Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lời giới thiệu

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 7295)
Lời giới thiệu

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

Lời giới thiệu


Nhiều lần Krishnamurti đã yêu cầu không nên có sự giải thích quyết đoán về lời giảng của ông, mặc dù ông khuyến khích những người quan tâm nó cùng nhau bàn luận. Vì vậy, quyển sách này không cố gắng giải thích hay nhận xét lời giảng đã có sẵn trong hàng tá sách, băng cát-xét, băng video. Trái lại, mục đích của nó là cố gắng khám phá khởi nguồn của sự soi rạng mà lời giảng được đặt nền tảng, làm sáng tỏ bản chất của một con người lạ thường nhất, theo dấu quá trình phát triển của ông và hiểu rõ toàn cảnh sống của ông. Điều này thực sự khó khăn khi phải thực hiện trong ba quyển sách chi tiết được tách rời bởi một khoảng cách thời gian – tám năm trong trường hợp hai quyển đầu tiên và thứ hai.

 Sau khi quyển đầu tiên, The Years of Awakening Những năm thức giấc, được xuất bản tôi được hỏi liệu tôi có tin tưởng vào những việc xảy ra mà tôi đã ghi lại. Trả lời của tôi là tôi chắc chắn tin tưởng chúng cho đến năm 1928 – đó là, cho đến lúc tôi hai mươi tuổi – ngoại trừ những biến cố ngu xuẩn ở Hà lan năm 1925. Sau biến cố, cách nhìn của tôi đối với chúng thay đổi theo riêng của Krishnamurti.

Tôi không thể nhớ một thời gian nào mà tôi không biết Krishnamurti. Điều này do bởi mẹ tôi đã đối xử tốt với ông khi lần đầu tiên ông đến nước Anh vào năm 1911 một cậu trai trẻ mười bảy tuổi ngơ ngác, dường như trẻ hơn tuổi tác của ông nhiều, mà, hai năm trước, đã được chọn bởi những người lãnh đạo của Theosophical Society tại Ấn độ như là phương tiện cho đấng Cứu thế tương lai. Mẹ tôi đã gia nhập Theosophical Society năm 1910, trước khi tôi ba tuổi, và tôi được nuôi nấng trong giáo lý của nó mà rất đơn giản ở bên ngoài: một tin tưởng trong tình huynh đệ của con người và sự bình đẳng của tất cả mọi tôn giáo. Thay vì ‘Lạy Cha chúng con ở trên trời . . .’, mỗi buổi sáng tôi được dạy lặp lại câu: ‘Tôi là một mắt xích trong chuỗi xích bằng vàng của tình yêu mà trải dài quanh thế giới và tôi hứa giữ gìn mắt xích của tôi sáng rực và chắc chắn.’ Tuy nhiên, có một mấu chốt khó hiểu đối với Theosophy mà tôi không nhận thức được mãi đến khi tôi khoảng mười ba tuổi. Điểm mấu chốt khó hiểu này và sự sáng lập Society sẽ được trình bày trong chương đầu của quyển sách này.

 Theosophy sẽ gây ra một bất hòa giữa cha mẹ tôi đến nỗi không thể hàn gắn được khi những năm trôi qua, tuy nhiên, mỉa mai thay, chính nhờ cha tôi nên mẹ tôi đã biết được Theosophy. Năm 1909, cha tôi, Edwin Lutyens, nhận được một công việc từ một chủ ngân hàng người Pháp, Guillaume Mallet, để xây một ngôi nhà cho ông ấy trên Bờ biển Normandy, không xa Dieppe lắm. Khi cha tôi trở về từ chuyến viếng thăm đầu tiên đến nơi xây dựng, ông kể với mẹ tôi rằng gia đình Mallet là Theosophists, những người theo Huyền bí học. Khi mẹ hỏi ông nó có ý gì thì ông trả lời không biết nhưng nói thêm rằng họ có một tủ sách bí mật luôn luôn được khóa lại. Việc này kích thích tính hiếu kỳ của mẹ tôi và khi mẹ tôi theo cha trong chuyến thăm kế tiếp của ông đến Varengeville, mẹ thuyết phục Madame Mallet giải thích những nét chính trong những tin tưởng của Theosophy. Điều gì gây tác động mẹ nhất là sự bình thường của gia đình Mallet, không có sự kỳ quặc trong họ để bà liên tưởng đến một tôn giáo chữa bệnh bằng phép lạ. Điều lập dị duy nhất là họ là những người ăn chay nghiêm ngặt. Vào lễ Giáng sinh, Madame Mallet gửi cho mẹ tôi những bài giảng ở London 1907 của Mrs Annie Besant,[1] Chủ tịch Theosophical Society, những bài giảng này gây thỏa mãn cho mẹ tôi đến mức ‘quá vui mừng và say mê’, theo tự truyện của bà,[2] từng giây phút bà trở nên ‘vô cùng hưng phấn’ đến độ hầu như bà không thể kiềm chế ‘hét lên đầy hân hoan’. Dường như nó khai mở những triển vọng mới mẻ của bà cho sự hiểu rõ thuộc tinh thần.

 Mẹ tôi đã chín chắn cho sự thay đổi tín ngưỡng. Sau mười ba năm kết hôn với một kiến trúc sư thành công, tham vọng mỗi lúc một gia tăng, mặc dù thương yêusay đắm, đã quá đam mê trong công việc của ông ấy đến độ không còn thời gian dành cho bà và con cái bất kỳ sự đầm ấm nào, bà tìm kiếm sự bận rộn gây thỏa mãn nào đó đầy tuyệt vọng để kích thích những nhu cầu thuộc trí năngcảm xúc của bà. Công việc nội trợ, và cuộc sống xã hội bình thường làm bà chán ngán nhiều và con cái của bà được chăm sóc bởi một người vú nuôi giỏi giang. Bà đã trở thành một người ủng hộ sôi nổi của the Women’s Suffrage movement phong trào Phụ nữ đòi quyền bầu cử (nhưng không bao giờ là một người ủng hộ vũ lực vì sợ bị bỏ tù và bị cho ăn uống hạn chế); bà đã đọc nhiều sách về xã hội học và tham gia một tổ chức được gọi là Moral Education League, Giáo dục Đạo đức, liên quan đến sự quy định của chính phủ về tệ nạn mại dâm và đã viết nhiều sách về đề tài thời sự đó và tham dự những hội nghị trong nhiều vùng của nước Anh. Cũng là một phần trong công việc này, bà trở thành một người khách mỗi tuần tại Lock Hospital dành cho sự điều trị bệnh truyền nhiễm qua đường sinh dục, nơi đó bà đọc sách của Dickens cho bệnh nhân. (Bà có một khả năng truyền cảm khi đọc truyện.) Bà cũng tổ chức những cuộc thảo luận tại nhà của chúng tôi ở Bloomsbury Square để bàn bạc những đề tài như di truyền và môi trường sống. Nhưng, không giống như nhiều người đương thời, bà không quan tâm đến Spiritualism, thuyết duy tâm,[3] cũng không, tại quãng đời đó của bà, quan tâm đến thuyết huyền bí hay những đạo thần bíẤn độ mà đã thu hút vô số người phương Tây đến phương Đông từ khi sự trung thành với Thiên chúa giáo của họ bị suy yếu bởi Darwin.

 Là một người có bản chất rất hiến dâng, một người Thiên chúa giáo sùng tín thời thanh nữ với một ý thức mãnh liệt của được gần gũi Jesus, niềm tin Theosophy trong đấng Cứu thế sắp đến, và sự cần thiết phải chuẩn bị thế giới cho sự kiện vô cùng to lớn này, đã thỏa mãn mọi khía cạnh của thân tâm mẹ tôi. Đầu năm 1910, sau khi gia nhập Society, mọi năng lượng của mẹ đều dồn hết cho phong trào; mẹ tham dự những lớp học về nói chuyện trước công chúng để có thể đi khắp mọi nơi giảng thuyết về Theosophy (bà trở thành một diễn giả thành công). Bà cũng bắt đầu một Theosophical Lodge mới[4] cùng Dr Haden Guest (sau đó trở thành Lord Guest), cũng là một người mới cải đạo, ‘được dự định để hợp nhất tất cả những người ao ước cống hiến sự ảnh hưởng thực tế đối với những nguyên lý về tình huynh đệ của Theosophy.’

 Mùa hè 1910 Mrs Besant từ Ấn độ đến Anh và mẹ tôi đi nghe bà giảng thuyết tại Fabian Society về đề tài ‘Một hình thức lý tưởng của Chính phủ’. Bernard Shaw và Sydney Webb trên bục giảng. Mẹ tôi viết ‘Tôi hoàn toàn bị choáng váng khi lần đầu tiên nhìn thấy bà. Bà trông không giống bất kỳ người nào mà tôi đã từng gặp trước kia. Bà mặc những cái robe màu trắng tinh bay chập chờn tỏa ra một nhân cách thuần nữ tính, trong khi đầu của bà lại đồ sộ và gọn gàng cùng mái tóc bạc ngắn và quăn tít trông rất nam tính. Bà đã sáu mươi ba tuổi nhưng vẫn chưa có dấu hiệu gì của sức sống đang suy giảm. Bà có một sinh lực kinh ngạc nhất trong bất kỳ người nào tôi đã từng gặp.’

 Một vài tuần sau mẹ tôi lại nghe bà giảng thuyết tại một sảnh đường ở Kingsway về đề tài ‘Đấng Christ sắp đến’, và sau đó tìm được can đảm để tiếp cận bà và mời bà ăn trưa. Bà đồng ý. Người thứ ba duy nhất hiện diện tại bữa ăn trưa là cha tôi.

 Khi đến nhà Mrs Besant xin phép cởi mũ ra, dũ mái tóc bạc ngắn và quăn tít ra khi bà cởi mũ, mà sau đó mẹ tôi phát giác đó là nét đặc trưng của bà. Mẹ tôi nhớ lại lúc đó đã nghĩ bà có đôi mắt sáng như cọp, một sắc nâu kỳ lạ, mà dường như nhìn xuyên thấuthâm nhập vào những suy nghĩ sâu thẳm nhất của mẹ. Tại cuộc gặp gỡ đầu tiên này, cha tôi ưa thích Mrs Besant và bị ấn tượng bởi bà, đặc biệt trước khi chia tay bà yêu cầu cha thiết kế English Theosophical Headsquarters mới ở Tavistock Square (hiện nay là British Medical Association). Chỉ từ từ cha tôi mới bực bội bởi sự ảnh hưởng của bà đối với mẹ tôi.

 Năm 1929, lúc ba mươi bốn tuổi, Krishnamurti tự tách khỏi Theosophical Society, sau một trải nghiệm tinh thần đã thay đổi trọn vẹn sống của ông, và từ bỏ vai trò Đấng Cứu thế trong những năm sắp tới để đi lại thế giới như một người thầy cùng triết lý tôn giáo riêng của ông, không dính líu với bất kỳ tôn giáo hay giáo phái chính thống nào. Mục đích duy nhất trong lời giảng của ông là đưa con người được tự do khỏi tất cả những chuồng cũi đã phân chia con người với con người, như chủng tộc, tôn giáo, dân tộc, giai cấptruyền thốngvì vậy tạo ra một thay đổi trong tinh thần con người.

 Đã không giảm bớt sự quan tâm trong lời giảng của Krishnamurti từ khi ông chết vào tháng hai 1986, ba tháng trước sinh nhật lần thứ chín mươi mốt của ông. Thật ra, danh tiếng của ông đang lan tràn. Lý do thậm chí tại sao ông không được nổi tiếng nhiều hơn là vì ông không bao giờ thích mọi người biết đến ông. Người ta biết về ông qua truyền khẩu hay vô tình đọc được một trong những quyển sách của ông.

 Trong khi Krishnamurti đang được công bố bởi Theosophical Society, tiền bạc và đất đai và tài sản dâng tặng được tuôn vào ông bởi những hội viên của nó. Khi ông từ bỏ Society và phủ nhận vai trò của ông, ông hoàn lại những món quà này cho những người trao tặng và bắt đầu sống mới của ông mà không biết liệu ông sẽ có bất kỳ người nào theo sau hay bất kỳ tiền bạc nào ngoại trừ số tiền trợ cấp hàng năm là £500. Như nó đã xảy ra, ông cuốn hút những người mới của một thế giới lý thúrộng rãi hơn nhiều, và như thể do ma thuật tiền bạc đã tuôn vào mọi đề án mà ông quan tâm đến. Trong phần còn lại thuộc sống của ông, ông thường nói, ‘Hãy làm một việc, và nếu nó đúng đắn tiền bạc sẽ theo sau.’

 Krishnamurti phủ nhận là đạo sư của bất kỳ người nào. Ông không muốn người ta tuân phục và mù quáng theo ông. Ông chỉ trích sự sùng bái tước vị đạo sư và thiền định thăng hoa được mang từ Ấn độ sang phương Tây. Đặc biệt, ông không muốn có những môn đồ mà có lẽ sẽ tạo ra một tôn giáo mới quanh ông, dựng lên một hệ thống chức sắc và đảm trách uy quyền. Ông khẳng định rằng cốt lõi của lời giảng là: nó dựng lên một cái gương trong đó người ta có thể tự thấy chính họ rõ ràng như họ là cả bên trong lẫn bên ngoài, và nếu họ không thích điều gì họ đã thấy tự thay đổi chính họ.

 Quan tâm đặc biệt của Krishnamurti là giáo dục trẻ em trước khi những cái trí của các em trở nên cố định bởi những thành kiến của xã hội nơi các em đã được sinh ra. Bảy trường học ông sáng lập và mang tên ông – năm ở Ấn độ, một ở Anh và một ở California – vẫn đang phát triển. Trường lâu nhất, Rishy Valley, được sáng lập vào đầu những năm 1930 giữa Madras và Bangalore, hiện nay có 340 học sinh, một phần ba trong số các em là nữ sinh, và được biết đến là một trong những trường giỏi nhất ở Ấn độ. Trường ở Hampshire, nước Anh, trường nhỏ nhất, chỉ có sáu mươi học sinh, nhưng thuộc hai mươi bốn quốc tịch và một số lượng nam nữ bằng nhau.

 Một trung tâm Krishnamurti lớn dành cho những người trưởng thành ngay sau khi ông chết, sát ngôi trường ở nước Anh mặc dù hoàn toàn tách rời nó. Ý tưởng của trung tâm này, và việc xây dựng nó là một trong những quan tâm chính

trong hai năm sống cuối cùng của ông.[5] Ba trung tâm dành cho những người trưởng thành nhỏ hơn hiện nay đã được xây dựngẤn độ. Krishnamurti cũng sáng lập ba Foundation vào những năm 1960 – ở Anh, Ấn độ, và California, và một phụ trợ ở Puerto Rico – có một chức năng thuần túy hành chánh, mỗi Foundation có những người quản trị riêng của nó. Cũng có những ủy viên kết hợp trong hai mươi mốt quốc gia.

 Krishnamurti có hàng tá bạn bè trong nhiều quốc gia giống như những ủy viên này, trong mọi tầng lớp xã hội từ những nữ hoàng đến những thầy tu Phật giáo. Trong những ngày đầu Bernard Shaw, Leopold Stokowski và Antoine Bourdelle, người điêu khắc, ở trong số những người khâm phục ông nhất, và, sau đó, Aldous Huxley, Jawaharlal Nehru và Pablo Casals trong số bạn bè của ông. Mới đây, ông kết bạn với Mrs Gandhi, Prof Maurice Wilkins, người dành giải Nobel về y khoa, Dr David Bohn, người vật lý học, Rupert Sheldrake, người sinh vật học, và Terence Stamp, người nghệ sĩ, và ông cũng tình cờ quen biết một số những người nổi tiếng mà đã phỏng vấn ông và có những bàn luận với ông, gồm có Dr Jonas Salk và Đức Dalai Lama. Không nghi ngờ gì cả, Krishnamurti đã bắc một cây cầu giữa khoa học và tôn giáo. Khán giả trong những nói chuyện của ông không đông lắm, dao động giữa 1.000 và 5.000 người trong hai mươi năm cuối của ông tùy theo kích cỡ của sảnh đường hay cái lều trong đó ông nói chuyện. Điều gì là sự cuốn hút của ông đối với những người đến nghe ông? Cũng thật lạ lùng khi có vài hippies trong số họ, mặc dù đa số còn trẻ. Trong mọi nói chuyện, khán giả của ông là những người ăn mặc chỉnh tề, cư xử đứng đắn, đàn ông cũng như phụ nữ, mà lắng nghe ông đầy nghiêm túc và có ý định mặc dù ông không có tài hùng biện. Lời giảng của ông không có ý định mang lại sự thanh thản nhưng lay động con người vào sự tỉnh thức được tình trạng nguy hiểm của thế giới mà mỗi cá thể phải chịu trách nhiệm bởi vì, theo ông, mỗi cá thể thế giới trong thu nhỏ lại.

 Không nghi ngờ gì cả, một phần trong sức cuốn hút của Krishnamurti là hình dáng của ông. Đặc biệt khi còn trẻ ông đẹp lạ thường, và ngay cả lúc tuổi già ông vẫn giữ được vẻ đẹp lạ thường của hình thể, cấu trúc xương và dáng đi đứng. Nhưng còn nhiều hơn những điều này, có một sức hấp dẫn cá nhân kéo mọi người lại gần ông. Ông có thể nói trước công chúng đầy nghiêm khắc, thỉnh thoảng hầu như dữ tợn, nhưng với những người riêng hay trong những nhóm nhỏ lại có một cảm giác ấm áp và tình cảm vô cùng. Mặc dù ông không thích bị tiếp xúc với thân thể mình, ông thường, khi đang ngồi nói chuyện với người nào đó, nghiêng người qua để đặt một bàn tay của ông trên cánh tay hay đầu gối của người đó, và ông thích nắm chặt tay một người bạn hay người nào đó đến yêu cầu ông sự giúp đỡ. Trên tất cả, khi ông đang nói chuyện nghiêm túc, ông thích cười cũng như nói đùa và trao đổi những câu chuyện ngớ ngẩn. Tiếng cười sâu, lớn của ông dễ dàng tạo ra sự quý mến.

 Tôi nghĩ, sau khi ông chết sự quan tâm đến Krishnamurti vẫn còn được duy trì, hay thậm chí đang gia tăng chỉ rõ rằng không những có một hấp lực cá nhân của ông được truyền qua trong những băng cát-xét hay video, nhưng còn bởi vì lời giảng của ông là một thông điệp cho ngày nay mà mọi người đều khẩn thiết mong muốn. Mặc dù người ta có lẽ không đồng ý về nhiều vấn đề ông nói, sự chân thật của ông không thể bị nghi ngờ.



[1] Mrs Besant, được sinh ra vào năm 1847, đã kết hôn với một mục sư, Frank Besant. Sau khi sanh ra hai người con, bà mất đi sự trung thành và có đủ can đảm để bộc lộ cho chồng biết. Ông ấy ly dị bà và được trao quyền nuôi nấng con cái mặc dù bà đã đấu tranh nhiều trong những phiên tòa, thực hiện sự biện hộ riêng của bà, để được nuôi nấng chúng. Sau đó bà trở thành một người vô thần công khai và một người đổi mới xã hội, một đồng sự của Charles Bradlaugh và một người bạn thân của Bernard Shaw. Bà cải đạo vào Theosophy năm 1889 khi W.T.Stead yêu cầunhận xét quyển the Secret Doctrine viết bởi Mrs Blavatsky một trong những người sáng lập The Theosophical Society.

[2] Candles in the Sun (Hart-Davis, 1957).

[3] Spritualism – đó là, sự tin tưởng rằng người chết có thể giao tiếp với người sống, đặc biệt qua những người đồng bóng – vẫn còn là đề tài tranh luận nóng bỏng nhất của những ngày đó. The Society for Psychical Research tổ chức nghiên cứu tinh thần đã được sáng lập ở Anh năm 1882 để tìm hiểu những chứng cớ. Sự quan tâm trong mọi hình thức của siêu nhiên được lan rộng.

[4] Society được phân chia thành Lodges. Có Lodge trong tất cả những thị trấn lớn ở Anh và Scotland, và nhiều Lodges ở Châu âu, dùng để sắp xếp những họp mặt và những giảng thuyết.

[5] Những bức ảnh của Trung tâm này xuất hiện trong quyển sách của The Prince of Wales, A Vision of Britain (Doubleday, 1989).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14717)
Thể tánh của đức Phật A Di Đàvô lượng thọ, vô lượng quang, là Phật Pháp thân. Giáo lý đại thừa đều chấp nhận rằng Pháp thân bao trùm tất cả thế giới.
(Xem: 46244)
"Hộ-Niệm" đúng Chánh Pháp, hợp Lý Đạo, hợp Căn Cơ. Thành tựu bất khả tư nghì! ... Cư Sĩ Diệu Âm
(Xem: 21073)
Phật A Di Đà chính là vị Phật biểu trưng cho một Phật thể có thọ mạng vô lượng, trí tuệ vô cùng, công đức vô biên (Vô lượng thọ, Vô lượng quang, Vô lượng công đức).
(Xem: 23439)
Thế giớichúng ta đang sống luôn bất an, bất toàn và tạm bợ mà trong kinh A Di Đà gọi là trược thế... Thích Viên Giác
(Xem: 18932)
Tu tập pháp môn P’howa, tức là pháp môn chuyển di thần thức vào giây phút từ trần, sẽ làm người tu tự tin vào đời sống của mình, vào sự tu tập tâm linh của mình...
(Xem: 15421)
Không có một sự thực hành Niệm Phật chân chính, không ai có thể trung thực nhận ra tính chấp ngã vị kỷ của con người đã hình thành nên cốt lõi của sự tồn tại sinh tử.
(Xem: 46698)
Vì lòng thương xót chúng sanh đời Mạt Pháp, đức Thế Tôn đặc biệt nói ra pháp này để rộng cứu tế, ngõ hầu chúng sanh dẫu chẳng được gặp Phật, mà nếu gặp được pháp môn này...
(Xem: 15321)
Tự Tánh Di Đà: Tiểu bộ kinh Đi Đà định danh rất rõ về thể tánh của Đức A Di Đà: Vô Lượng Thọ - Vô Lượng Quang; Một đức Phật tín ngưỡng, tâm linhpháp tánh, đương vi giáo chủ một cõi Tịnh lý tưởng cũng thuộc phạm vi tín ngưỡng...
(Xem: 42643)
Nếu trong sự thuần tưởng, lại gồm cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm trí khai mở mà được thấy mười phương chư Phật, tùy theo nguyện lực của mình mà sanh về Tịnh-độ.
(Xem: 13118)
“Nam Mô A Di Đà Phật” bài pháp tối thắng nhất, mà tôi đã mang đi trong suốt một dặm đời, thân thương như ruột thịt, ân cần như mẹ cha.
(Xem: 33270)
Nói đến tịnh độ tất phải nói đến hai khái niệm tự lựctha lực. Tự lực nói đến phương pháp chúng ta thực hành cho tự thân, dựa vào nội lực của chính tâm chúng ta.
(Xem: 51281)
Kinh Hoa Nghiêm nói: “Lòng tin là gốc của đạo, sanh ra các công đức. Lòng tin có thể nuôi lớn các căn lành. Lòng tin có thể vượt khỏi các đường ma.
(Xem: 6620)
Đức Phật dạy chúng ta lấy hiếu làm gốc. Hiếu dưỡng cha mẹpháp môn căn bản rất lớn của đạo Phật, cũng là điều kiện quan trọng cơ bản làm người.
(Xem: 13131)
Cõi Tịnh Độ cũng được gọi là cõi Cực Lạc. Tôi là người hạnh phúc nhất và giàu nhất trên thế giới. Mỗi ngày nơi làm việc, tôi nghe tụng niệmtâm trí tôi đầy bao Cực Lạc khi đang làm việc.
(Xem: 29378)
Với một người có nguyện và có lực, họ vẫn xem khoảnh khắc cuối của đời sốngthời khắc quan trọng, vì chúng có khả năng chi phối rất nhiều đến đời sống tiếp theo.
(Xem: 34409)
Phát Bồ đề tâm, nói đơn giản, là trước hết, lập cái chí nguyện mong cầu tuệ giác Vô thượng Bồ đề, kế đó, phát triển tuệ giác ấy...
(Xem: 23631)
Tâm Bồ đề là tâm rõ ràng sáng suốt, tâm bỏ mê quay về giác, là tâm bỏ tà quy chánh, là tâm phân biệt rõ việc thị phi, cũng chính là tâm không điên đảo, là chân tâm.
(Xem: 30404)
Mục tiêu cuối cùng của việc học Phật là khai trí huệ. Trí huệ từ Định lực mà có, cũng chính là do tâm thanh bình đẳng mà có...
(Xem: 30063)
Nếu có tỳ-kheo chân thật muốn học đạo, hãy vứt bỏ những thứ trang sức choáng lộn, chẳng cầu danh văn, chất phác, giữ lòng chân thành...
(Xem: 32712)
Pháp sư Ấn Hải dịch từ Nhật ngữ sang Hoa ngữ vào năm 1987, Thích nữ Viên Thắng dịch từ Hoa ngữ sang Việt ngữ vào năm 2011
(Xem: 10575)
Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt.
(Xem: 58679)
Thông đạt tiếng nói các chúng sanh, khai thị thật tướng vũ trụ. Vượt khỏi các pháp thế gian. Tâm thường nguyện độ thoát chúng sanh. Đối với vạn vật tùy ý tự tại.
(Xem: 14211)
Nếu đạo hữu đang tìm kiếm ban hộ niệm để độ người thân và độ người tín Phật liên hệ với Ban hộ niệm tại địa phương mình trong danh sách bên dưới.
(Xem: 11382)
Nếu mình là người có Trí huệ, biết lo cho hạnh phúc đời này và mai sau của mình thì mình lo tinh tấn tu hành, đừng để cái Chết hay Vô Thường tới, lúc đó đã quá muộn rồi.
(Xem: 31011)
Mục đích của Phật pháp không ngoài việc giúp chúng sinh giác ngộ tự tâm, xa lìa khổ đau đạt được an lạc... Thích Tâm An biên dịch
(Xem: 25324)
Thân tất cả chư Phật, Là thân một đức Phật. Một tâm một trí huệ, Lực vô úy cũng thế... HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 22795)
Nếu hay tu trí tuệ thì không khởi phiền não. Trí tuệ vô ngã có thể từ chỗ nghe Phật pháp, thể nghiệm Phật lý, phản quan tự ngã, nhìn thấu nhân sinh mà có được.
(Xem: 33180)
Đại Chánh Tân Tu, Bộ Bảo Tích, Kinh số 0366 - HT Thích Trí Tịnh dịch
(Xem: 17690)
Chư Tổ Tịnh Độ Tông - HT Thích Thiền Tâm
(Xem: 42189)
Hán dịch: Tam Tạng Sa Môn Thật-Xoa Nan-Đà (Siksananda), người xứ Vu Điền (Khotan), phiên dịch vào đời nhà Đường của Trung Hoa; Việt dịch: Ban Việt Dịch Vạn Phật Thánh Thành
(Xem: 45740)
Khi đức Phật phát ra bất-khả-thuyết bất-khả-thuyết tiếng vi diệu như thế xong, thời có vô lượng ức hàng Trời, Rồng, Quỉ, Thần ở trong cõi Ta-bà...
(Xem: 32103)
Địa tạng chú trọng cả sinh và chết. Địa tạng rất trọng thị hạnh phúc nhân loại. Địa tạng hay nói Phật giáo, nhưng chữ ấy không có nghĩa tôn giáo của Phật, mà là giáo huấn của Ngài... HT Thích Trí Quang
(Xem: 11317)
Cuối cùng thì một con đường vô thường này mỗi người chúng ta đều phải đối diện! Tuy nhiên, Phật A-di-đà đã từng phát đại nguyện muốn cứu độ tất cả chúng sanh niệm Phật.
(Xem: 27381)
Tâm tánh của chúng sinh dung thông không ngăn ngại, rộng lớn như hư không, lặng trong như biển cả. Vì như hư không nên thể của nó bình đẳng...
(Xem: 17775)
Tây phương Cực lạccảnh giới thanh tịnh giải thoát. Thanh tịnhvô nhiễm là thuần thiện, giải thoát là vượt ngoài ba cõi, vượt ngoài ba cõi là xả ly thế gian.
(Xem: 12282)
"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chấttinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc...
(Xem: 29172)
Giáo - Lý - Hạnh - Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật thực là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa, cứ tu một pháp thì cả bốn (Giáo - Lý - Hạnh - Quả) đều đủ.
(Xem: 28281)
Nếu ai nấy chẳng làm các điều ác thì những sự tổn hại chúng sanh đều sẽ chẳng ai làm, tham-sân chẳng đủ để tạo thành tai họa vậy!
(Xem: 22772)
Chân thật niệm Phật, lạy Phật sám hối, giữ giới sát, ăn chay, cứu chuộc mạng phóng sinh. Đó là bốn điểm quan trọng mà sư phụ thường dạy bảo và khuyến khích chúng ta.
(Xem: 17343)
Chắc chắn Đức Phật đã thiết lập nhiều quy luật đạo đứcthiền quán. Những điều này hỗ trợ cho ân cần tử tế, từ bi, bao dung, yêu thương, tế nhị cũng như tuệ trí, tập trung, và can đảm.
(Xem: 11901)
Từ ngàn năm trước cho đến tận ngàn sau, sáu chữ Nam Mô A Di Đà Phật vẫn vang dội mãi trong tâm thức đi về của Đạo Phật Việt, như một năng lực cứu độ nhiệm mầu cho chúng sanh...
(Xem: 34726)
Ðức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Thế Tônthương xót tất cả chúng-sanh mà hiện ra nơi đời ác-trược, với bốn mươi chín năm thuyết pháp, mục đích mở bày và chỉ rõ Tri-Kiến Phật...
(Xem: 26338)
Pháp môn Tịnh Độ cao cả không cùng, rộng lớn như trời che đất chở. Đây là Pháp môn tổng trì của chư Phật ba đời, là đạo mầu đặc biệt trong một đời giáo hóa của đức Thích Ca.
(Xem: 29117)
Nếu một người thiện nam hay tín nữ thực hànhhoàn thành Năm Thực Tập Chính Niệm, người ấy cuối cùng sẽ đạt được sự vãng sinh về vùng đất Hòa Hòa Bình và An Lạc...
(Xem: 13206)
Qua sự trì niệm Danh hiệu Phật cá nhân, riêng tư hay cộng đồng, tâm thức có thể trở nên tập trung trên tính bản nhiên của thực tại đã ôm ấp đời sống của chúng ta.
(Xem: 28957)
Thiên Như lão nhơn đang tĩnh tọa nơi thất Ngọa Vân, bổng có người đẩy cửa bước vào, tự xưng là Thiền khách. Lão nhơn im lặng gật đầu chào, đưa tay ra ý mời ngồi...
(Xem: 18776)
Pháp Thân, tự biểu hiện ‘tính không’ và không có sự hiện hữu của thân thể vật lý, mà phải tự hiện thân trong một hình tướng và được biểu hiện như cây trúc...
(Xem: 46419)
Đấng Pháp vương vô thượng Ba cõi chẳng ai bằng, Thầy dạy khắp trời người Cha lành chung bốn loài.
(Xem: 13858)
Xem qua lịch sử phát triển của tông Tịnh độ, ta thấy vào thời Ðông Tấn, khoảng cuối thế kỷ thứ V, có Ngài Tuệ Viễn lập ra Bạch Liên Xã để xiển dương Tông Tịnh độ;...
(Xem: 29999)
Đức Phật A Di Đà là một ngôi giáo chủ trên cõi Lạc Bang, oai đức không cùng, thệ nguyện rất lớn, mở môn phương tiện, độ kẻ chúng sanh ra khỏi Ta bà đem về Tịnh độ.
(Xem: 22840)
Nói đến Phật giáo, người ta nghĩ ngay đến đạo Từ bi cứu khổ. Mà hình ảnh cứu khổ tiêu biểu tuyệt vời nhất thiết tưởng không ai khác hơn là đức Bồ tát Quan Thế Âm...
(Xem: 12539)
Bất cứ một việc làm gì, khi nhìn kết quả của sự việc, ta sẽ biết nguyên nhơn của việc ấy và ngược lại, nếu muốn biết kết quả của một việc xảy ra cho được tốt đẹp...
(Xem: 37300)
Một thời Ðức Phật ở nước Xá Vệ, trong vườn Cấp Cô Ðộc, cây của thái tử Kỳ Ðà, cùng với các đại Tỳ Kheo Tăng... Thích Minh Định dịch
(Xem: 36958)
Khuyến phát Bồ Đề Tâm văn; Âm Hán Việt: Cổ Hàng Phạm Thiên Tự Sa môn Thật Hiền soạn; Dịch: Sa môn Thật Hiền chùa Phạm Thiên Cổ Hàng soạn
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant