Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

08. Rối loạn liên tục bên trong

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6441)
08. Rối loạn liên tục bên trong

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

8

Rối loạn liên tục bên trong

 lại Ấn độ đến tháng năm, Krishna đi nước Anh cùng Rosalind và Rajagopal. (Mẹ tôi, Betty và tôi đã rời vào cuối tháng giêng khi Helen và Ruth quay lại Sydney.) Dường như tự nhiên Rajagopal lấp chỗ trống của Nitya để làm Thư ký tổ chức của Star. Anh ấy cũng trở thành Thủ quỹ quốc tế của Order, một bổ nhiệm mới. Anh ấy là một người tổ chức bẩm sinh và Krishna chỉ còn cách quá hài lòng khi trao toàn sự quan tâm về tài chánh vào bàn tay hiệu quả của anh ấy.

 Theo sự yêu cầu của anh, Rakagopal sắp xếp một họp mặt ba tuần lễ tại Castle Eerde từ ngày 3 tháng bảy trước trại Ommen năm đó; một giấy mời tham dự được gửi từ West Side House tại Wimbledon cho những người bạn đặc biệt và được yêu cầu đóng góp £2 một tuần lễ cho việc ăn ở. Ba mươi lăm người thuộc nhiều quốc tịch khác nhau đồng ý; Mar de Manziarly, John Cordes, Rosalind, Rajagopal và ba người thuộc gia đình Lutyens trong số họ. Lúc này Castle đã có điện và hệ thống nước phù hợp được lắp đặt bởi Trust (trước kia có đèn dầu và những hầm rút chảy thẳng vào giao thông hào nơi những con cá to nuốt chửng bất kỳ thứ gì trút lên đầu chúng), và những phòng ngủ đã được chuyển thành những phòng ngủ tập thể. Chỉ Krishna có một phòng riêng cho anh. Ba ngày đầu tiên anh nằm trên giường vì bị viêm cuống phổi; sau đó mỗi buổi sáng anh nói với chúng tôi suốt một tiếng đồng hồ trong một phòng khách rộng rãi, ngồi chéo chân trên một cái ghế sofa dưới một bức tranh thêu Gobelin. Lady Emily, Mar và tôi ghi chú trong nhật ký của chúng tôi, khẳng định một cách độc lập sự tin tưởng rằng Chúa nói qua anh nhiều lần.

 Thời tiết rất hoàn hảo và có đủ người cho chúng tôi chơi những trận bóng chuyền hào hứng. Tôi viết trong nhật ký của tôi, ‘Không có gì tuyệt vời trong thế giới này để cảm thấy như người ta cảm thấy ở đây, rất sinh động cả thân thể, tinh thần lẫn cảm xúc. Để có, như Krishna đã nói, cảm giác hạnh phúc đó ở khắp mọi nơi.’ Tôi trở nên rất gần gũi Krishna suốt họp mặt này. Lady Emily ghi lại trong nhật ký của bà rằng tại nói chuyện vào ngày cuối, Krishna ‘đã nói như chưa bao giờ nói trước kia và người ta cảm thấy rằng ý thức của anh và ý thức của Chúa hoàn toàn hòa hợp đến độ không còn sự khác biệt nữa. Anh nói, “Hãy theo Ta và Ta sẽ chỉ cho các bạn lối vào Vương quốc Hạnh phúc. Ta sẽ tặng mỗi người trong các bạn chìa khóa mà các bạn có thể mở cổng vào ngôi vườn”, và mặt của Chúa chiếu sáng rực qua mặt của Krishna.’

 Lúc này hầu hết bạn bè và những người theo Krishna đều gọi anh là Krishnaji – hậu tố ‘ji’ thể hiện sự kính trọng yêu mến; tiếp tục gọi anh là Krishna trong quyển sách này có vẻ quá quen thuộc, Krishnaji quá Ấn độ, và Krishnamurti quá dài; vì vậy trong phần còn lại của quyển sách này anh sẽ được nhắc đến là K, mà anh tự ám chỉ mình.

Khi trại khai mạc vào ngày 24 tháng bảy, nhóm Eerde, ngoại lệ là K vẫn còn ở lại Castle, di chuyển vào những cái lều giữa rừng thông cách đó một dặm. Khoảng 2.000 người*

_____________

* Báo cáo hàng năm của The Order of the Star in the East vào năm 1926 cho tổng số hội viên là 43.000 trong bốn mươi quốc gia. Hai phần ba những người này cũng là hội viên của The Theosophical Society.

tham dự, trại được tổ chức rất tốt. Mrs Besant, khi bà đến Châu âu vào đầu tháng bảy, đi thẳng đến Huinze. Tuy nhiên, bà và Wedgwood tham dự những nói chuyện ở trại nhưng vẫn ở tại Castle. Ngay trung tâm của trại là một giảng đường có bậc được làm bằng những khúc gỗ nơi những họp mặt được tổ chức khi thời tiết tốt, và mỗi tối đều có một lửa trại lúc hoàng hôn. K sẽ thay đổi thành trang phục Ấn độ cho những lửa trại và thắp sáng một kim tự tháp gỗ đốn cao mười lăm feet trong khi hát một bài ca ngợi Agni, thần lửa. Tiếp theo anh sẽ nói chuyện khi ngọn lửa đang bừng bừng cháy.

 Chiều tối ngày 27 Lady Emily, theo nhật ký của bà, biết rằng ngay khi Krishna xuất hiện, Ngài (Chúa) ở đó. Ngài trông thật uy nghi và đầy quyền năng.’ Và Mrs Kirby, một người Ý kết hôn với một chủ ngân hàng người Anh ở Genoa, đã biết K từ năm 1909 tại Adyar và đã ở cùng chúng tôi tại Pergine, viết rằng có một thái độ chững chạc lạ thường trong hình dáng của anh vào chiều tối đó và rằng quyền năng trong giọng nói của anh tiếp tục gia tăng, nghe sâu thẳm hơn và tròn đều hơn cho đến khi Chúa ở đó và Ngài đang nói . . . Khi nói chuyện xong tôi phát giác rằng tôi đang run lập cập từ đầu đến chân.’ Khi Lady gặp anh sáng hôm sau, ‘K trông thật chân tìnhquý mến hơn bao giờ trước kia và khi tôi kể cho K hình dáng của K đã thay đổi biết chừng nào, K nói, “Con ước gì con cũng có thể thấy nó” . . . Krishnaji trông như thể cần nghỉ ngơi nhiều lắm . . . Thật là một cuộc sống, Krishnaji tội nghiệp. Không nghi ngờ gì cả về việc là Hy sinh của K.’26

 Một phần bài nói chuyện của anh vào chiều tối đó được trình bày dưới đây:

 

Tôi muốn yêu cầu bạn đến và nhìn qua cửa sổ của tôi, mà sẽ chỉ cho bạn thiên đàng của tôi, mà sẽ chỉ cho bạn cái vườn của tôi và nơi cư ngụ của tôi. Vậy là bạn sẽ thấy rằng điều gì quan trọng không phải bạn là gì, bạn đọc gì, bất kỳ ai nói bạn là gì hay không là gì, nhưng rằng bạn phải có sự khao khát mãnh liệt để thâm nhập vào nơi cư ngụ đó mà có Chân lý . . . Tôi muốn mời bạn đến và thấy nó, tôi muốn mời bạn đến và cảm giác nó . . . và không nói với tôi: ‘Ồ, anh khác biệt, anh ở trên đỉnh núi, anh là một huyền bí.’ Bạn đưa cho tôi những cụm từ và che đậy Chân lý của tôi bằng những từ ngữ của bạn. Tôi không muốn bạn cắt đứt tất cả mọi điều mà bạn tin tưởng. Tôi không muốn bạn phủ nhận tánh khí của bạn. Tôi không muốn bạn làm những sự việc mà bạn cảm thấy không đúng. Nhưng có bất kỳ ai trong các bạn hạnh phúc không? Bạn, bất kỳ ai trong các bạn, đã hưởng được sự vĩnh hằng? Tôi dành cho tất cả mọi người, dành cho tất cả những người thương yêu thật sự, dành cho tất cả những người đang chịu đựng đau khổ. Và nếu bạn muốn dạo bộ, bạn phải dạo bộ cùng tôi. Nếu bạn muốn hiểu rõ, bạn phải nhìn qua cái trí của tôi. Nếu bạn muốn cảm thấy, bạn phải nhìn qua quả tim của tôi. Và bởi vì tôi thương yêu thật sự, tôi muốn bạn thương yêu. Bởi vì tôi cảm thấy thật sự, tôi muốn bạn cảm thấy. Bởi vì tôi chứa đựng mọi thứ chân tình, tôi muốn bạn chứa đựng mọi thứ chân thật. Bởi vì tôi muốn bảo vệ, bạn nên bảo vệ. Và đây là cuộc sống duy nhất mà xứng đáng để sống, và Hạnh phúc duy nhất mà xứng đáng để hưởng.27

 

Vào cuối nói chuyện Wedgwood được trông thấy đang nghiêng về phía Mrs Besant và thì thầm điều gì đó cho bà. Ngay khi bà và K quay lại Castle, bà bảo với anh rằng đó là một pháp sư của thế lực đen tối đầy quyền năng, người mà bà biết rõ, người mà đã nói qua anh. K, hoàn toàn kinh ngạc, nói rằng nếu bà thật sự nghĩ như thế, anh sẽ không bao giờ nói trước công chúng nữa. Pháp sư của thế lực đen tối không bao giờ được đề cập lại. Tôi tình cờ ngủ lại Castle đêm đó và chính K kể cho tôi về sự kiện này rồi nói, ‘Amma tội nghiệp’. Anh nhận ra rằng cái trí của bà đang thay đổi và rằng bà tin tưởng bất kỳ điều gì Wedgwood nói cho bà. Mrs Besant thực hiện một quyết định đột ngột là theo cùng K đến nước Mỹ nơi bà đã không viếng thăm từ năm 1909. Một chuyến đi giảng thuyết được mau chóng sắp xếp cho bà, và bà khởi hành cùng K, Rajagopal và Rosalind vào ngày 26 tháng tám. Hai mươi phóng viên lên tầu ở New York bị thất vọng khi thấy K mặc một bộ com lê màu xám may rất khéo. Một phóng viên mô tả anh là ‘một cậu trai người Ấn độ trông đẹp đẽ, nhút nhát và bị sợ hãi nhiều.’ K bị bối rối nhiều bởi dòng tít: ‘Sự Tôn sùng Vì sao chờ đợi sự vinh quang của Thượng đế Sắp đến’; ‘Đấng Cứu thế mới trong bộ quần áo quần vợt vải flanen’; ‘Thượng đế mới trong bộ quần chẽn áo thụng quần vợt’, vân vân.

 Bốn mươi phóng viên phỏng vấn riêng một mình K tại The Waldorf – Astoria Hotel ngày hôm sau. Anh ít nhút nhát hơn khi không có Mrs Besant. Tờ New York Times viết lại rằng nhiều người phỏng vấn ‘cố gắng gài bẫy anh bằng những từ ngữ có lời lẽ ranh mãnh; anh khéo léo tránh được tất cả những cạm bẫy và giành được sự khâm phục của họ khi vượt qua bằng sự thắng lợi’. Sau này K thường đề cập rằng vào thời gian này anh được đề nghị $5.000 một tuần bởi một công ty quay phim để đóng vai chính trong phim một cuộc đời của Đức Phật. Điều này gây thú vị cho anh bởi vì nó làm cho anh cảm thấy rằng anh có thể tự kiếm sống được nếu anh muốn.

 Mãi đến ngày 3 tháng mười, sau khi Mrs Besant đã thực hiện xong ba mươi giảng thuyết, K gặp bà ở San Francisco và đã vui mừng khi đưa bà đến Ojai. Anh đang nghỉ ngơi tại Warm Springs, Virginia, cùng Rajagopal. Anh đã đi khỏi Ojai khoảng một năm. Hai ngày sau khi đến đó, anh viết cho Lady Emily: ‘Con ở đây mà không có Nitya . . . Khi con vào phòng nơi em bị bệnh và nơi em ra đi, con sợ thân thể của con khóc. Nó là một vật kỳ lạ, cái thân thể. Thật ra con không đau khổ nhưng thân thể của con ở trong một trạng thái lạ thường . . . Con đang quen thuộc dần với sự vắng mặt thuộc vật chất của em – mà là một việc khó khăn cực kỳ khi thực hiện, bởi vì chúng con đã sống ở đây nhiều hơn bất kỳ nơi nào khác, nơi cả hai chúng con đều đã đau khổ và nơi cả hai chúng con đều đã hạnh phúc.’

 Bởi vì bị sưng tấy rất đau đớn trong ngực (cuối cùng được dịu xuống), hai bác sĩ ở Hollywood cấm K đi Ấn độ mùa đông đó như anh đã lên kế hoạch thực hiện. Mrs Besant quyết định ở lại cùng anh tại Ojai và anh viết cho Lady Emily nài nỉ bà đến đó với anh cùng Betty và tôi. Betty vừa vào học Royal College of Music nên không muốn đi, nhưng mẹ tôi và tôi vui vẻ khởi hành vào cuối tháng mười một và trải qua gần năm tháng như thiên đàng tại Ojai cùng K và Mrs Besant, Rajagopal và Rosalind. K và Mrs Besant chưa bao giờ có một thời gian hạnh phúc, an bình cùng nhau lâu như thế. Anh sáng tác thơ vào thời gian đó. Mỗi chiều tối chúng tôi sẽ dạo bộ để ngắm hoàng hôn mà gây cảm hứng cho anh nhiều đến độ anh thường quay lại để sáng tác một bài thơ.[1] Anh là cái ngã thuộc con người nhiều nhất của anh trong khi chúng tôi ở đó, rất cáu kỉnh với tôi khi anh dạy tôi lái chiếc xe Packard của anh, và sau đó bị điên cuồnglo lắng khi tôi tự lái xe ra ngoài đường để trêu ngươi anh.

 Vào tháng giêng điều gì anh gọi là ‘công việc kinh doanh cũ kỹ’ của sự đau đớn mãnh liệt trong cổ của anh và phần đáy cột xương sống của anh bắt đầu lại, mặc dù lúc này anh có thể chịu đựng nó mà không ‘ra khỏi thân thể’. Chỉ sau khi nó chấm dứt anh mới cần thư giãn và sẽ rời thân thể khoảng một tiếng đồng hồ hay như thế để trở thành một đứa trẻ. Trong việc này, tôi có thể giúp đỡ anh. Khi lần đầu tiên tôi đi đến anh, ‘phần thuộc thân thể’ hỏi tôi rằng tôi là ai và sau đó nói: ‘Ồ, nếu bạn là một người bạn của Krishna và Nitya tôi nghĩ rằng bạn được chấp nhận.’ Nó giống như một đứa trẻ khoảng bốn tuổi đang nói, mà gọi tôi là ‘Amma’. Đứa trẻ dường như rất sợ K và sẽ nói những câu đại loại như, ‘Để ý nhé, K đang quay lại đó.’ Khi K đã quay lại anh tuyệt đối không nhớ gì về những điều đứa trẻ đã nói.

 Vào một ngày khi Lady Emily hỏi anh có ý gì khi anh sử dụng cụm từ tình yêu ích kỷ, anh trả lời: ‘Mọi người đều giống hệt nhau – tất cả họ đều nghĩ rằng họ có quyền đòi hỏi đặc biệt nào đó, con đường đặc biệt nào đó đối với con.’ Điều này tiếp tục suốt sống của anh – người ta luôn luôn đang nghĩ đã sở hữu anh trong cách nào đó, rằng họ hiểu rõ anh hơn bất kỳ ai khác. Thật ra, có bất kỳ ai đã hiểu rõ anh trọn vẹn? Chắc chắn không người nào sở hữu được anh cả.

 Vào ngày 9 tháng hai, anh viết cho Leadbeater: ‘Chắc chắn tôi biết rằng tôi đang hòa hợp vào trạng thái ý thức của Người Thầy duy nhất và rằng Ngài sẽ hoàn toàn tràn ngập trong tôi. Tôi cảm thấy và cũng biết cái tách của tôi gần đầy đến miệng và rằng nó sẽ tràn ra mau thôi. Tôi ao ước làm, và sẽ làm, mọi người hạnh phúc.’

 Chẳng mấy chốc sau khi Mrs Besant đến Ojai bà mua 450 mẫu đất trong vùng cao hơn của thung lũng Ojai cho K xây dựng ngôi trường mà anh quá thiết tha. Tiếp theocố gắng gây quỹ mua thêm 240 mẫu đất ở vùng thấp hơn cho một trại hàng năm giống như tại Ommen. Vẫn vậy một Trust khác được thành lập, Happy Valley Foundation Tổ chức Thung lũng Hạnh phúc và một thỉnh cầu phát động cho $200.000.[2] Cuối cùng tất cả số tiền này đã được quyên góp đủ và mảnh đất được mua, nhưng Happy Valley School đã không được khởi công suốt hai mươi năm.

 Tháng tư trước khi cùng K rời Ojai, Mrs Besant in ra một phát biểu gửi đến The Associated Press of America Hiệp hội Báo chí Mỹ, bắt đầu: ‘Đấng Tinh thần Thiêng liêng đã giáng xuống một lần nữa vào một con người, Krishnamurti, một người mà trong sống của anh thật là hoàn hảo, như những người biết anh có thể chứng nhận,’ và chấm dứt: ‘Thầy Thế giới ở đây.’

Có một họp mặt một tháng tại Castle Eerde trước trại Ommen năm đó. Một trong những cái kho lớn nằm bên sườn lối vào Castle đã được cải tạo thành những phòng nhỏ trên hai tầng vì vậy bây giờ có đủ chỗ cho sáu mươi người. Tuần đầu tiên K lại bị viêm cuống phổi nặng. Thời gian anh bị bệnh, Lady Emily sẽ đọc lớn những bài thơ của anh vào những buổi sáng trong khi anh nằm trên giường đọc Edgar Wallace. Vào ngày 30 tháng sáu anh đủ sức khỏe để xuống nhà và thực hiện những nói chuyện.

 Có nhiều bàn bạc tại họp mặt giữa Lady Emily và Rajagopal về sự tái tổ chức Order. Bởi vì hiện nay quá nhiều người tin rằng Thầy đã đến, những mục đích của Order không còn giá trị nữa. Ngày 28 tháng sáu những mục đích mới được soạn thảo: ‘1. Kéo lại cùng nhau tất cả những người tin tưởng sự hiện diện trong thế giới của Thầy Thế giới. 2. Làm việc cho Ngài trong mọi phương cách vì sự thực hiện của Ngài về lý tưởng cho nhân loại của Ngài. Order không có những giáo điều, những tín điều hay những hệ thống của niềm tin. Cảm hứng của nó là Thầy, mục đích của nó là thể hiện sống vũ trụ của Ngài.’ Tên của Order được thay đổi từ The Order of The Star in The East thành The Order of The Star, và tờ tuần báo Herald of The Star thành  Star Review. Từ nay trở đi, mỗi quốc gia sẽ xuất bản loại tuần báo riêng của nó nhưng ngoài ra, sẽ có một tờ International Star Bulletin, được xuất bản bởi Star Publishing Trust mà đã được thành lập ở Hà lan vào năm 1926 và trong nhiều năm xuất bản những nói chuyện của K.

Chủ đề của K năm nay tại Eerde là Giải thoát trái lại năm ngoái nó đã là Vương quốc Hạnh phúc. Lady Emily ghi chú vài điều anh đã nói:

 

Bạn phải được giải thoát không phải bởi vì tôi nhưng không cần tôi . . . tất cả sống này và đặc biệt trong suốt vài tháng vừa qua tôi đã đấu tranh để được tự dotự do khỏi bạn bè của tôi, những quyển sách của tôi, những liên tưởng của tôi. Bạn phải đấu tranh cho sự tự do giống như thế. Phải có sự rối loạn bên trong. Liên tục cầm một cái gương trước bạn, và nếu có cái gì bạn thấy ở đó mà không xứng đáng với lý tưởng bạn đã tạo ra cho chính bạn, thay đổi nó .. . Bạn không được biến tôi thành một uy quyền. Nếu tôi trở thành một cần thiết cho bạn, bạn sẽ làm gì khi tôi đi khỏi? . . . Vài người trong các bạn nghĩ rằng tôi có thể cho bạn một thức uống mà sẽ làm cho bạn được tự do, rằng tôi có thể tặng bạn một công thức mà sẽ giải thoát bạn – nó không phải như thế. Tôi có thể là cái cửa, nhưng bạn phải xuyên qua cái cửa và tìm ra sự giải thoát mà vượt khỏi nó . . . Chân lý đến giống như một tên ăn trộm – khi bạn ít mong đợi nó nhất. Tôi ao ước tôi có thể sáng tạo một ngôn ngữ mới mẻ nhưng bởi vì tôi không thể, tôi muốn phá hủy những ý niệm và những cách nói cũ kỹ của bạn. Không ai có thể cho bạn sự giải thoát, bạn phải tìm ra nó phía bên trong, nhưng bởi vì tôi đã tìm được nó tôi muốn chỉ cho bạn phương cách . . . Người đã đạt được sự giải thoát đã trở thành Thầy – giống như chính tôi. Nó nằm trong khả năng của mỗi người để thâm nhập vào ngọn lửa, để trở thành ngọn lửa . . . Bởi vì tôi ở đây, nếu bạn muốn ôm chặt tôi trong quả tim của bạn tôi sẽ cho bạn sức mạnh để đạt được . . . Giải thoát không dành cho một ít người, những người được chọn lựa, những người được tuyển lựa.

 

Rốt cuộc triết lý riêng của K đang bắt đầu rõ nét, làm sửng sốt hầu hết những người hiện diện tại họp mặt, đặc biệt những hội viên của The Esoteric Section of the Theosophical Society mà đã quen được chỉ bảo phải làm gì và những bậc nào họ phải thực hiện trên Con Đường. Thật ra, anh đang nói rằng Những Bậc Thầy và tất cả những đạo sư khác đều không cần thiết, rằng mọi người phải tìm ra chân lý cho chính anh ấy. Anh nói nhiều với Lady Emily tại họp mặt về sự ao ước trở thành một khất sĩ. Anh tự nói đây là sự quyến rũ quan trọng cuối cùng mà anh phải kháng cự.

 Arundale, Wedgwood và ngay cả Raja, mà theo cá nhân tận tụy giúp đỡ K, tất cả đang tuyên bố tại thời gian đó từ Huizen, nơi họ đang ở, rằng họ không tin ý thức của K đã được hòa hợp cùng ý thức của Chúa nhưng một bình phong của sự hòa hợp phải được duy trì. Lúc này chính K đã thay đổi thuật ngữ của anh: với anh sự hòa hợp của ý thức đã trở thành ‘hợp nhất cùng Thương yêu’, mà là sự giải thoát.

 Những người lãnh đạo Theosophy cũ đang vô vọng bám vào quyền lực của họ; ảnh hưởng của họ đang bị suy yếu. Điều gì sẽ xảy đến cho uy quyền của họ nếu họ không thể đào tạo những môn đồ theo từng bậc môn đồ và ban phát những bậc trên Con Đường? Làm thế nào họ có thể tiếp tục giảng thuyết về ‘Thầy Thế giới Sắp đến’ nếu Thầy đang đưa ra những câu tuyên bố cách mạng mà gây tác động tại ngay tâm điểm của Esoteric Section?

Năm đó Mrs Besant lại có mặt tại trại nhưng chắc chắn bà cũng đã muốn hiện diện tại họp mặt Eerde. Đúng là K đã khuyên can bà đừng đến, bởi vì bà viết một lá thư cảm động cho anh từ London vào ngày 28 tháng bảy, ba ngày trước khi trại khai mạc:

 

Người con thương yêu của mẹ . . . suốt một thời gian mẹ đã cảm thấy rằng tột đỉnh sẽ xảy ra năm nay tại Eerde và mẹ muốn có mặt ở đó trong thời gian tuyệt vời này nhiều lắm, và không là ai cả nhưng chỉ là một trong những con người riêng của con, đến độ mẹ đang có cảm giác khá buồn bã vì không được có mặt ở đó cùng tất cả những con người may mắn đã nhận được phước lành vô biên đó. Có lẽ mẹ thật dại dột, nhưng mẹ đã quá mong muốn có mặt ở đó. Mẹ không nghĩ rằng con biết mẹ thương yêu con đến chừng nào, con yêu quý, bởi vì mẹ không quanh quẩn bên con và nhặng xị lên. Vì vậy mẹ đã một mình khóc than cho nghiệp chướng của mẹ. Con biết mẹ giống như một con ngỗng, phải không, do bởi mẹ rất muốn có mặt ở đó thay vì chỉ oang oang trước đám đông.28

 

Ngày trước khi trại khai mạc, trước khi Mrs Besant đến, K đưa ra câu trả lời trước công chúng lần đầu tiên của anh cho câu hỏi đang gây rối loạn rất nhiều người: anh tin tưởng hay không tin tưởng những Bậc Thầy và những chức sắc huyền bí? Có lẽ đó là câu phát biểu quan trọng nhất của vị trí riêng của anh mà anh đã từng thực hiện:

 

Khi tôi là một cậu trai nhỏ tôi thường thấy Sri Krishna, ta cầm ống sáo, giống như ông được phác họa bởi những người Ấn độ giáo, bởi vì mẹ tôi là một người tôn thờ Sri Krishna . . . Khi tôi lớn lên và gặp Giám mục Leadbeater và The Theosophical Society, tôi bắt đầu thấy Bậc Thầy K.H. – lại nữa trong hình dạng mà được đặt trước mặt tôi, chân lý từ quan điểm của họ – và kể từ đó Bậc Thầy K.H. sẽ theo tôi đến kết thúc. Tiếp tục sau đó, khi tôi lớn hơn, tôi bắt đầu thấy Chúa Maitreya. Việc đó xảy ra cách đây hai năm và tôi thấy ngài liên tục trong hình dạng được đặt trước mặt tôi . . . Bây giờ vừa mới đây, nó đã là Phật mà tôi đã thấy và nó đã là sự thích thú của tôi lẫn vinh quang của tôi khi ở cùng Ngài. Tôi đã được hỏi tôi có ý gì qua từ ngữ Đấng Thương yêu. Tôi sẽ đưa ra một nghĩa lý, một đánh giá, mà bạn sẽ giải thích theo như bạn thích. Đối với tôi nó là tất cả – nó là Sri Krishna, nó là Bậc Thầy K. H., nó là Chúa Maitreya, nó là Phật, và tuy vậy nó vượt khỏi tất cả những hình dáng này. Liệu có đặt thành vấn đề về cái tên nào bạn đặt cho nó? . . . Điều gì bạn đang bận tâm là liệu có một con người như Thầy Thế Giới mà đã hóa thân Ngài trong thân thể của một người nào đó, Krishnamurti; nhưng trong thế giới không người nào sẽ bận tâm về câu hỏi này. Quả là một điều bất hạnh khi tôi phải giải thích, nhưng tôi phải. Tôi muốn càng mơ hồ bao nhiêu càng tốt, và tôi đã tạo ra nó như thế. Đấng Thương Yêu của tôi là những bầu trời thoáng đãng, bông hoa, mọi con người . . . Cho đến khi tôi có thể nói bằng sự chắc chắn, không có bất kỳ sự kích động quá mức nào, hay sự phóng đại với mục đích để thuyết phục những người khác, rằng tôi là một cùng Đấng Thương Yêu của tôi mà tôi chưa bao giờ nói. Tôi nói về những điều tổng quát mập mờmọi người đều muốn. Tôi không bao giờ nói: tôi là Thầy Thế Giới; nhưng do bởi tôi cảm thấy rằng tôi là một cùng Đấng Thương Yêu của tôi, tôi nói nó, không phải vì mục đích áp đặt uy quyền của tôi lên các bạn, không phải để thuyết phục các bạn về sự quan trọng của tôi, cũng không phải về sự vĩ đại của Thầy Thế Giới, thậm chí cũng không phải về vẻ đẹp của sống, nhưng chỉ vì muốn đánh thức sự khao khát trong những quả tim của các bạn và trong những cái trí riêng của các bạn để tìm ra Chân lý. Nếu tôi nói, và tôi muốn nói, rằng tôi là một cùng Đấng Thương Yêu của tôi, đó là bởi vì tôi cảm thấy và biết nó. Tôi đã tìm được điều gì tôi ao ước, tôi đã trở nên hợp nhất, để cho từ nay trở đi sẽ không có sự tách rời, bởi vì những suy nghĩ của tôi, những ham muốn của tôi, những ao ước của tôi – những cái thuộc cái ngã cá thể, đã bị hủy diệt . . . Tôi giống như đóa hoa mà tặng hương thơm cho không khí buổi sáng. Nó không quan tâm ai đang đi ngang qua . . . Đến lúc này các bạn đã và đang phụ thuộc vào hai Người Bảo Vệ của The Order (Mrs Besant và Leadbeater) để là uy quyền, phụ thuộc vào ai đó để nói cho các bạn Chân lý, trái lại Chân lý ở bên trong các bạn . . . Chẳng tốt lành gì khi hỏi tôi Đấng Thương yêu là ai. Sự giải thíchích lợi gì đâu? Bởi vì các bạn sẽ không hiểu rõ Đấng Thương Yêu cho đến khi nào các bạn có thể thấy Ngài trong mọi động vật, mọi cọng cỏ, trong mọi con người đang chịu đựng đau khổ, trong mọi cá thể.29

 

 Từ Huizen Mrs Besant đến trại cùng Raja và Wedgwood. Mặc dù câu nói chính của bà trong suốt những gặp gỡ là ‘Thầy Thế Giới ở Đây’, bà không thể hòa hợp điều gì K thực sự đang nói với ý tưởng đã tưởng tượng trước của bà về điều gì Chúa sẽ nói. Bà quay lại Huinze vào ngày 15 tháng tám, vậy là bỏ lỡ một nói chuyện mà K tổ chức hai ngày sau cho những công nhân tình nguyện đã điều hành trại. Những câu nói thường được ghi lại bằng tốc ký và được xuất bản nhưng không có ghi lại chính thức nào của nói chuyện này (nó có thể bị ỉm đi vì ích lợi của Mrs Besant). Chúng ta chỉ có một câu từ nó, được ghi lại trong nhật ký của Lady Emily: ‘Bạn không thể giúp đỡ cho đến khi chính bạn vượt khỏi nhu cầu của giúp đỡ.’ Những báo cáo của nói chuyện này được gửi đến Mrs Besant và gây bực bội cho bà nhiều lắm và cũng vậy, như bà nói, gây bực bội cho nhiều người khác. K, đang nghỉ ngơi tại Villars cùng Rajagopal, viết cho bà nói rằng anh không thể nhớ được điều gì anh đã nói. ‘Con e rằng tất cả họ đều không muốn tự suy nghĩ cho chính họ,’ anh thêm vào, ‘Thật quá dễ dàng khi ngồi an nhàn trong những tư tưởng của những người khác . . . Mẹ ơi, hai người chúng ta phải gắn bó cùng nhau và không còn gì quan trọng hơn nữa.’

Nhưng, theo Peter Freeman, MP, Tổng Thư ký The Theosophical Society của Wales: ‘Anh (K) nói với chúng tôi rằng anh chưa bao giờ có thể đọc được một quyển sách của Theosophy trong sống của anh – không thể hiểu ‘biệt ngữ’ của Theosophy và mặc dù anh đã nghe nhiều giảng thuyết của Theosophy, không ai trong số họ đã thuyết phục được anh về hiểu biết Chân lý của họ.’30 Sau Villars, K đi đến Paris nơi anh đã hứa ngồi làm mẫu cho người điêu khắc, Antoine Bourdelle. Bourdelle, lúc đó sáu mươi sáu tuổi, ngay tức khắc bị cuốn hút bởi K. ‘Khi người ta nghe K nói, người ta bị kinh ngạc,’ anh được nêu ra khi ông đang nói – ‘quá thông minh và một con người quá trẻ . . . Krishnamurti là một vị tiên tri vĩ đại và nếu tôi chỉ mới mười lăm tuổi tôi sẽ đi theo anh.’31[3]

K không có mặt khi Rajagopal và Rosalind kết hôn tại một văn phòng đăng ký ở London vào ngày 3 tháng mười, kèm theo một nghi lễ tôn giáo sau đó tại St Mary’s Liberal Catholic Church. Mrs Bessant đại diện họ nhà gái và đưa Rosalind ra. Chính Mrs Besant đã thúc giục hôn nhân này, để cho Rosalind có thể đi cùng K theo đúng phép tắc, mặc dù Rajagopal chắc chắn yêu cô nhiều lắm. Arya Vihara tại Ojai sẽ trở thành nhà của họ. K không nhớ anh nghĩ gì về hôn nhân đó. Nhìn chung những cảm giác về hôn nhân của anh bây giờ đã thay đổi, tuy nhiên anh không còn nghĩ nó là một bi kịch nữa.

[1] Bài thơ đầu tiên của anh, ‘Hymn of the Initiate triumphant’ ‘Ca ngợi chiến thắng Khai tâm’, đã được xuất bản trong tờ Herald tháng giêng 1923. Vào khoảng 60 bài thơ khác của anh, cả trong tờ Herald lẫn trong hình thức sách, đến năm 1931, khi anh ngừng sáng tác thơ.

 

[2] Mrs Besant viết trong tờ Theosophist tháng Tư khi đưa ra thỉnh cầu này: ‘Tôi đang mạo hiểm vào dự án mới mẻ này một danh tiếng được đặt nền tảng trên năm mươi ba năm làm việc cho công chúng và tất cả tương lai tài chánh của tôi.’

 

[3]Bức tượng bán thân của K do Bourdelle điêu khắc, được đánh giá là một trong số những tác phẩm đẹp nhất của ông, hiện nay được trưng bày trong The Bourdelle Museum ở Paris.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14696)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46183)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21054)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23409)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18916)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15411)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46674)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15304)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42602)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13104)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33221)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51244)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6605)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13117)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29336)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34387)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23600)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30377)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30034)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32670)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10562)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58620)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14193)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11373)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 30984)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25286)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22776)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33149)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17667)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42133)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45689)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32070)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11300)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27350)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17765)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12237)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29128)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28258)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22752)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17327)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11882)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34701)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26318)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29085)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13181)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28931)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18749)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46368)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13810)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29989)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22815)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12523)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37262)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36931)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant