệu yêu thương, chứa đầy hùng tâm, hùng lực vững bước độ sanh.
(Xem: 10181)
Phật dạy, cùng tôn thờ một đấng Đạo Sư, cùng tu hành theo một giáo pháp, cùng hòa hợp như nước với sữa, thì ở trong Phật pháp mới có sự tăng ích, sống an lạc.
(Xem: 9970)
Vâng, tôi có thật nhiều bậc thầy, những bậc bồ-tát. Có khi họ dạy tôi bằng lời, có khi chỉ im lặng, có khi bằng hành động, có khi bằng sự dấn thân hy sinh...
(Xem: 10720)
Kính lạy Ðức Thế Tôn bậc Giác Ngộ của loài người. Ngài thị hiện vào cõi Ta bà trong tấm thân hài nhi bé nhỏ nhưng tâm hồn Ngài vượt khỏi phàm nhân.
(Xem: 11323)
Nhật Bản, từ thời kỳ đầu của triều đại Asuka (538-645), lễ tắm Phật vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch hằng năm đã có tổ chức tại các chùa lớn...
(Xem: 42243)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 10494)
An nhẫn là hạnh tối thắng của chư Phật. An nhẫn là thọ nhận mọi chướng duyên và khổ nạn với tâm bình lặng, giống như mặt đất thọ nhận tất cả mọi vật...
(Xem: 11867)
Ðối với Phật đạo, siêu vượt trói buộc của tử sanh phiền não, nhơn quả luân hồi là một việc rất thực tế, hoàn toàn không phải là điều viễn vông hay mơ mộng.
(Xem: 10033)
Tắm Phật không đủ, cần phải tắm mình. Cho trôi mọi thứ tập tục đời thường. ÐẠO mà Phật nói, một bộ A Hàm, Thắng Man, Pháp Hoa v.v… Biết bao kinh điển chỉ bảo phương tiện...
(Xem: 10469)
Phật tánh ấy là giao điểm trên cùng tầng số giác ngộ và đồng nhịp điệu với Pháp thân của đức Như Lai. Đón mừng Phật đản chính là để khơi cái tánh giác nơi thâm cung trong tiềm thức của mỗi chúng ta.
(Xem: 10641)
Sách Phật tổ Thống ký thuật là dưới đời Đường, vua Hỷ tông năm 873 TL, ngày tám tháng Tư, thiết lễ Phật đản bằng cách rước kiệu di tích đức Phật từ Phụng hoàng Pháp môn về Lạc dương.
(Xem: 45799)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32139)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11346)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 10710)
Trên một bình diện cao hơn, Ðức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộnăng lực tiềm ẩn...
(Xem: 11342)
Đức Phật ra đời là một dấu móc tâm linh quan trọng nhằm khai mở ánh sáng giải thoát và phát huy khả năng giác ngộ trong mỗi con người để vượt qua mọi khổ đau do vô minh chấp thủ.
(Xem: 10641)
Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.
(Xem: 13473)
Trong thế gian ngã chấp, lấy mình làm trung tâm của vũ trụchạy theo quyền thế, Đức Phật dạy chúng ta lý tưởng cao quý của sự phục vụ bất cầu lợi.
(Xem: 12385)
Sau khi Đức Phật nhập diệt, các đệ tử đã thực hiện đúng lời di chúc của Ngài là lấy pháp làm nơi nương tựa. Do đó, việc kết tập các giáo pháp của Ngài là việc làm cấp bách...
(Xem: 11051)
Cuộc đời của Đức Phật vẫn là một gương lành, là bài ca siêu thoát, là một tác phẩm tâm linh không thể nào diễn tả hết được chiều sâu vô tận...
(Xem: 10630)
Tôi tin rằng, cội nguồn của mọi hành động, lời nóiý nghĩ thiện lành chính là tình thương yêu bao la, rộng rãi đối với mọi người, mọi vật.
(Xem: 12338)
Lâm Tỳ Ni đã từng là nơi mà những nhà chiêm bái học giả như Ngài Pháp Hiền vào thế kỷ thứ V và Ngài Huyền Trang vào thế kỷ thứ VII...
(Xem: 11179)
Sống theo đúng năm giới thì sống thọ: Ðó là lời Ðức Phật dạy, mà cũng là một Chân lý được các bậc minh triết phương Ðông khẳng định.
(Xem: 11854)
Ngược dòng lịch sử cách đây hơn 25 thế kỷ, đức Từ Tôn, cứu thế đã xuất hiện giữa Trung Ấn Ðộ để sau này trở thành một bậc Ðại Vĩ Nhân mở đầu cho một kỷ nguyên an lạc và giải thoát.
(Xem: 29294)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 9229)
Khi ánh sáng chiếu rọi khắp gian phòng bóng tối tự nhiên biến đi. Cũng tương tự như thế khi tâm ta, lòng từ bi hiện diện, thì hận thù không còn nơi để trú ngụ nữa.
(Xem: 10559)
Hôm nay ngày Phật đản lại về, con đứng trước dung nhan tôn tượng của Ngài, con hướng tâm về Lâm Tỳ Ni để nghe lại tiếng nói trong lòng con và nghe những âm thanh hòa reo...
(Xem: 10248)
Ðức Phật không chỉ là một nhân vật lịch sử được cả thế giới biết đến, mà còn là một bậc Giác ngộ vĩ đại, một vị Thánh nhân trong tâm tưởng của mọi người.
(Xem: 10609)
Người Ấn thường dùng hoa sen để chỉ cho sự ra đời của Đức Phật. Tổ tiên chúng ta đã đồng cảm về điều ấy, nên 2.000 năm về trước, từ những nụ sen mọc trên khắp quê hương...
(Xem: 10920)
Nhìn lên Tôn Tượng của Đức Phật, gương mặt thoáng nhẹ nụ cười mỉm, thanh thoát như toả ra một sức sống hiền dịu. Một con người bình thường siêu việt trên những con người bình thường...
(Xem: 10821)
Phật giáo là một tôn giáo được ngưỡng mộ nhất trên thế giới hiện nay, được sáng lập bởi Đức Phật Thích Ca hiệu Gautama, với niềm tin vào hòa bình, từ bitrí tuệ...
(Xem: 32169)
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Đức Phật chân thật không ở bên ngoài mà nơi Tâm mỗi chúng ta”. Cũng như thế, chư Thiên hay Quỷ thần không ở bên ngoài mà ngay nơi tâm chúng ta...
(Xem: 27417)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17816)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 11886)
Mùa trăng tròn Tháng Tư năm Tân Mão, ngược dòng thời gian 2011 năm hết dương lịch, đi xa hơn nữa 634 năm về trước, có một đấng Cồ Đàm Thích Ca Mâu Ni ra đời tại vườn Lâm Tỳ Ni...
(Xem: 12294)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 10450)
Thế Tôn niêm hoa và một làn hương vĩnh cửu bay đi. Chỉ một Ca Diếp mỉm cười. Thế cũng đủ. Ðủ cho một làn hương trao. Ðủ cho Phật pháp ra đi và trở về.
(Xem: 11711)
Mỗi năm khi mùa hè sắp đến, nhân gian lại rộn rã, hân hoan chào đón ngày Phật Đản, ngày ấy người ta không thể nào không nhắc đến chữ “Lumbinī” hay “Lâm Tỳ Ni”.
(Xem: 10440)
Sự kiện đức Phật đản sanh là bức thông điệp hạnh phúc bước ra thế giới khổ đau, đánh thức sự hướng tâm vào thế giới an lạc của sự vận hành...
(Xem: 10797)
Xuất thân là một vị thái tử, nhưng không bị những xa hoa vật chất nơi cung vàng điện ngọc lôi cuốn, thái tử Tất Đạt Đa sớm tỉnh ngộ trước cảnh sinh, lão, bệnh, tử...
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 10164)
Tôi bước những bước chân chậm rãi trong chánh niệm, tìm được sự an lạc trong mỗi bước chân đi, nhịp thở điều hoà làm nở hoa dưới gót chân tôi bước...
(Xem: 10295)
Trí tuệ bao giờ cũng chiếm một địa vị ưu tiên, tối thắngtối hậu trong đạo Phật. Giới-Định-Tuệ nói lên hai căn tánh sẵn có trong mỗi người...
(Xem: 10661)
Đức Phật ra đời cách đây đã hơn hai thiên niên kỷ. Thời ấy, phương tiện ghi chép lịch sử chưa được như ngày nay, chủ yếu là truyền miệng từ đời này sang đời khác...
(Xem: 10777)
Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng runtri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần...
(Xem: 11238)
Hàng năm, vào thời điểm Tháng Tư Âm lịch, chúng ta lại được nghe nói về một người siêu phàm đã đến với thế gian này, cách nay gần 2600 năm.
(Xem: 10409)
Cuộc hành trình từ vô lượng kiếp của Ðức Phật, trải qua nhiều thân Bồ Tát và đến thân tối hậu có tên là Sĩ Ðạt Ta gói trọn trong một bài kệ gồm 4 câu...
(Xem: 10699)
Ân sâu hướng đạo về thanh tịnh, Nghĩa lớn độ sinhpháp thân. Trong cõi thanh bình đầy phúc lạc Vừng dương soi nẻo, tự đưa chân.
(Xem: 11482)
Tháng tư ấy rất xưa mà mới Đóa sen hồng phơi phới mãn khai Ca Tỳ La Vệ trang đài Ngàn sao rực rỡ đẹp thay đất trời.
(Xem: 18275)
Tôi treo cờ Phật giáomục đích tôn xưng, vì bổn phận và trách nhiệm (nếu có) chứ hoàn toàn không vì ý nghĩa tâm linh mong được phù trợ nào cả - Dương Kinh Thành
(Xem: 10532)
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt - Thích Nữ Chân Liễu
(Xem: 12860)
Ngày nào cũng vậy, lúc nào con cũng mong sẽ nhìn thấy đôi mát, nụ cười, dáng ngồi tĩnh tại của Người. Nhìn đôi mắt ấy, con có thể mỉm cười hay bật khóc mà không cần cố gắng.
(Xem: 11758)
Mùa này tháng Tư rất xưa mà rất nay, đóa đóa sen hồng thơm ngát mãn khai. Thành Ca Tỳ La Vệ thuở ấy rực rỡ muôn ngàn vì sao. Đêm mười lăm trăng treo trên đỉnh hoàng triều...
(Xem: 29216)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28622)
Một chủ đề chính của cuốn sách này là qua thực hành chúng ta có thể trau dồi tỉnh giác lớn lao hơn suốt mỗi khoảnh khắc của đời sống. Nếu chúng ta làm thế, tự dolinh hoạt mềm dẻo liên tục tăng trưởng...
(Xem: 28315)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 13338)
Thời điểm linh thiêng nhất của ngày và đêm là giờ phút Ngài thị hiện, thực sự đã trở thành ngày trọng đại với người Phật tử, nhất là với người Phật tử làm thơ.
(Xem: 22798)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 13449)
Xuân về muôn vật xôn xao, rừng mai hé nụ ngạt ngào thiền hương.
(Xem: 11586)
Tất Đạt Đa dụng Pháp lành Tay Ngài hai mở Tinh Anh muôn loài Từ Quang Phật Đản sáng soi...
(Xem: 13833)
Giữa bao tiếng niệm Phật Tiễn người về cố hương Mẹ ra đi đi mãi Cho con cháu tiếc thương!
(Xem: 25744)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26103)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22331)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 14493)
Đức Phật, sự đản sinh, thành đạonhập niết bàn của Ngài được chúng ta kỷ niệm mỗi năm vào ngày lễ Vesak, đã để lại cho nhân loại kho tàng giáo lý rộng sâu...
(Xem: 12077)
Những giá trị cốt lõi của đạo Phật là một gia sản có thể được chia sẻ trong các cuộc hội đàm về tất cả những vấn nạn phức tạpnhân loại đang đối mặt ngày hôm nay.
(Xem: 11817)
Hạnh phúc thay cho loài người chúng con; được tận mắt chứng kiến bảy bước chân trên bảy đóa hoa sen của Ngài đang bước đến với chúng con, tỏa ánh hào quang diệu pháp...
(Xem: 11694)
Xin mời quí vị và các bạn theo dõi cuộc hội thoại bỏ túi giữa các huynh trưởng quen thuộc A, B, C bàn về những cảnh đặc biệt của chuyện phim “Little Buddha”...
(Xem: 11498)
Đức Phật xuất hiện ở cõi đời, đem ánh sáng đến với cõi đời, và ánh sáng đó được những đệ tử của Ngài trao truyền cho nhau từ thế hệ này sang thế hệ khác...
(Xem: 33212)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31867)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 12047)
Xá Lợichân thân của Đức Phật, sau khi Đức Phật nhật Niết Bàn, kim thân của Ngài được trà tỳ (hỏa táng) do nhân duyênnguyện lực đại từ bi của Đức Phật...
(Xem: 39655)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22521)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 11980)
Một mùa Phật Đản nữa lại đang đến gần chúng ta, đến với những người con Phật của một đất nước có bề dày hơn hai ngàn năm Phật giáo.
(Xem: 14251)
Ngài đi đến khắp đó đây Học tu với các vị Thầy trứ danh Mặc dù Ngài đã tựu thành Đến chỗ cao nhất, sánh bằng Tôn Sư.
(Xem: 13359)
Vào đêm ấy, canh ba, giờ đã tới Bao nhiêu người đang ngon giấc mê man Tất Đạt Đa đang ưu tư chờ đợi...
(Xem: 14312)
Một ngày ấy, Hoa Vô Ưu bừng nở Niềm hân hoan khắp thế giới ba ngàn Có bảy đóa sen hồng nâng gót ngọc...
(Xem: 12077)
Có một vị Thánh nhân tên là Siddhartha đã thị hiện ra đời cách đây 2634 năm để tiếp nối hạnh nguyện cứu độ muôn loài vượt qua khổ ải sanh tử, đưa đến bờ Giác...
(Xem: 10417)
Phát tâm bồ đềbước đầu để vận dụng năng lực tâm linh cho đúng hướng. Thi thiết từ bitrí tuệtriển khai diệu lực vô hạn của tâm bồ đề đó qua hai bình diện...
(Xem: 11240)
Tắm Phật còn là một cách nhắc nhở chúng ta tịnh hóa thân tâm, gột rửa dần tham lam, sân hậnsi mê, nhờ vậy mà chúng tathể đạt được chân hạnh phúc trong cuộc sống.
(Xem: 13337)
Nghi thức diễu hành xe hoa trong Đại Lễ Phật Đản Phật Giáo Bắc Truyền có nguồn gốc từ Ấn Độ được truyền đến Đông phương.
(Xem: 34552)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 12641)
Khi đức Phật ra đời, ánh sáng thắp lên giữa rừng đêm tối, thả xuống sông đời chiếc thuyền cứu độ. Biết bao người nhẹ nhàng sống trong ánh sáng của bậc đạo sư.
(Xem: 12239)
Ngày Phật đản được xem là ngày Tết của những người con Phật, bởi vì đây là thời khắc lịch sử đánh dấu sự ra đời của một Bậc Siêu nhân - Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
(Xem: 13541)
Rõ ràng, Phật đã Đản sinh ngay từ lúc phát khởi tâm niệm nguyện thay thế cho tất cả chúng sinh đang chịu khổ đau...
(Xem: 12637)
Đức Phật cho rất nhiều, mà chẳng hề đòi lại dù bao nhiêu. Thế Tôn sống đời tự tại, không toan tính muộn phiền, không lo lắng ưu tư.
(Xem: 12992)
Tuy là Bậc Đạo sư sáng lập Phật giáo, song các kỳ tích của Phật Thích Ca Mâu Ni đã vượt khỏi khuôn khổ của một vị Phật lịch sử để trở thành những biểu tượng kỳ vĩ...
(Xem: 16317)
Từ địa vị thái tử, nhờ công phu tự thân tu tập, tự thân hành trì, tự thân chứng ngộ, Ngài trở thành Bậc Giác ngộ giữa đời...
(Xem: 11766)
Tôi lặng yên ngắm nhìn bàn chân, gót hài Đức Phật bước trên đài sen. Kính cẩn chiêm bái Đức Từ Phụ đang mỉm cười và tôi cũng mỉm cười...
(Xem: 27409)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28454)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant