Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

07. Một ước mơ cũ là chết rồi

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 6636)
07. Một ước mơ cũ là chết rồi

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

7

Một ước mơ cũ là chết rồi

C

hồng của Lady Emily phản đối mạnh mẽ kế hoạch Sydney khi ông nghe về nó, nhưng khi Miss Dodge đề nghị trả tiền vé khứ hồi cho Lady và bốn cô gái, ông không thể ngăn cản được việc đó vì có thể sẽ bị đổ vỡ hôn nhân. Không hiểu Krishna có nhận thức được sự phản đối của ông không bởi vì, mặc dù anh chống lại sự hôn nhân cho những môn đồ tương lai, anh không là một người phá vỡ gia đình.

 Krishna và Nitya, cùng Lady Emily và bốn cô gái, khởi hành đi Bombay từ Venice vào ngày 2 tháng mười một. (Rajagopal đã quay lại Cambridge để học năm cuối cùng). Vào ngày cuối của chuyến hành trình Nitya bỗng nhiên ho ra máu. Vì người em yêu quý này mười hai tháng kế tiếp sẽ là những tháng ngày lo âu rất nhiều cho Krishna.

 Chúng tôi sẽ ở lại Ấn độ, đầu tiên tại Adyar, sau đó Delhi, trước khi tiếp tục đến Sydney vào năm sau. Chẳng mấy chốc sau khi đến Adyar, nơi chúng tôi gặp lại Madame de Manziarly, Mar và Jo, ‘cái tiến trình’ của Krishna bắt đầu lại không có sự giúp đỡ từ Helen mà, cùng Ruth, đã đi thẳng đến Sydney. Anh cũng không có bất kỳ sự giúp đỡ nào từ Nitya lúc này bị bệnh nặng lại và đã đi thẳng đến Ootacamund cùng Madame de Manziarly. ‘Con nghĩ tất cả sẽ kết thúc vào ngày nào đó,’ từ Adyar vào tháng giêng Krishna viết cho Mrs Besant, đang ở Delhi, ‘nhưng hiện nay nó khủng khiếp lắm. Con không thể làm bất kỳ việc gì cả vân vân. Lúc này nó tiếp tục suốt ngày và suốt đêm.’ Nhưng nó không mạnh mẽ như trước kia. Ngay trước khi viết lá thư này, Krishna đã đến Madanapalle, nơi sanh của anh, để tìm kiếm một khu vực cho một trường đại học mà anh đang ao ước xây dựng. Anh tìm được một nơi đẹp ở Tettu Valley khoảng mười dặm từ thị trấn và cao 2.500 feet trên mực nước biển trung bình. Năm sau anh đã có thể thành lập một Trust để mua 300 mẫu đất ở đó. Anh đặt lại tên nó là Rishy Valley lấy từ tên hòn núi Rishi Conda mà bao quát nó, và ở đó một trường học, không phải trường đại học, được thành lập. Nó là trường đầu tiên trong tất cả tám trường mà Krishna đã thành lập.

Hai anh em được mời tham dự Hội nghị Theosophy ở Sydney vào tháng tư vì vậy họ đi đến đó cùng gia đình Lutyens. Raja đi cùng họ để chăm sóc Nitya vẫn còn bị bệnh rất nặng. Một chuyên gia ở Sydney thông báo rằng em sẽ cần tất cả nghị lực để qua khỏi căn bệnh và phải rời thành phố ngay lập tức, vì vậy em đi thẳng tới Leura ở Blue Mountains nơi một cabin bằng gỗ được dành riêng cho em. Rosalind vẫn còn ở Sidney theo cùng em như y tá, và một vú nuôi đã lập gia đình. Krishna phân chia thời gian của anh giữa Leura và Sydney. Mặc dù anh đã làm tất cả mọi việc có thể được để đưa các cô gái đến Sydney, chắc chắn rằng anh rất ghét bầu không khí nhà thờ ở đó và không được đón chào bởi Leadbeater mà nhận thấy anh tạo ra một ảnh hưởng gây chia rẽ. Anh thường cười toe toét và nháy mắt cho chúng tôi qua cửa sổ khi chúng tôi ngồi trong một căn phòng ngột ngạt, cố gắng tham thiền cùng những hội viên khác của cộng đồng lớn tại Manor, trong vùng ngoại ô của Mosman.20 Anh không chịu nổi sự quan tâm háo hức của mọi người về việc nhận được từng bước một trên Con Đường khi được ban phát nhỏ giọt bởi Leadbeater và dẫn đến sự ganh ghét lẫn kênh kiệu. Khi so sánh với Krishna, mọi người tại Manor dường như thô tục và tầm thường. Anh cố gắng nói chuyện với Leadbeater về ‘cái tiến trình’ nhưng ông không đưa ra một ý kiến ích lợi nào; nó hoàn toàn ngoài khả năng hiểu biết của ông và chắc chắn không là một chuẩn bị cần thiết cho những chặng đường khai tâm.

Nhiều đất đai đã được trao tặng Krishna cho công việc của anh tại nhiều vùng ở Úc, và một giảng đường tròn rộng lớn có từng bậc bằng đá trắng vừa được xây dựng trên một vùng hoành tráng tại bờ của hải cảng Balmoral, gần Manor, nơi người ta chờ đợi Chúa sẽ giảng thuyế khi anh đến. Nơi này và đất đai được quản lý bởi những Trust khác nhau theo thỉnh cầu của Krishna.

Vào tháng sáu bác sĩ nhận xét Nitya đã có đủ sức khỏe để đi. Khi hai anh em xuống tàu đi San Francisco vào ngày 24 tháng sáu, cùng Rosalind và một bác sĩ người Thụy điển của Theosophy, tôi cảm thấy rằng Ánh sáng đã vĩnh viễn rời khỏi tôi. Mẹ tôi, người được cho là đã vượt qua bậc khai tâm thứ nhất của bà ở Sydney, đã trở lại nước Anh, để lại Helen, Ruth, Betty và tôi tại Manor.

Đó là một chuyến đi sợ hãi khi Nitya mỗi lúc một yếu đi. Cuối chuyến đi Krishna viết cho Mrs Besant; ‘Chúng con sẽ vượt qua được và Nitya sẽ khỏe lại thôi. Nó đã là và là một thời gian lo âu nhất, mẹ kính mến riêng của con, nhưng mẹ và những Bậc Thầy ở đó.’ Chỉ sau mười lăm ngày ở Ojai để thực hiện sự điều trị hàng ngày theo phương pháp Abrams, bệnh trạng của Nitya đã đỡ hơn nhiều. Tuy nhiên, sự thuyên giảm tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi, và trong ba tháng kế tiếp tất cả những năng lượng của Krishna được dồn hết cho việc săn sóc Nitya vì em bị nặng quá không thể ra khỏi giường được. Krishna chắc phải tuyệt vọng lắm nếu anh không nhận được sự bảo đảm bởi cả Mrs Besant lẫn Leadbeater rằng những Bậc Thầy sẽ không cho phép Nitya chết; cuộc sống của em quá giá trị.

Trong thời gian đó Mrs Besant đã đi cùng Shiva Rao đến nước Anh để giảng thuyết tại Queen’s Hall. George Adrundale, người đã thực hiện một chuyến đi giảng thuyết khắp thế giới cùng người vợ của ông, Rukmini, đang ở tại một cộng đồng Theosophy tại Huizen, Hà lan, không xa Castle Eerde, được quản lý bởi một giám mục Theosophy của Giáo hội Thiên chúa giáo Tự do, James Ingall Wedgwood. Một người Na uy trẻ tuổi được gọi là Oscar Kollerstrom, một môn đồ cũ của Leadbeater ở Sydney và một linh mục trong Giáo Hội Thiên chúa giáo Tự do, cũng có mặt tại Huizen. Arundale gửi điện báo cho Mrs Besant ở London để nói rằng những sự việc kinh ngạc đang xảy ra: Oscar vừa nhận được bậc khai tâm lần thứ ba của ông, Wedgwood lần thứ hai của ông và Rukmini lần thứ nhất của bà; kundalini vừa được đánh thức trong Wedgwood và Rukmini. (Arundale đã là một người khai tâm lần thứ hai rồi và cả ông lẫn Rukmini đều khẳng định có khả năng siêu nhiên. Sau một điện báo lý thú khác, Mrs Besant hủy bỏ những buổi giảng thuyết tại Queen’s Hall của bà và đi đến Huizen, được theo cùng bởi Esther Bright, Lady Emily, Shiva Rao và Rajagopal.

Hai ngày sau khi Mrs Besant đến, vào ngày 26 tháng bảy, Arundale được phong chức linh mục, Miss Bright, Lady Emily và Rajagopal được nói đã nhận được bậc khai tâm thứ hai của họ và vào buổi tối ngày 1 tháng tám Arundale và Wedgwood nhận được bậc khai tâm thứ ba của họ và Rukmini thứ hai của bà. Ngày 4 Arundale được tôn phong chức giám mục. Sự chấp thuận của Leadbeater cho bậc này đã được thỉnh cầu bằng điện báo; khi không có trả lời, Arundale khẳng định rằng ông đã nhận được sự chấp thuận nồng nhiệt của Leadbeater trên mức độ tinh thần. Khi họ từ buổi lễ quay lại, Mrs Besant tìm được một điện báo từ Leadbeater phản đối mạnh mẽ những bậc này. Không một việc xảy ra nào ở Huizen được phê chuẩn bởi Leadbeater.

Arundale tiếp tục ‘mang qua’ những chỉ thị của các Bậc Thầy: không người khai tâm nào sẽ ở chung phòng cùng người không-khai tâm; quần áo bên trong bằng lụa phải được mặc bởi tất cả những linh mục Thiên chúa giáo Tự do (việc này rất khó khăn cho những người nghèo, Lady Emily lưu ý); những áo lễ sẽ được chọn lựa cẩn thận nhưng không được đội mũ (lần đầu tiên Miss Dodge bị choáng váng khi cô được yêu cầu phải mua những quần áo lễ lộng lẫy cho những giám mục; Mrs Besant, Wedgwood và gia đình Arundale phải từ bỏ ăn trứng trong bất kỳ hình thức nào. (Theo Lady Emily, Mrs Besant là người duy nhất tôn trọng triệt để chỉ thị này, với kết cục là bà bị lưng lửng đói từ đó trở đi.)

Vào đêm 7 tháng tám Krishna (tại Ojai), Raja (ở Ấn độ), Arundale và Wedgwood được nói bởi Arundale là đã nhận được bậc khai tâm lần thứ tư hay đắc quả A la hán của họ, và hai đêm sau Arundale ‘mang qua’ danh sách của mười người thuộc điều gì ông nói sẽ là mười hai môn đồ của Chúa. Đây là Mrs Besant, Leadbeater, Raja, Arundale, Wedgwood, Rukmini, Nitya, Lady Emily, Rajagopal và Oscard Kollerstrom. Krishna đã không được nói đến nhưng chắc chắn rằng anh sẽ biết tất cả về điều đó trên thế giới tâm linh.

Trong chủ đề tháng sáu của tờ Herald, Arundale đã tuyên bố rằng Krishna sẽ không tham dự trại Ommen năm đó bởi vì sức khỏe của Nitya nhưng Mrs Besant và ông sẽ ở đó và ông hy vọng mọi người sẽ nghĩ đó là một bổn phận phải tham dự. Vì vậy, đã có vài lần hủy bỏ, và vào ngày 10 tháng tám nhóm Huizen di chuyển đến Ommen nơi trại và Đại hội được khai mạc chiều hôm đó (Mrs Besant ở trong The Castle). Tại một cuộc nói chuyện vào ngày hôm sau, Mrs Besant tuyên bố công khai rằng Chúa đã chọn xong những môn đồ của Ngài nhưng bà chỉ được cho phép công bố danh tính của bảy người trong số họ, những người đã trở thành A la hán rồi – bà và Leadbeater, Raja, Arundale, Krishna, Oscar Kollerstrom và Rukmini mà, bà cam đoan, sẽ trở thành một A la hán trong vài ngày nữa21. Chỉ sau khi tuyên bố như thế bà mới nhận ra rằng bà quên bẵng Wedgwood và nêu danh Krishna như một trong những môn đồ riêng của Ngài. Bà đính chính những sai lầm này trong một cuộc nói chuyện trước công chúng khác vào ngày 14. Trại bế mạc ngày hôm đó và nhóm người Huizen trở lại đó. Arundale liên tục nói đầy hào hứng, ‘Tôi biết điều gì khác nữa đã xảy ra nhưng điều đó dường như không thể tin được.’ Sáng hôm sau Mrs Besant mời Esther Bright, Lady Emily, Rukmini và Shiva Rao vào phòng của bà và rụt rè nói với họ rằng bà, Leadbeater, Krishna, Raja, Arundale, Wedgwood và Oscar tất cả đều đã nhận được bậc khai tâm cuối cùng và thứ năm của họ vào đêm ngày 13 nhưng nó sẽ chẳng tạo ra sự khác biệt gì với cách họ sẽ được đối xử.

Lady Emily bị nhiễm sự kích động của thời gian đó tại Huizen và đã viết cho Krishna rất phấn khởi về nó. Anh đánh điện lại, hỏi Lady liệu Leadbeater đã khẳng định tất cả những điều xảy ra này. Lady đánh điện trả lời rằng chính Mrs Besant đã tuyên bố, thêm vào, ‘Hãy tin tưởng nơi bà.’ Khi Lady Emily quay lại London, bà nhận được một lá thư rất buồn đầy hoài nghi từ Krishna. Do sự thỉnh cầu của anh, bà tiêu hủy tất cả những lá thư của anh viết cho bà vào thời gian điên loạn này; anh sợ nó có lẽ rơi vào những bàn tay khác và gây tổn thương Mrs Besant mà đang viết cho anh để yêu cầu anh khẳng định tất cả mọi điều Arundale đã ‘mang qua’. Không muốn gây tổn thương bà, anh chỉ trả lời rằng anh quá bận rộn săn sóc Nitya nên không biết bất kỳ điều gì về nó. Tiếp theo chẳng bao lâu, anh xin phép liệu Rajagopal có thể được gửi tới Ojai để phụ giúp săn sóc Nitya. Sự thỉnh cầu này được chấp thuận và Rajagopal đã rời đó để đến nước Mỹ trước khi trại khai mạc.

Mrs Besant rất muốn Krishna theo cùng bà đến Ấn độ mùa đông đó để tham dự Hội nghị tại Adyar kỷ niệm lần thứ năm mươi ngày thành lập Theosophical Society. Anh không muốn rời Nitya nhưng khi, vào cuối tháng mười một, Nitya có vẻ khỏe hơn và Madame de Manziarly đề nghị sẽ đến thăm Nitya để săn sóc em, Krishna miễn cưỡng đến nước Anh, cùng Rosalind và Rajagopal, để làm vui lòng Mrs Besant. Lady Emily nói chuyện rất lâu với Krishna ngay khi anh đến và nhận thấy anh buồn rất nhiều về tất cả những chuyện xảy ra tại Huizen và Ommen. Cái gì đó đối với anh là đẹp đẽ, riêng tư, thiêng liêng đã bị biến thành xấu xa, thô tục và diễu cợt trước công chúng. Lady Emily hỏi anh tại sao anh đã không nói cho Mrs Besant điều gì anh cảm thấy. Anh trả lời, có tốt lành gì đâu? Họ sẽ chỉ trả lời rằng những Thế lực Đen tối đã nắm được anh. Luôn luôn như vậy, anh đã nhiều lần cố gắng nói với bà nhưng bà dường như không đánh giá đúng mức. Lady Emily cảm thấy rằng Mrs Besant đã bị thôi miên bởi Arundale và chính Lady đã rất nhẹ dạ khi cả tin.

Nhóm người khởi hành từ Naples đi Colombo vào ngày 8 tháng mười một gồm có Mrs Besant, Krishna, Lady Emily, Rosalind, Rajagopal, Shiva Rao, Wedgwood, Arundale, và Rukmini. Hai giám mục, đi quanh Naples trong chiếc áo thầy tu dài màu đỏ nói với Krishna rằng cuộc sống của Nitya có thể cứu được nếu anh công nhận họ như Adepts những người thông thái và là những môn đồ đã được chọn của anh. Krishna sẽ không làm việc đó và cố gắng tránh nói chuyện với họ. Shiva tin rằng không một giây phút nào Krishna không tin tưởng vào quyền năng của những Bậc Thầy sẽ cứu thoát Nitya. Ngay khi họ đang vào kênh Suez, vào đêm ngày 13, một điện báo được phát cho Mrs Besant tuyên bố cái chết của Nitya. Theo Shiva Rao, người đang ở cùng một cabin với Krishna, mười ngày kế tiếp đầy bi thảm. Vào buổi tối Krishna thường khóc sụt sùi, rên rỉ và gào thét vì thương nhớ Nitya, thỉnh thoảng trong tiếng Telegan bản xứ của anh mà, trong khi tỉnh táo, anh không thể nói. Tuy nhiên, trước thời gian họ đến Colombo anh đã chuyển sự thương nhớ thành điều gì hầu như là một phước lành và đã viết một bài về Nitya được xuất bản trong những bài của anh cho tờ Herald tháng giêng năm 1926:

 

Những giấc mộng vui vẻ em tôi và tôi đã trải qua thuộc vật chất hết rồi . . . Chúng tôi đã có những giây phút tuyệt vời trong cuộc sống mặc dù tính nết của chúng tôi khác biệt nhiều. Trong chừng mực nào đó chúng tôi đã hiểu rõ lẫn nhau mà chẳng cần nỗ lực nào . . . Nó đã là một cuộc sống hạnh phúc và tôi sẽ nhớ em phần thân thể suốt cuộc sống này.

Một giấc mộng cũ đã chết rồi và một giấc mộng mới đang được sinh ra, như một bông hoa trồi lên mặt đất cứng . . . Một sức mạnh mới được sinh ra bởi đau khổ đang rung động trong những mạch máu và một thương cảm và hiểu biết mới đang được sinh ra từ sự đau khổ quá khứ. Một khao khát nhiều hơn để thấy những người khác trải qua đau khổ ít hơn và, nếu họ phải trải qua đau khổ, thấy rằng họ chịu đựng nó đầy cao thượng và ra khỏi nó mà không lưu lại quá nhiều dấu vết. Tôi đã khóc nhưng tôi muốn những người khác sẽ không khóc nhưng nếu họ khóc tôi biết điều đó có nghĩa gì . . . Trên mức độ vật chất chúng ta có thể tách rời và bây giờ chúng ta không thể tách rời . . . Là Krishnamurti bây giờ tôi có nhiệt huyết nhiều hơn, trung thành nhiều hơn, thông cảm nhiều hơn và tình yêu nhiều hơn bởi vì trong tôi cũng có thân thể, Thân tâm, của Nityananda . . . Lúc này tôi biết, bằng sự chắc chắn nhiều hơn bao giờ trước kia, rằng có vẻ đẹp thực sự trong sống, hạnh phúc thực sự mà không thể bị phân tán bởi bất kỳ điều xảy ra thuộc vật chất nào, một sức mạnh vô cùng mà không thể bị suy yếu bởi bất kỳ biến cố thoáng qua nào, và một tình yêu vô hạn mà là vĩnh cửu, bất diệt và không thể chinh phục được.

 

Cái chết của Nitya tạo ra một sửng sốt khủng khiếp cho Mrs Besant, mặc dù nó không làm suy yếu sự trung thành của bà, trái lại từ thời điểm đó trở đi dường như Krishna mất đi mọi tin tưởng trong những Bậc Thầy được giới thiệu bởi Leadbeater, mặc dù anh vẫn tin tưởng Chúa Maitreya và vai trò riêng của anh như là phương tiện. Arundale và Wedgwood phát biểu chắc chắn rằng Nitya đã chết bởi vì Krishna đã từ chối công nhận họ.

 Leadbeater cùng một nhóm bảy mươi người, gồm cả Helen, Ruth, Betty và tôi, đến Colombo vài ngày sau. Chúng tôi đã nghe về cái chết của Nitya tại Melbourne. Mrs Besant, Krishna và những người khác, đã đến Adyar rồi, quay lại Colombo để gặp chúng tôi. Lời chào hỏi của Leadbeater với Krishna là: ‘Ít nhất bạn là một A la hán.’

 Sau khi cắt ngang để đến Ấn độ, có một chuyến xe lửa đặc biệt đi Madras cho toàn nhóm người, cùng những đám đông, những vòng hoa, những phủ phục thân thể tại mỗi nhà ga. Krishna, mà biết rằng tôi thương yêu say đắm Nitya, ngồi bên cạnh tôi trong xe lửa. ‘Krishna rất thú vị,’ tôi viết trong nhật ký của tôi, ‘và kể cho tôi về Nitya. Bây giờ họ mãi mãi ở cùng nhau. Chính Krishna tuyệt vời nhiều hơn, và dịu dàng nhiều hơn.’

Tình huống tại Adyar đau khổ nhiều lắm. Ruth thổ lộ rằng Leadbeater không tin bất kỳ những nhập môn nào được tuyên bố ở Huizen. Vì vậy, có hai phe – phe Arundale- Wedgwood và phe Leadbeater, với Krishna và những người theo anh đứng tách biệt cả hai, và Mrs Besant, người không mất tình yêu và sự tôn trọng của bà đối với Krishna, cố gắng hòa giải tất cả họ. Vào một buổi sáng, bà đi thẳng vào phòng của Krishna, cầm tay anh và dắt anh xuống phòng khách riêng của bà nơi Leadbeater, Raja, Arundale, và Wedgwood đang tụ họp và, đặt anh ngồi trên ghế sofa giữa bà và Leadbeater, hỏi anh liệu anh có chấp thuận họ như những môn đồ của anh. Anh trả lời rằng anh sẽ không chấp thuận bất kỳ ai trong số họ ngoại trừ có lẽ chính Mrs Besant. (Ký ức của biến cố này là một trong rất ít biến cố mà Krishna còn nhớ lại trong phần còn lại của cuộc đời anh, bởi vì chẳng bao lâu sau anh sẽ mất một cách thực tế tất cả những hồi tưởng của quá khứ.)

Đại hội của Star theo sau Hội nghị của Theosophy vào ngày 20 tháng mười hai. Tại họp mặt Star đầu tiên, dưới cây bồ đề lúc 8 giờ sáng, cùng trên 3.000 người hiện diện, khi gần kết thúc một nói chuyện về Thầy Thế Giới, anh đột nhiên thay đổi. Anh đã và đang nói: ‘Ngài đến chỉ cho những người mà mong muốn, mà thiết tha, mà ao ước’, và khi vẻ mặt của anh thay đổi và giọng nói của anh sang sảng như tiếng chuông bằng một uy quyền lạ thường: ‘Và Ta đến cho những người mà mong muốn sự thông cảm, mà mong muốn hạnh phúc, mà ao ước được giải thoát. Ta đến để thay đổi, không phải để phá nát, Ta đến không phải để hủy diệt nhưng để xây dựng.’22

Nó là một khoảnh khắc kích động cho những người như chúng tôinhận thấy sự thay đổi. (Wedgwood và Arundale nói họ nghĩ rằng anh chỉ đang trích dẫn kinh thánh.) Chắc chắn Mrs Besant nhận thấy nó. Tại cuộc họp mặt cuối cùng của Đại hội Star bà sẽ nói: ‘ . . . sự kiện đó (của ngày 28 tháng mười hai) đánh dấu sự tôn phong rõ ràng của phương tiện đã được chọn . . . sự chấp nhận cuối cùng của thân thể đã được chọn từ lâu rồi . . . Sắp đến đã bắt đầu.’ Và trong chủ đề tháng giêng của tờ Theosophist, bà viết ‘Không có sự kích động, không có sự xôn xao, ngay cả vào ngày 28 tháng mười hai khi Brother Krishna Người Em Krishna của chúng ta đang kết luận câu nói của em, câu nói của em được chen vào bởi Chúa của chúng ta Thầy Thế giới, người mà chiếm hữu thân thể của em và nói một vài câu.’ Leadbeater cũng chắc chắn như thế. Sau khi ông quay lại Sydney ông phát biểu rằng không có ‘một chút nghi ngờ’ về việc ‘Ngài’ đã sử dụng ‘Phương tiện nhiều hơn một lần’ tại Hội nghị Jubilee.23

Chính Krishna cũng chẳng nghi ngờ gì cả. Tại một nói chuyện với những Đại biểu quốc gia của The Order of The Star tại Adyar, anh nói: ‘Kỷ niệm của ngày 28 phải dành cho các bạn như thể các bạn đang giữ gìn viên ngọc quý giá nào đó và mỗi lần các bạn nhìn nó các bạn phải cảm thấy một xúc động. Vậy là khi Ngài đến lại, và tôi chắc chắn rằng Ngài sẽ đến lại rất mau, nó sẽ dành cho các bạn một con người cao cả và còn là sự kiện đẹp đẽ hơn ngay cả lần vừa rồi.’24 Và tại một gặp gỡ của những học sinh anh nói: ‘Tôi, theo cá thể, cảm thấy hoàn toàn khác biệt sau ngày hôm đó . . . giống như một bình hoa bằng pha lê, một cái lọ đã được tẩy rửa và bây giờ bất kỳ ai trong thế giới có thể đặt một đóa hoa đẹp trong nó và đóa hoa đó sẽ sống trong cái bình và không bao giờ chết.’25

Lady Emily ghi trong nhật ký của bà rằng Krishna kể cho bà lúc này anh cảm thấy giống như một cái vỏ trống không – vì vậy tuyệt đối không thứ bậc. Khi bà mô tả cho anh biết vẻ mặt của anh cũng như giọng nói của anh đã thay đổi như thế nào, anh nói đầy đăm chiêu, ‘Con ước con có thể thấy nó.’ Anh có tin rằng nó là vẻ mặt của Chúa Maitreya? Gần như đến cuối sống của anh, anh luôn luôn nhấn mạnh sự quan trọng mà Mrs Besant và Leadbeater đã luôn luôn trao cho ‘vẻ mặt’, nhưng điều này dường như đã ám chỉ vẻ đẹp thuộc khuôn mặt riêng của anh mà luôn luôn anh nghĩ là hoàn toàn không liên quan giống như anh nghĩ như thế với toàn thân thể của anh. Chắc chắn, anh nghĩ thân thể đã được giao phó cho anh trông nom. Ý thức của tách rời hoàn toàn khỏi thân thể này là một sự việc lạ thường mà kéo dài suốt sống của anh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14736)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46256)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21081)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23450)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18945)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15434)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46706)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15328)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42652)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13124)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33281)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51292)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6624)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13133)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29384)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34428)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23641)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30417)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30092)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32725)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10578)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58691)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11391)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31026)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25335)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22806)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33198)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17697)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42206)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45758)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32111)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11324)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27390)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17784)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12288)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29186)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28300)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22775)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17362)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11907)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34738)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26356)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29143)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13215)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28967)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18785)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46442)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13861)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 30016)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22849)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12544)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36978)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant