Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ngày thứ tư

25 Tháng Tư 201100:00(Xem: 12560)
Ngày thứ tư

ẤN QUANG ĐẠI SƯ KHAI THỊ
tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải (1936)
(Nguyên tác: Ấn Quang Ðại Sư Hộ Quốc Tức Tai Pháp Ngữ)
(Liên Hương dịch theo bản in của Hoa Tạng Tịnh Tông Học Hội, Ðài Bắc)

Ấn Quang Ðại Sư Pháp Ngữ
(giảng tại pháp hội Hộ Quốc Tức Tai tại Thượng Hải - 1936)


Ngày thứ tư:

Giảng về nhân quả lớn lao để thành Phật và lược giải Tứ Liệu Giản

Hai ngày hôm trước, tôi đã nói qua về nhân quả. Hôm nay tôi vẫn bàn về đề tài này, quý vị cần biết là nhân quả đã nói đó chỉ là tiểu nhân, tiểu quả, nhân quả được bàn trong ngày hôm nay là đại nhân, đại quả. 

Sở dĩ đức Phật thành Phật thường hưởng pháp lạc chơn thường, sở dĩ chúng sanh bị đọa địa ngục, vĩnh viễn chịu khổ luân hồi kịch liệt, [cả hai việc này] đều chẳng ra ngoài nhân quả. Hễ con người muốn trị thân tâm thì trọn chẳng thể lìa nhân quả được. Con người hiện tại ham ăn nói lớn lối, chẳng cầu thực tế, bộp chộp bảo nhân quả là pháp Tiểu Thừa. Ðây thực là một lầm lẫn lớn. 

Nên biết rằng: Tiểu Thừa hay Ðại Thừa đều chẳng ra ngoài hai chữ “nhân quả” được! Tiểu Thừatiểu nhân quả, Ðại Thừa là đại nhân quả. Tiểu nhâny theo Sanh Diệt Tứ Ðế, biết Khổ, đoạn Tập, hâm mộ Diệt, tu Ðạo; tiểu quả là chứng quả A La Hán. Ðại nhân là tu Lục Ðộ vạn hạnh; đại quả là chứng Phật Quả rốt ráo. Trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu. Ðã có nhân nào ắt sẽ có quả đó, không sai hào ly. Vì vậy, chẳng những mình người thế gian thuộc trong vòng nhân quả mà ngay chính Bồ Tát, Phật cũng chẳng ra ngoài vòng nhân quả. Nếu bảo nhân quảTiểu Thừa, hóa ra Phật, Bồ Tát cũng là Tiểu Thừa ư? Ðủ biết lời lẽ ấy ngông cuồng đến thế nào! 

Pháp hội này là pháp hội Hộ Quốc Tức Tai. Tôi chỉ mới bàn đến việc ngưng dứt tai nạn đao binh, nước lửa, vẫn chưa phải là cứu cánh. Cần phải dứt tai nạn phiền não sanh tử thì mới là biện pháp triệt để. Chúng ta mê muội Pháp Thân, đoạn Phật huệ mạng, đáng buồn, đáng đau! So với việc sắc thân bị họa, [mê lầm mất Pháp Thân] nào phải chỉ nặng nề gấp cả trăm ngàn lần hơn! Vì thế, phải hộ trì Pháp Thân huệ mạng, đoạn sanh tử phiền não mới đáng kểbiện pháp tức tai (dứt trừ tai chướng) trọn vẹn

Phật giáo, nói đại cương, chẳng ngoài năm tông, tức là: Thiền, Giáo, Luật, Mật, Tịnh. 

- Luật là căn bản của Phật pháp. Nghiêm trì tịnh giới để mong tam nghiệp thanh tịnh, nhất tánh viên minh. Ngũ Uẩn đều không, các khổ đều độ. 

- Giáo là y giáo tu Quán, rời khỏi “ngón tay chỉ mặt trăng”, triệt ngộ Phật tánh sẵn có của đương nhân, kiến tánh thành Phật. Nhưng chữ “thành Phật” đó nghĩa là thấy được đức Phật thiên chơn trong tự tánh bèn gọi là “thành Phật”, chứ chưa phải là thành tựu, chứng được quả Phật của Bồ Ðề đạo. 

- Mật dùng tam mật (thân mật, khẩu mật, ý mật) gia trì, chuyển Thức thành Trí, gọi là “tức thân thành Phật”. Ðây cũng chỉ là ngay nơi thân này, liễu sanh thoát tử nên bảo là “thành Phật”, chứ chưa phải là thành đức Phật phước huệ viên mãn

Ba tông này đều có thể gộp vào Thiền vì khí phận tương đồng. Nếu xét về yếu quyết tu trì thì Phật Pháp chỉ có hai môn Thiền và Tịnh. Thiền chuyên cậy tự lực, nếu chẳng phải kẻ túc căn thành thục thì chẳng thể được lợi ích thật sự. Tịnh là kiêm nhờ Phật lực, hễ ai đầy đủ tín, hạnh, nguyện chơn thật thì đều có thể đới nghiệp vãng sanh. Sự khó dễ giữa chúng khác nhau một trời, một vực. Vì thế, ngài Vĩnh Minh Diên Thọ thiền sư đầu đời Tống là một vị cổ Phật thị hiện trong thế gian, triệt ngộ nhất tâm, tu trọn vạn hạnh; mỗi ngày làm một trăm lẻ tám Phật sự, đêm đi qua ngọn núi khác, đi kinh hành niệm Phật. Ngài rất lo hậu thế học nhân chẳng hiểu rõ tông yếu, nên riêng viết thành một bài kệ Tứ Liệu Giản ngõ hầu mọi người biết chỗ xu hướng

Kệ rằng: 

“Có Thiền, có Tịnh Ðộ, 

Khác nào hổ thêm sừng, 

Hiện tại làm thầy người 

Ðời sau làm Phật, Tổ. 

Không Thiền, có Tịnh Ðộ, 

Vạn tu, vạn cùng sanh, 

Nếu được thấy Di Ðà, 

Lo gì chẳng khai ngộ

Có Thiền, không Tịnh Ðộ 

Mười người, chín chần chừ 

Ấm cảnh nếu hiện tiền 

Chớp mắt đi theo nó. 

Không Thiền, không Tịnh Ðộ 

Giường sắt cùng cột đồng 

Muôn kiếp với ngàn đời 

Không một ai nương dự” 

(Hữu Thiền, hữu Tịnh Ðộ, 

Do như đới giác hổ 

Hiện thế vi nhân sư 

Lai sanh tác Phật, Tổ. 

Vô Thiền, hữu Tịnh Ðộ, 

Vạn tu, vạn nhân khứ 

Nhược đắc kiến Di Ðà, 

Hà sầu bất khai ngộ

Hữu Thiền, vô Tịnh Ðộ, 

Thập nhân, cửu ta lộ, 

Ấm cảnh nhược hiện tiền 

Miết nhĩ tùy tha khứ. 

Vô Thiền, vô Tịnh Ðộ, 

Thiết sàng tịnh đồng trụ, 

Vạn kiếp dữ thiên sanh, 

Một cá nhân y hỗ)

Tám mươi chữ này là cương yếu của cả một đời giáo hóa của đức Như Lai, là khuôn mẫu huyền diệu để người học Phật liễu thoát ngay trong đời này. Trước tiên, học nhân cần phải hiểu rõ thế nào là Thiền? Thế nào là Tịnh Ðộ? Thế nào là có Thiền? Thế nào là có Tịnh Ðộ? 

Thiền và Tịnh Ðộ là ước về Lý, về Giáo mà nói. “Có Thiền, có Tịnh Ðộ” là ước về cơ, ước về tu mà luận. Luận theo Lý, hai pháp trọn chẳng khác gì nhau. Xét về mặt Sự Tu, hai pháp khác nhau rất xa. Lời tuy tương tự, ý nghĩa thật bất đồng, cần phải rất chú ý thì mới chẳng cô phụ tấm lòng đau đáu của tổ Vĩnh Minh. 

Gì là Thiền? Ðấy chính là chơn như Phật tánh chúng ta sẵn có, nhà Thiền thường gọi là “bản lai diện mục trước khi cha mẹ sanh ra”. Tông môn chẳng nói trắng ra để người học tự tham cứu tìm hiểu lấy nên nói như thế. Thật sự, nó chính là tâm thể thuần chơn, không năng, không sở, ly niệm linh tri, tức tịch tức chiếu vậy (“Ly niệm linh tri” là trọn không có ý niệm suy lường nhưng hiểu rành rẽ tất cả cảnh tượng trước mắt). 

Tịnh Ðộ tức tín nguyện trì danh, cầu sanh Tây Phương, chứ chẳng phải chỉ riêng nói đến “duy tâm Tịnh Ðộ, tự tánh Di Ðà”. 

“Có Thiền” tức là cực lực tham cứu, niệm tịch, tình vong, thấy thấu suốt diện mục bản lai trước khi cha mẹ sanh ra, minh tâm kiến tánh. “Có Tịnh Ðộ” là thực sự phát Bồ Ðề tâm, sanh lòng tin, phát nguyện, trì danh hiệu Phật, cầu sanh Tây Phương. Nếu như tham thiền chưa ngộ, hoặc ngộ chưa triệt để thì đều chẳng được gọi là “có Thiền”. Nếu như niệm Phật nhưng thiên chấp duy tâm, không có tín - nguyện, hoặc có tín - nguyện nhưng chẳng thân thiết thì đều chẳng được gọi là “có Tịnh Ðộ”. 

Thậm chí, tu Tịnh Ðộ nhưng tâm nghĩ đến trần lao, hoặc cầu phước báo nhân thiên, hoặc cầu đời sau xuất gia làm Tăng, nghe một hiểu cả ngàn, đắc đại tổng trì, hoằng dương Phật pháp, giáo hóa chúng sanh cũng đều chẳng được gọi là “người tu Tịnh Ðộ” vì chẳng chịu theo đúng kinh giáo Tịnh Ðộ trong Phật pháp. Nếu tưởng lầm lấy việc thông đạt bác lãm giáo nghĩa làm chuẩn hòng đời sau chẳng mê sẽ được liễu thoát thì trong cả vạn người, khó được một, hai. Bị phước báo mê hoặc, từ mê vào mê, thật có lắm kẻ! Nếu thật sự hiểu sâu xa ý nghĩa này thì mới đúng là người tu Tịnh Ðộ. Chẳng hiểu đúng ý nghĩa, cứ thấy tham thiền bèn cho là “có Thiền”, thấy niệm Phật liền cho là “có Tịnh Ðộ”. Mình lầm, lầm người, há chẳng phải là tai hại cùng cực sao? 

Ở đây, tôi đã thuyết mình thế nào là có hay không có Thiền, Tịnh; nay sẽ đem lời kệ, dựa theo từng đoạn mà phân tích thì quý vị mới thấy tám mươi chữ này khác nào trời bày đất đặt, không một chữ nào chẳng xác đáng, không một chữ nào thay đổi được nổi! 

Bài kệ thứ nhất nói: “Có Thiền, có Tịnh Ðộ, khác nào hổ thêm sừng, hiện tại làm thầy người, đời sau làm Phật, Tổ”, nghĩa là: Người đã triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, lại còn thâm nhập kinh tạng, biết trọn vẹn các pháp môn quyền, thật của Như Lai, nhưng trong các pháp, lại chỉ chọn lấy một pháp “tín nguyện niệm Phật” để làm đường lối chung cho chánh hạnh tự lợi, lợi tha. Phần nói về Thượng Phẩm Thượng Sanh trong Quán kinh: “Ðọc tụng Ðại Thừa, hiểu Ðệ Nhất Nghĩa” chính là nói về hạng người này. 

“Khác nào hổ thêm sừng” là người này song tu Thiền Tịnh, có đại trí huệ, có đại Thiền Ðịnh, có đại biện tài, tà ma ngoại đạo nghe danh vỡ mật, giống như hổ mọc thêm sừng, oai mãnh khôn sánh. Có kẻ nào đến học hỏi với mình sẽ tùy cơ thuyết pháp. Thấy nên dùng Thiền Tịnh Song Tu để tiếp độ thì dùng Thiền Tịnh Song Tu tiếp độ. Nên dùng Chuyên Tu Tịnh Ðộ để tiếp độ thì dùng Chuyên Tu Tịnh Ðộ tiếp độ. Chẳng luận là thượng, trung, hạ căn, không một ai là chẳng được lợi lạc. [Người như vậy] há chẳng phải là “nhân thiên đạo sư” ư? Ðến lúc mạng chung, được Phật tiếp dẫn vãng sanh Thượng Phẩm, trong khoảng khảy ngón tay, hoa nở thấy Phật, chứng Vô Sanh Nhẫn, bét nhất cũng là bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo. Cũng có người đốn siêu địa vị, đạt lên Ðẳng Giác. Bậc Sơ Trụ trong Viên Giáo đã có thể hiện thân làm Phật trong cả trăm cõi; huống hồ là những địa vị sau đó càng lên cao càng thù thắng hơn, tính thẳng đến địa vị thứ bốn mươi mốt là địa vị Ðẳng Giác [thì càng thù thắng đến mực nào] nữa?

Bài kệ thứ hai là: “Không Thiền, có Tịnh Ðộ, vạn tu, vạn cùng sanh, nếu được thấy Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ”. Nghĩa là: người ấy tuy chưa minh tâm kiến tánh, nhưng cứ quyết chí cầu sanh Tây Phương. Trong kiếp xưa, Phật từng phát đại thệ nguyện nhiếp thọ chúng sanh như mẹ nhớ con. Nếu chúng sanh thật sự như con nhớ mẹ, chí thành niệm Phật thì cảm ứng đạo giao, liền được Phật tiếp thọ. Kẻ tận lực tu Ðịnh Huệ được vãng sanh đã đành mà kẻ ngũ nghịch, thập ác lúc lâm chung bị sự khổ bức bách, phát tâm tàm quý lớn lao, xưng niệm Phật danh hoặc mười tiếng hoặc chỉ một tiếng rồi liền mạng chung, cũng đều được hóa thân của Phật tiếp dẫn vãng sanh. Ðấy chẳng phải là “vạn tu, vạn người sanh” hay sao? 

Tuy kẻ ấy niệm Phật chẳng bao lâu, nhưng do niệm Phật cực kỳ mãnh liệt nên đạt hiệu quả nhanh chóng như thế đó, chớ nên đem người niệm Phật hờ hững, lững lờ để so sánh dễ, khó! Ðã sanh về Tây Phương, gặp Phật nghe pháp, tuy có nhanh, chậm bất đồng, nhưng đều cao đăng dòng Thánh, vĩnh viễn chẳng thối đọa. Tùy theo căn tánh sâu hay cạn sẽ hoặc dần dà hoặc nhanh chóng, chứng đạt các quả vị thì chuyện khai ngộ cần gì phải nói nữa, bởi thế mới bảo: “Nếu được thấy Di Ðà, lo gì chẳng khai ngộ”. 

Bài kệ thứ ba là: “Có Thiền, không Tịnh Ðộ, mười người, chín chần chừ. Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. Do người ấy tuy triệt ngộ Thiền Tông, minh tâm kiến tánh, nhưng Kiến, Tư phiền não chẳng dễ đoạn trừ, cần phải qua bao duyên đào luyện khiến đoạn trừ sạch không còn sót; sau đấy, phần đoạn sanh tử mới có thể xuất ly. Còn như kẻ chưa đoạn được mảy may nào ta chẳng cần bàn đến. 

Tức là kẻ đoạn cho đến còn sót chút mảy may phiền não chưa thể đoạn sạch hết thì luân hồi sáu nẻo vẫn y như cũ, khó bề trốn tránh. Biển sanh tử sâu thăm thẳm, đường Bồ Ðề xa vời vợi, còn chưa về được nhà thì khi mạng chung, trong mười người đại ngộ, tám chín người đã giống như thế. Vì thế, mới nói: “Mười người, chín chần chừ”. Chữ “ta lộ” ở đây nghĩa là “ta đà” tức là như lời tục thường nói là “chần chừ”. 

“Ấm cảnh” tức là lúc lâm chung, các cảnh tượng do nghiệp lực thiện, ác trong đời này và bao kiếp trước cùng hiện ra. Khi cảnh này hiện ra, chỉ trong nháy mắt, sẽ theo nghiệp lực thiện hay ác nào mạnh nhất đi thọ sanh trong đường thiện hay ác, chẳng thể tự chủ được mảy may, giống như người mắc nợ, chủ nợ nào mạnh nhất sẽ lôi đi trước. Tâm tình lắm mối, sẽ nghiêng lệch về chỗ nào tâm mình đặt nặng. Ngũ Tổ Diễn Giới tái sanh làm Tô Ðông Pha, Thảo Ðường Thanh lại sanh làm Lỗ Công. Ðấy đều là vì lẽ trên, nên nói: “Ấm cảnh nếu hiện tiền, chớp mắt đi theo nó”. 

Chữ Ấm (bộ Phụ) âm nghĩa giống chữ Ấm (bộ Thảo), có nghĩa là “che đậy”. Do nghiệp lực này ngăn che nên chơn tánh chẳng thể tái hiển hiện. Chữ “miết” (bộ Mục) cùng âm với chữ “miết” (bộ Thủ), nghĩa là “chớp mắt”. Có kẻ cho rằng chữ “ta” nghĩa là lầm lạc, “ấm” là ngũ ấm ma cảnh thì đều là vì chưa hiểu ý nghĩa chữ Thiền và chữ Có nên mới nói nhảm như thế. Lẽ đâu bậc đại ngộ đại triệt trong mười vị, hết tám chín người lầm đường, lạc lối, lầm theo cảnh ngũ ấm ma mà đi, thấy ma phát cuồng ư? Phàm kẻ bị ma dựa phát cuồng thì là hạng tăng thượng mạn chẳng hiểu giáo lý, chẳng rõ tự tâm, tu mù luyện đui mà thôi. Sao chẳng biết tốt xấu, lại gán lý đó cho bậc đại triệt, đại ngộ vậy? Ðiều này quan hệ rất lớn, chẳng thể không biện bác rõ. 

Bài kệ thứ tư là: “Không Thiền, không Tịnh Ðộ, giường sắt cùng cột đồng, muôn kiếp với ngàn đời, không một ai nương dựa”. Có người bảo “không Thiền, không Tịnh Ðộ” chính là kẻ vùi đầu tạo ác nghiệp, chẳng tu thiện pháp. Ðây cũng là điều lầm lẫn lớn bởi pháp môn vô lượng, nhưng chỉ có Thiền và Tịnh là phù hợp căn cơ nhất. Nếu ai đã chưa triệt ngộ, lại chẳng cầu sanh cứ hời hợt, hờ hững tu các pháp môn khác thì chẳng thể giữ cho Ðịnh, Huệ quân bình, đoạn hoặc, chứng chơn. Lại chẳng có duyên cậy vào Phật lực để đới nghiệp vãng sanh, do công đức cả một đời tu trì sẽ cảm lấy nhân thiên phước báo trong đời sau. Hiện tại đã không có chánh trí, đời sau ắt sẽ bị phước chuyển, đắm say theo đuổi ngũ dục, tạo đủ các nghiệp ác

Ðã tạo nghiệp ác sẽ khó tránh khỏi ác báo. Một hơi thở hít không vào nữa liền đọa địa ngục, rõ ràngtrải qua kiếp dài lâu, nằm lăn giường sắt, ôm ấp cột đồng để đền trả các món ác nghiệp tham thanh sắc, giết sanh mạng v.v… Chư Phật, Bồ Tát tuy rủ lòng từ mẫn, nhưng bị ác nghiệp chướng ngăn nên cũng chẳng được lợi ích gì. Thiền sư Triệt Lưu đời Thanh bảo: “Người tu hành nếu khôngchánh tín cầu sanh Tây phương, tu đủ các điều thiện khác thì gọi là oan gia đời thứ ba”, chính là ngụ ý này. Bởi lẽ, đời này tu hành, đời sau hưởng phước; cậy phước làm ác ắt bị đọa lạc. Vui chỉ tạm được trong đời sau, khổ vĩnh viễn suốt kiếp. Giả như nghiệp địa ngục đã tiêu, lại chuyển sanh làm quỷ, súc. Muốn có được thân người càng khó hơn nữa! Bởi thế, đức Thích Ca dùng tay vít chút đất, hỏi ngài A Nan rằng: “Ðất trên tay nhiều hay đất trên đại địa nhiều?” A Nan thưa: “Ðất trên đại địa nhiều”. Phật dạy: “Ðược thân người như đất trên tay; mất thân người như đất trên đại địa”. Câu “vạn kiếp và ngàn đời, không một ai nương dựa” là còn do âm vận bài kệ bó buộc nên chỉ nói thiển cận như vậy thôi. 

Vĩnh Minh thiền sư sợ người đời chẳng hiểu được chơn nghĩa của Thiền - Tịnh, quán sát rõ ràng nên mới làm bài kệ này để giảng rõ. Có thể nói bài kệ này là chiếc bè báu để thoát bến mê, là người dẫn đường lìa đường hiểm, công lao rất lớn. Bởi lẽ, hết thảy pháp môn chuyên cậy vào tự lực, chỉ mỗi pháp môn Tịnh Ðộ kiêm nhờ Phật lực. Hết thảy pháp môn phải tiêu sạch hoặc nghiệp thì mới có thể liễu sanh tử; chỉ riêng mình pháp môn Tịnh Ðộ đới nghiệp vãng sanh, liền dự vào dòng Thánh. Thế nhân chẳng xem xét, coi Tịnh Ðộ là hèn kém, thật đáng than lớn! 

Hiện tại, người ta hay cho là khán thoại đầu là cách tu thích hợp nhất, cứ cho hễ lâm chung được chết an tường thì sẽ được liễu thoát. Nào hay đó chỉ là lời nói mớ của kẻ Chánh Nhãn chưa mở mà thôi. Ở đây, tôi dẫn ra mấy trường hợp làm chứng:

Vào khoảng đời Càn Long - Gia Khánh nhà Thanh, có ba vị Thiền tăng cùng tham thiền với nhau. Chết đi, một vị sanh tại Giang Tô, tên là Bành Uẩn Chương; một vị sanh ở Vân Nam, tên là Hà Quế Thanh; một vị sanh ở Thiểm Tây tên là Trương Phí. Trong ba người, chỉ ông Bành nhớ được chuyện kiếp trước. Sau lên kinh đô thi Hội, gặp hai người kia liền kể chuyện kiếp trước cùng làm Tăng. Hai người kia tuy không nhớ được việc cũ, nhưng vừa thấy ông Bành đã như gặp lại cố nhân, trở thành bạn thân thiết. 

Vào thi Ðình, ông Bành trúng Trạng Nguyên, ông Hà đậu Bảng Nhãn, ông Trương trúng Truyền Lô. Họ Bành sau từng làm Chủ Khảo, Học Ðài, nhưng tham sắc quá, sau chết tại nhà. Họ Hà giữ chức Chế Ðài ở Nam Kinh. Giặc Hồng Dương nổi dậy, chiếm mất Nam Kinh, ông bị vua Thanh bắt tội chết. Ông Trương còn từng thư từ qua lại với vua Hàm Phong, dân Hồi Hồi muốn làm phản bèn giết phăng ông đi. Ba vị này chẳng thể coi là Tăng nhân bình thường, tiếc là chẳng biết cầu sanh Tây Phương, tuy được phước lớn nhưng hai người chẳng được chết yên lành. Ông Bành tham đắm nữ sắc, e trong đời sau chẳng được như đời này! 

Lại nữa, tiên sinh Ngô Ẩn Chi ở Tô Châu, đậu Thám Hoa triều Thanh. Học vấn, tướng mạo, đạo đức đều hay cả. Năm Dân Quốc thứ mười (1921), đi triều bái Phổ Ðà, gặp tôi, tự bảo: “Kiếp trước tôi là một vị hòa thượng ở Vân Nam”. Nhân vì khách đến dâng hương quá đông, chẳng rảnh rỗi nhiều để hỏi tường tận nguyên do. Năm Dân Quốc thứ mười một, tôi qua Dương Châu khắc in sách, đến ở nhà một người đệ tử tại Tô Châu, tôi liền dò hỏi về việc ấy, định bụng: Xưa kia vì chưa rõ nguồn cơn, nay muốn gặp ông ta để đàm luận, nhưng rồi hoàn toàn quên mất. Từ đó, chẳng qua lại với nhau nữa. 

Ðến năm Dân Quốc thứ 19 (1930), tôi bế quan tại chùa Báo Quốc, đến tháng Mười Một, ông ta cùng hai vị Lý Ấn Tuyền, Lý Hiệp Hòa đến thăm, tôi hỏi: “Làm sao ông biết là kiếp trước mình là nhà sư ở Vân Nam?” Y bảo: “Năm hai mươi sáu tuổi, tôi nằm mộng đến một ngôi chùa kia, biết là chùa X. ở huyện X. thuộc tỉnh Vân Nam. Trông thấy hình trạng điện đường, phòng xá, cây cối rất quen, cũng thấy mình làm Tăng. Tỉnh dậy, nhớ rất rõ, ghi chép lại từng điều”. Sau đấy, một người bạn tôi đi làm quan ở Vân Nam (tiên sinh Trương Trọng Nhân còn chưa biết tính danh ông này), đem đối chiếu những lời ông ta chép thì không sai lệch mảy may

Tôi bảo: “Tiên sinh nay đã tám mươi tuổi, không còn được bao ngày nữa, hãy nên khôi phục sự nghiệp hòa thượng kiếp trước, nhất tâm niệm Phật cầu sanh Tây Phương thì mới chẳng phụ công khó tu trì đời trước!” Y đáp: “Niệm Phật có gì là hy kỳ?” Tôi nói: “Niệm Phật tuy chẳng phải là hy hữu, lạ lùng gì nhưng thế gian chẳng có mấy người chịu niệm, khinh là pháp chẳng hy kỳ. Khác nào ăn uống, toàn thế giới không một ai là chẳng phải ăn; đấy là sự chẳng hy kỳ bậc nhất. Thế ra ông có cần phải ăn hay không vậy?” 

Y chẳng đáp được, nhưng vẫn chẳng chịu là đúng, xoay qua hỏi hai ông Lý: “Các vị có niệm không?” Họ đáp: “Niệm chứ!” Y vẫn chẳng chịu lời, trọn không chịu niệm. Ðến tối ngày 30 tháng Chạp, lúc sắp thắp đèn, ông ta qua đời, vừa tròn 80 tuổi. Vị này đời trước tu trì cũng hãn hữu nên đời này mới cảm được công danh, thọ mạng lớn, nhưng đời này chỉ giữ trọn luân thường, nhưng chẳng còn tin vào Phật pháp nữa, há chẳng phải là đáng xót lắm sao? 

Cả bốn vị trên chưa ai chứng đắc, mà dù có sở chứng đi nữa, nhưng nếu chưa đoạn hết phiền hoặc thì vẫn chẳng tự khó xuất ly sanh tử được! Thậm chí như thiền sư Viên Trạch đời Ðường, biết được chuyện quá khứ, vị lai, nhưng vẫn không thoát được, huống hồ là kẻ chỉ được chết an tường lại có thể liễu kết sanh tử nổi sao? 

Cha ông Lý Nguyên đời Ðường, trấn thủ Ðông Ðô bị An Lộc Sơn làm phản, giết chết. Lý Nguyên bèn nguyện chẳng làm quan, biến căn nhà của mình ở Lạc Dương thành chùa Huệ Lâm, thỉnh Viên Trạch làm Hòa Thượng; Lý Nguyên cũng tu hành ngay tại đấy. Qua mấy năm, Lý Nguyên muốn triều bái Nga Mi, mời Viên Trạch cùng đi. Viên Trạch muốn đi theo đường Thiểm Tây, nhưng Lý Nguyện chẳng muốn đến kinh đô nên nhất định theo đường thủy Kinh Châu. Viên Trạch đã tự biết mình chẳng trở về được nên liền dặn dò hậu sự, mỗi mỗi đều rành rẽ; rồi chẳng phản bác về lộ trình nữa, cùng Lý Nguyên ngồi thuyền đi. 

Thuyền bơi đến thượng du Kinh Châu, sắp gần đến Giáp Sơn, thế nước chảy xiết, chưa đến tối đã phải cắm thuyền. Chợt có một người đàn bà mặc quần gấm, kéo nước bên sông. Viên Trạch vừa trông thấy, hai mắt ứa lệ. Lý Nguyên hỏi nguyên do, Viên Trạch đáp: “Ta chẳng chịu đi theo đường này là vì sợ bà ta. Bà ta mang thai đã ba năm, chờ ta sanh làm con. Chẳng thấy bà ta còn có thể trốn lánh, chứ nay đã thấy, không cách nào không làm con bà ta được! Ông nên tụng chú, giúp ta mau sanh. Ðến ngày thứ ba, hãy đến nhà thăm ta. Ta trông thấy ông, cười một tiếng làm tin. Mười hai năm sau, đêm Rằm tháng Tám, đến bên bờ giếng Cát Hồng tại Thiên TrúcHàng Châu gặp ta”. Nói xong, Viên Trạch tọa thoát. Bà nọ liền sanh con. Ngày thứ ba, Lý Nguyên đến thăm, đứa bé liền cười. 

Sau đấy, Lý Nguyên quay về Huệ Lâm, thấy trong quyển kinh đã viết sẵn lời dự ngôn về hậu sự, càng thêm tin Sư Viên Trạch chẳng phải là kẻ thường nhân. Mười hai năm sau, Lý Nguyên đến Hàng Châu. Tới đêm Rằm tháng Tám, ông đến chỗ ước hẹn chờ đợi; chợt thấy bên sông có đứa bé trai chăn trâu, ngồi vắt vẻo trên lưng trâu, dùng roi gõ sừng trâu, xướng: 

Tam sinh thạch thượng cựu tinh hồn, 

Thưởng nguyệt, ngâm phong bất yếu luân. 

Tàm quý cố nhân viễn tương phỏng, 

Thử thân tuy dị tánh thường tồn. 

(Trên đá ba sinh, vẫn nguyên hồn 

Ngâm gió, thưởng trăng lọ phải bàn

Thẹn thấy cố nhân tìm đến gặp

Thân này tuy khác, tánh thường còn). 

Lý Nguyên nghe xong bèn đến chào hỏi. Hàn huyên xong xuôi, đứa bé lại đọc: 

Thân tiền, thân hậu sự mang mang

Dục thoại nhân duyên khủng đoạn tràng 

Ngô, Việt giang sơn du dĩ biến 

Khước hồi yên trạo thượng cù đường 

(Thân trước, thân sau sự vấn vương 

Bàn chuyện nhân duyên luống đoạn trường 

Ngô,Việt giang sơn chơi khắp cả, 

Gác chèo mây khói, ẩn ao chuôm) 

Rồi ruổi trâu đi mất. 

Các vị thử nghĩ xem, Sư đã phân thân đến như thế mà còn chưa thoát được, huống hồ là những kẻ chỉ mới lãnh hội được câu thoại đầu, được chết an lành mà hòng được giải thoát ư? Cậy vào tự lực để thoát sanh tử khó khăn như thế đó; cậy vào Phật lực để thoát sanh tử dễ dàng như thế đó; vậy mà thế nhân vẫn cứ cậy vào tự lực, buông bỏ Phật lực. Họ đúng là những kẻ chưa hiểu rõ lẽ mầu nhiệm, nên mới bị hai câu nói sau đây lung lạc, nghĩa là bị hai câu: “Ta là hạng người bậc thượng, chẳng chịu làm chuyện tầm thường, không hy kỳ” làm chướng ngại kiến giải vậy. 

Xin hết thảy mọi người hãy suy nghĩ chín chắn sự việc của năm người vừa thuật trên rồi tự lợi, lợi tha, sốt sắng tu Tịnh Nghiệp như lo chôn cất cha mẹ, như cứu đầu cháy thì mới khỏi luống uổng đời này và duyên hội ngộ này. 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6176)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7253)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6772)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6187)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5669)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4944)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5354)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6662)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5969)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12016)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5752)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7055)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5509)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5894)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4923)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4465)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8249)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6542)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7409)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5829)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5481)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6422)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6751)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7561)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4893)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4647)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5275)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12656)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9718)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10486)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10352)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9930)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12031)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10166)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10809)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9919)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8794)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9521)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14548)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8787)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9095)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9349)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8820)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10538)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9215)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8377)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9428)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9001)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9597)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9027)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8366)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8962)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8990)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8755)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9388)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9050)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8796)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4099)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9059)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9904)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant