Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

21. Thế giới của sáng tạo

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7124)
21. Thế giới của sáng tạo

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

21

Thế giới của sáng tạo

M

ùa đông năm đó K không cho phép Mary Zimbalist theo cùng anh đến Ấn độ bởi vì chị đã bị bệnh ở đó năm trước. Chị tự hỏi không hiểu liệu chị sẽ có thể gặp anh lại, anh đã trở nên quá mỏng manh. Anh cam đoan với chị, ‘Nếu anh sắp sửa chết, anh sẽ gọi điện thoại cho em ngay lập tức. Anh sẽ không chết đột ngột đâu. Anh đang khỏe lắm, quả tim của anh, mọi thứ đều hoàn hảo. Tất cả nó đều được quyết định bởi người nào đó. Anh không thể tiết lộ được. Anh không được phép, em hiểu chứ? Nó nghiêm túc ghê lắm. Có những vấn đề em không thể biết. Kinh khủng lắm, và anh không thể kể cho em. Rất khó khăn để phát hiện một bộ não như thế này và nó phải tiếp tục chừng nào thân thể còn có thể chịu đựng nổi; cho đến khi cái gì đó nói đủ rồi.’

 Khi Mark Edwards chụp ảnh K vào ngày 19 tháng mười, bốn ngày trước khi anh rời để đi Ấn độ, anh ấy nhận thấy K trông khỏe lắm. Tuy nhiên, trong suốt tuần lễ K ở New Delhi, anh ngủ rất ít và hầu như chẳng ăn gì cả đến nỗi khi anh đến Rajghat vào ngày 2 tháng mười một Dr Parchure, người chờ đợi anh, nhận thấy rằng anh yếu ghê lắm. Từ ngày đó bác sĩ không bao giờ rời anh cho đến khi anh chết và ghi lại hàng ngày tình trạng sức khỏe của anh.

 Trong khi K ở tại Rajghat, anh thành tựu một trong những nhiệm vụ chính của anh, nhiệm vụ tìm ra một người Đứng đầu mới (‘Rector’ Hiệu trưởng trung học như chức vụ này được gọi) cho trường Rajghat. Người này là Dr P. Krishna, một cháu trai của Radha Burnier và là Professor Vật lý tại trường đại học Benares Hindu, mà đồng ý, cùng sự chấp thuận của Phó Hiệu trưởng trường đại học của anh ấy, từ bỏ chức vụ đó và đảm trách những bổn phận mới tại Rajghat vào tháng hai.

 Thay vì viết những lá thư hàng ngày cho Mary Zimbalist, như K đã làm trong những chuyến viếng thăm trước khi chị không theo cùng anh, bây giờ K đọc những lá thư dài hơn hầu như mỗi ngày vào một băng cát xét rồi gửi cho chị. Việc này bởi vì tay của anh đã bị run. Anh kể cho chị từ Rajghat, vào ngày 9 tháng mười một, rằng áp suất máu của anh đã hạ thấp đáng kể và hai chân của anh đã ‘loạng choạng’ đến độ hầu như anh không thể bước đi; ngày hôm trước anh đã khụy xuống trên những bậc tam cấp bởi vì anh không thể nhấc chúng lên. Dr Parchure đang giao cho anh vài bài thể dục để tập luyện và xoa bóp hai chân của anh bằng dầu, và anh chắc chắn rằng chúng sẽ nhanh chóng khỏe lại. Anh không còn cảm thấy anh có thể ngồi ăn chung với mọi người và đang dùng những bữa ăn trong giường. Người ta luôn luôn đến gặp anh trong phòng riêng và anh tổ chức những bàn luận ở đó. Pupul Jayakar, Nandini Mehta, Radhika Herzberger, Sunanda và Pama Patwardhan đều ở tại Rajghat. Đến ngày mười một hai chân của anh tương đối đỡ và anh hoàn toàn cảm thấy khỏe khoắn lại. Anh nói về vẻ đẹp của con sông khi mặt trời mọc khoảng 6 giờ 15. Anh đang đọc quyển Lincoln của Gore Vidal và khen nó ‘rất tuyệt vời’.

 Bất kể sự suy giảm sức khỏe của anh, K thực hiện hai nói chuyện trước công chúng tại Rajghat và tham dự một loạt những bàn luận cùng những ủy viên Ấn độ và vài học giả Phật giáo, kể cả Jagannath Upadhyaya.76 Chính phủ Ấn độ đã trao một tài trợ về nghệ thuật cho G. Aravindan, một đạo diễn phim nổi tiếng, để thực hiện một cuốn phim đủ độ dài được đặt nền tảng trên sống của K, The Seer who walks alone Người thấy rảo bước Cô đơn. Cuốn phim đã được khởi quay năm trước và những cảnh cuối được quay tại Rajghat trong suốt chuyến viếng thăm cuối cùng này của K.

 Khi K tiếp tục đến Rishi Valley vào cuối tháng mười một, anh lộ rõ sự yếu ớt của anh, theo Dr Parchure, trong những chuyến dạo bộ buổi chiều khi anh ‘nghiêng ngả về bên phải nhiều đến độ có lẽ anh ngã xuống’. Anh cũng đang cảm thấy lạnh ghê lắm, có thể bởi vì anh đã giảm cân nhiều. Anh bảo với Mary rằng những cái chăn và một chai nước nóng không thể giữ cho thân thể của anh ấm áp vào ban đêm; nhiệt độ đã hạ xuống 48 độ F ngay cả vào những buổi sáng. Anh đang dùng bữa một mình trong phòng như anh đã ăn tại Rajghat và cũng dự định làm như thế ở Madras. Nhưng dường như anh vẫn không có ý tưởng là anh bệnh đến mức độ nào, bởi vì, vào ngày 4 tháng mười hai, anh nói cho Mary rằng anh sẽ đi từ Madras đến Bombay vào ngày 20 tháng giêng, rời Bombay đi London vào ngày 12 tháng hai và, sau bốn ngày tại Brockwood, sẽ tiếp tục đi máy bay đến Los Angeles và anh sẽ gặp lại chị vào ngày 17 tháng hai. (Thật ra, đó là ngày anh sẽ chết). Vào ngày 11 anh nói rằng anh đang cảm thấy khỏe hơn nhiều, hai chân của anh đang trở nên ‘hơi hơi vững vàng’.

 Vào giữa tháng mười hai, những giáo viên từ tất cả những trường học của Krishnamurti tụ họp tại Rishi Valley cho một hội nghị. Scott Forbes, một trong những người đến từ nước Anh, đã bị xúc động vô cùng bởi sự suy giảm thân thể trong K. Anh ấy sẽ viết sau đó:

Những người tại Rishi Valley rất lo lắng về sự yếu ớt của K, và tất cả những học sinh lẫn giáo viên rất dịu dàngý tứ với anh. Có một ý thức của điềm báo trước trong không gian. Người ta không nói công khai về điều đó – ít nhất không đối với tôi – nhưng đã có nhiều hàm ý loan truyền rằng họ không mong chờ Krishnamrti sẽ có lần quay lại Rishi Valley. Krishnamurti đúng là đang chuẩn bị cho mọi người điều này bởi vì dần dần người ta đã chấp nhận rằng có thể anh sẽ không quay lại Ấn độ.

 Radhika đang đảm trách nhiệm vụ nữ chủ nhà cho mọi người, điều hành hội nghị này và cố gắng chăm sóc Krishnaji cũng như giải quyết những trách nhiệm liên tục của cô trong trường. Tôi nhớ đã tự suy nghĩ nhiều lần rằng cô đã làm rất giỏi và đang xử lý tuyệt vời một tình huống rất, rất khó khăn.77

 

Mọi người rất ngạc nhiên khi K tham dự hội nghị của những giáo viên, nói chuyện ba lần và ‘sắp xếp toàn sự việc trên một nền tảng khác và tỏa ra sự cao cả’, theo một trong những giáo viên người Anh. Vào dịp cuối cùng, K hỏi liệu có một thông minh không được sinh ra từ hiểu biếtvì vậy được tự do khỏi tánh tư lợi. Anh vẽ ra một khác biệt giữa cái trí và bộ não, cái sau là hệ thống vật chất, từ cốt lõi là chỗ ngồi của tư tưởng. Cái trí hoàn toàn khác hẳn bộ não và không liên quan gì đến tư tưởng như thời gian. Anh hỏi, ‘Thời gian có dính dáng với tốt lành?’ và đề nghị rằng, trái với trải nghiệm của con người, tốt lành không liên quan đến xấu xa, hoặc như một phản ứng đến nó hoặc như một trạng thái cơ bản. Anh mang lại cho hội nghị, mà đang bàn luận những chủ đề đó như những chương trình giảng dạy, điều gì, đối với K, là toàn mục đích của những trường học – sản sinh một bộ não mới mẻ bằng cách nào và nở hoa trong tốt lành có nghĩa gì.78

K cũng một mình nói chuyện với các trẻ em trong khi anh có mặt tại Rishi Valley. Anh nhấn mạnh, như anh đã chỉ dẫn cho chúng tôi trong năm 1924 tại Pergine rằng, sự việc tồi tệ nhất là lớn lên tầm thường. Bạn có thể đạt được vị trí cao nhất trên quả đất. Nó là một vấn đề của tồn tại, không phải của thành tựu.

Có sự bàn luận giữa Radhika Herzberger và Scott về một trung tâm tìm hiểu nhỏ sẽ được xây dựng tại Rishi Valley, được tài trợ bởi Friedrich Grohe. Những trung tâm nhỏ cũng sẽ được xây dựng tại Rajghat và tại Uttar Kashi ở Himalayas gần Dehradoon, trên một mảnh đất đã được hiến cho India Foundation và không thể đến được vào mùa đông. Friedrich cũng tài trợ những tòa nhà này.

Một con hoopoe – một con chim có mỏ dài và mào cao – thường đậu trên bệ cửa sổ phòng ngủ của K suốt những bàn luận này, mổ vào tấm kính, muốn bay vào. Nó đã làm công việc này vào nhiều dịp ghé thăm. K chưa bao giờ cho nó ăn và dường như nó không có lý do nào để bay vào, tuy nhiên nó luôn luôn ở đó. K nói chuyện với nó và nói rằng nó thích nghe âm thanh của giọng nói anh. Như thường lệ nó ở đó, mổ vào ô cửa kính trong suốt chuyến viếng thăm cuối cùng của K. Người ta có thể nghe tiếng mổ rất rõ rệt khi lắng nghe băng cát xét của bàn luận.79

Vào ngày 19 tháng mười hai, hai ngày trước khi anh rời đó đi Madras, K đang kể cho Mary trên băng cát xét hàng ngày của anh:

 

Anh đang giảm cân nhiều lắm. Dường như anh bị mệt rất mau. Giữa tháng giêng em sẽ biết liệu anh không đi Bombay và hay anh đi chuyến máy bay của Singapore Airline từ Madras đến Singapore, từ Singapore đến LA . . . Việc đó làm sốt ruột anh lắm – không phải ghé Heathrow - London và sau đó năm ngày, đi một chuyến bay khác đến LA . . . Chúng ta sẽ chờ mọi việc ra sao. Thật ra, anh khỏe lắm, không bị đau tim, không bị nhức đầu; bộ não của anh vẫn bình thường, gan và mọi thứ đều tốt, nhưng có vẻ anh không thể tiếp tục lên cân. Anh đang bị giảm cân, vì vậy có lẽ khôn ngoan khi đi đến Singapore rồi bay thẳng qua biển Thái bình dương . . . nhưng vì anh viết cho em mỗi ngày, nói với em mỗi ngày, em sẽ biết. Chúng ta hãy chờ điều gì xảy đến. Càng đi ít càng tốt cho anh, lúc này mọi thứ làm anh mệt lắm.

 

Có nhiều ngắt đoạn trong cuốn băng này khi K nói với cái gì đó mà chắc chẳn là con chim hoopoe: ‘Vào đây đi. Tôi ở đây nè, thôi mà. Thôi mà cô gái thân yêu. Tôi ở phía này nè. Hãy đến và ngồi xuống đi. (Xin lỗi, anh đang nói chuyện với những con chim.) Em có đôi mắt rất sắc, phải không!’

Ngày 21, như anh bảo Mary, anh hủy bỏ những nói chuyện Bombay của anh và quyết định đi máy bay đến Los Angeles quá cảnh Singapore. Anh tiếp tục nói, ‘Anh không thể sụt cân thêm nữa. Anh đã sụt nhiều lắm rồi và nếu còn bị sụt nữa anh sẽ yếu lắm và sẽ không thể đi được nữa. Việc đó sẽ không tốt gì cả.’

Lúc này anh yêu cầu Scott theo anh đến Ojai thay vì quay lại Châu âu cùng những giáo viên khác và yêu cầu đổi vé của Dr Parchure và anh để đi máy bay Singapore Airline và mua một vé cho Scott. May thay, Scott có một American Express card để thực hiện sắp xếp này. K không thể chịu được cái lạnh của Châu âu. Anh muốn rời ngay sau những nói chuyện Madras, và những gặp gỡ của những ủy viên Ấn độ sẽ theo sau, là kết thúc.

Dr Parchure sắp xếp cho K có một hội chẩn với một bác sĩ nổi tiếng ngay khi anh đến Madras. Lúc này anh chỉ cân nặng 97 lbs và đang bị sốt. Bác sĩ, đang nghi ngờ anh bị khối u ác tính nào đó, muốn thực hiện những thí nghiệm, nhưng K không đồng ý thực hiện bất kỳ việc gì mà sẽ gây ảnh hưởng những nói chuyện của anh. Anh thực hiện ba thay vì bốn nói chuyện trước công chúng, vào những chiều tối trong vườn của Vasanta Vihar, và yêu cầu Scott chuyển sớm ngày đi từ ngày 17 tháng giêng lên ngày 10. (Dr Parchure ghi lại, gần như anh đang vội vàng về Ojai để Dr Deutch chăm sóc.) Mặc dù anh bệnh ghê lắm, anh tiếp tục dạo bộ mỗi ngày trong những buổi chiều hơi muộn trên bãi biển từ nhà của Radha Burnier.

Vào đầu tháng giêng tất cả những người đang ở tại Vasanta Vihar, ngoại trừ K, đi xem buổi chiếu đầu tiên của cuốn phim Aravinda ở Madras mà đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn kỷ lục. Có vài cảnh quay đẹp trong cuốn phim, mặc dù hơi đáng tiếc là những nơi chúng ta thấy K đang dạo bộ hay nói chuyện lại không được nhận ra.80 K chấm dứt nói chuyện lần thứ ba của anh vào ngày 4 tháng giêng năm 1986 – nói chuyện cuối cùng mà anh đã thực hiện – bằng những từ ngữ:

 

Sáng tạo là cái gì đó thiêng liêng nhất. Đó là sự việc thiêng liêng nhất trong sống và nếu bạn đã tạo ra sự hỗn loạn trong sống, thay đổi nó. Thay đổi nó hôm nay, không phải ngày mai. Nếu bạn còn ngờ vực hãy tìm ra tại sao và hãy kiên định. Nếu suy nghĩ của bạn không ngay thẳng, hãy suy nghĩ ngay thẳng, hợp lý. Nếu tất cả điều đó không được sẵn sàng, nếu tất cả điều đó không được giải quyết, bạn không thể thâm nhập vào thế giới của sáng tạo này.

kết thúc. (Hai từ này hầu như không nghe rõ, được thở ra thay vì được nói. Chúng chỉ nghe được trên băng cát xét. Chúng không thể nghe được bởi khán giả.)

 

Tiếp theo, sau khi ngừng lâu, anh thêm vào, ‘ Đây là nói chuyện cuối cùng. Các bạn có muốn cùng nhau ngồi yên lặng một chốc lát không? Được rồi, thưa các bạn, hãy ngồi yên lặng một chốc lát.’81

Tại gặp gỡ Indian Foundation tiếp theo sau những nói chuyện, K khẳng định rằng những ngôi nhà nơi anh đã sống không nên trở thành những nơi dành cho sự hành hương, rằng không hệ thống thờ cúng tôn giáo nào được khai triển quanh anh. Và anh yêu cầu những ghi nhớ dưới đây được thêm vào trong những nội quy và điều lệ của Foundation:

 

Dù trong bất kỳ tình huống nào, không Foundation hay bất kỳ những học viện nào trong sự bảo trợ của nó, hay bất kỳ những thành viên của nó sẽ tự-thiết lập họ như những thẩm quyền trên những lời giảng của Krishnamurti. Điều này phù hợp với sự tuyên bố của Krishnamurti rằng không người nào tại bất kỳ nơi nào có quyền tự-thiết lập như một thẩm quyền trên anh và những lời giảng của anh.82
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14739)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46259)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21082)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23453)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18946)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15435)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46712)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15328)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42657)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13126)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33284)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51302)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6625)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13136)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29385)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34432)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23644)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30420)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30092)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32731)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10579)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58701)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14226)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11392)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31029)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25338)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22812)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33199)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17698)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42218)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45768)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32113)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11325)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27391)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17790)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12291)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29189)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28304)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22776)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17362)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11907)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34741)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26360)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29144)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13215)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28975)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18786)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46443)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13862)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 30025)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22851)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12554)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37325)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36979)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant