Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới
Bài Mới Nhất

21. Thế giới của sáng tạo

17 Tháng Bảy 201100:00(Xem: 8162)
21. Thế giới của sáng tạo

SỐNG CHẾT CỦA KRISHNAMURTI
MỘT TIỂU SỬ VIẾT BỞI MARY LUTYENS
Lời dịch: Ông Không – Tháng 7-2009

21

Thế giới của sáng tạo

M

ùa đông năm đó K không cho phép Mary Zimbalist theo cùng anh đến Ấn độ bởi vì chị đã bị bệnh ở đó năm trước. Chị tự hỏi không hiểu liệu chị sẽ có thể gặp anh lại, anh đã trở nên quá mỏng manh. Anh cam đoan với chị, ‘Nếu anh sắp sửa chết, anh sẽ gọi điện thoại cho em ngay lập tức. Anh sẽ không chết đột ngột đâu. Anh đang khỏe lắm, quả tim của anh, mọi thứ đều hoàn hảo. Tất cả nó đều được quyết định bởi người nào đó. Anh không thể tiết lộ được. Anh không được phép, em hiểu chứ? Nó nghiêm túc ghê lắm. Có những vấn đề em không thể biết. Kinh khủng lắm, và anh không thể kể cho em. Rất khó khăn để phát hiện một bộ não như thế này và nó phải tiếp tục chừng nào thân thể còn có thể chịu đựng nổi; cho đến khi cái gì đó nói đủ rồi.’

 Khi Mark Edwards chụp ảnh K vào ngày 19 tháng mười, bốn ngày trước khi anh rời để đi Ấn độ, anh ấy nhận thấy K trông khỏe lắm. Tuy nhiên, trong suốt tuần lễ K ở New Delhi, anh ngủ rất ít và hầu như chẳng ăn gì cả đến nỗi khi anh đến Rajghat vào ngày 2 tháng mười một Dr Parchure, người chờ đợi anh, nhận thấy rằng anh yếu ghê lắm. Từ ngày đó bác sĩ không bao giờ rời anh cho đến khi anh chết và ghi lại hàng ngày tình trạng sức khỏe của anh.

 Trong khi K ở tại Rajghat, anh thành tựu một trong những nhiệm vụ chính của anh, nhiệm vụ tìm ra một người Đứng đầu mới (‘Rector’ Hiệu trưởng trung học như chức vụ này được gọi) cho trường Rajghat. Người này là Dr P. Krishna, một cháu trai của Radha Burnier và là Professor Vật lý tại trường đại học Benares Hindu, mà đồng ý, cùng sự chấp thuận của Phó Hiệu trưởng trường đại học của anh ấy, từ bỏ chức vụ đó và đảm trách những bổn phận mới tại Rajghat vào tháng hai.

 Thay vì viết những lá thư hàng ngày cho Mary Zimbalist, như K đã làm trong những chuyến viếng thăm trước khi chị không theo cùng anh, bây giờ K đọc những lá thư dài hơn hầu như mỗi ngày vào một băng cát xét rồi gửi cho chị. Việc này bởi vì tay của anh đã bị run. Anh kể cho chị từ Rajghat, vào ngày 9 tháng mười một, rằng áp suất máu của anh đã hạ thấp đáng kể và hai chân của anh đã ‘loạng choạng’ đến độ hầu như anh không thể bước đi; ngày hôm trước anh đã khụy xuống trên những bậc tam cấp bởi vì anh không thể nhấc chúng lên. Dr Parchure đang giao cho anh vài bài thể dục để tập luyện và xoa bóp hai chân của anh bằng dầu, và anh chắc chắn rằng chúng sẽ nhanh chóng khỏe lại. Anh không còn cảm thấy anh có thể ngồi ăn chung với mọi người và đang dùng những bữa ăn trong giường. Người ta luôn luôn đến gặp anh trong phòng riêng và anh tổ chức những bàn luận ở đó. Pupul Jayakar, Nandini Mehta, Radhika Herzberger, Sunanda và Pama Patwardhan đều ở tại Rajghat. Đến ngày mười một hai chân của anh tương đối đỡ và anh hoàn toàn cảm thấy khỏe khoắn lại. Anh nói về vẻ đẹp của con sông khi mặt trời mọc khoảng 6 giờ 15. Anh đang đọc quyển Lincoln của Gore Vidal và khen nó ‘rất tuyệt vời’.

 Bất kể sự suy giảm sức khỏe của anh, K thực hiện hai nói chuyện trước công chúng tại Rajghat và tham dự một loạt những bàn luận cùng những ủy viên Ấn độ và vài học giả Phật giáo, kể cả Jagannath Upadhyaya.76 Chính phủ Ấn độ đã trao một tài trợ về nghệ thuật cho G. Aravindan, một đạo diễn phim nổi tiếng, để thực hiện một cuốn phim đủ độ dài được đặt nền tảng trên sống của K, The Seer who walks alone Người thấy rảo bước Cô đơn. Cuốn phim đã được khởi quay năm trước và những cảnh cuối được quay tại Rajghat trong suốt chuyến viếng thăm cuối cùng này của K.

 Khi K tiếp tục đến Rishi Valley vào cuối tháng mười một, anh lộ rõ sự yếu ớt của anh, theo Dr Parchure, trong những chuyến dạo bộ buổi chiều khi anh ‘nghiêng ngả về bên phải nhiều đến độ có lẽ anh ngã xuống’. Anh cũng đang cảm thấy lạnh ghê lắm, có thể bởi vì anh đã giảm cân nhiều. Anh bảo với Mary rằng những cái chăn và một chai nước nóng không thể giữ cho thân thể của anh ấm áp vào ban đêm; nhiệt độ đã hạ xuống 48 độ F ngay cả vào những buổi sáng. Anh đang dùng bữa một mình trong phòng như anh đã ăn tại Rajghat và cũng dự định làm như thế ở Madras. Nhưng dường như anh vẫn không có ý tưởng là anh bệnh đến mức độ nào, bởi vì, vào ngày 4 tháng mười hai, anh nói cho Mary rằng anh sẽ đi từ Madras đến Bombay vào ngày 20 tháng giêng, rời Bombay đi London vào ngày 12 tháng hai và, sau bốn ngày tại Brockwood, sẽ tiếp tục đi máy bay đến Los Angeles và anh sẽ gặp lại chị vào ngày 17 tháng hai. (Thật ra, đó là ngày anh sẽ chết). Vào ngày 11 anh nói rằng anh đang cảm thấy khỏe hơn nhiều, hai chân của anh đang trở nên ‘hơi hơi vững vàng’.

 Vào giữa tháng mười hai, những giáo viên từ tất cả những trường học của Krishnamurti tụ họp tại Rishi Valley cho một hội nghị. Scott Forbes, một trong những người đến từ nước Anh, đã bị xúc động vô cùng bởi sự suy giảm thân thể trong K. Anh ấy sẽ viết sau đó:

Những người tại Rishi Valley rất lo lắng về sự yếu ớt của K, và tất cả những học sinh lẫn giáo viên rất dịu dàngý tứ với anh. Có một ý thức của điềm báo trước trong không gian. Người ta không nói công khai về điều đó – ít nhất không đối với tôi – nhưng đã có nhiều hàm ý loan truyền rằng họ không mong chờ Krishnamrti sẽ có lần quay lại Rishi Valley. Krishnamurti đúng là đang chuẩn bị cho mọi người điều này bởi vì dần dần người ta đã chấp nhận rằng có thể anh sẽ không quay lại Ấn độ.

 Radhika đang đảm trách nhiệm vụ nữ chủ nhà cho mọi người, điều hành hội nghị này và cố gắng chăm sóc Krishnaji cũng như giải quyết những trách nhiệm liên tục của cô trong trường. Tôi nhớ đã tự suy nghĩ nhiều lần rằng cô đã làm rất giỏi và đang xử lý tuyệt vời một tình huống rất, rất khó khăn.77

 

Mọi người rất ngạc nhiên khi K tham dự hội nghị của những giáo viên, nói chuyện ba lần và ‘sắp xếp toàn sự việc trên một nền tảng khác và tỏa ra sự cao cả’, theo một trong những giáo viên người Anh. Vào dịp cuối cùng, K hỏi liệu có một thông minh không được sinh ra từ hiểu biếtvì vậy được tự do khỏi tánh tư lợi. Anh vẽ ra một khác biệt giữa cái trí và bộ não, cái sau là hệ thống vật chất, từ cốt lõi là chỗ ngồi của tư tưởng. Cái trí hoàn toàn khác hẳn bộ não và không liên quan gì đến tư tưởng như thời gian. Anh hỏi, ‘Thời gian có dính dáng với tốt lành?’ và đề nghị rằng, trái với trải nghiệm của con người, tốt lành không liên quan đến xấu xa, hoặc như một phản ứng đến nó hoặc như một trạng thái cơ bản. Anh mang lại cho hội nghị, mà đang bàn luận những chủ đề đó như những chương trình giảng dạy, điều gì, đối với K, là toàn mục đích của những trường học – sản sinh một bộ não mới mẻ bằng cách nào và nở hoa trong tốt lành có nghĩa gì.78

K cũng một mình nói chuyện với các trẻ em trong khi anh có mặt tại Rishi Valley. Anh nhấn mạnh, như anh đã chỉ dẫn cho chúng tôi trong năm 1924 tại Pergine rằng, sự việc tồi tệ nhất là lớn lên tầm thường. Bạn có thể đạt được vị trí cao nhất trên quả đất. Nó là một vấn đề của tồn tại, không phải của thành tựu.

Có sự bàn luận giữa Radhika Herzberger và Scott về một trung tâm tìm hiểu nhỏ sẽ được xây dựng tại Rishi Valley, được tài trợ bởi Friedrich Grohe. Những trung tâm nhỏ cũng sẽ được xây dựng tại Rajghat và tại Uttar Kashi ở Himalayas gần Dehradoon, trên một mảnh đất đã được hiến cho India Foundation và không thể đến được vào mùa đông. Friedrich cũng tài trợ những tòa nhà này.

Một con hoopoe – một con chim có mỏ dài và mào cao – thường đậu trên bệ cửa sổ phòng ngủ của K suốt những bàn luận này, mổ vào tấm kính, muốn bay vào. Nó đã làm công việc này vào nhiều dịp ghé thăm. K chưa bao giờ cho nó ăn và dường như nó không có lý do nào để bay vào, tuy nhiên nó luôn luôn ở đó. K nói chuyện với nó và nói rằng nó thích nghe âm thanh của giọng nói anh. Như thường lệ nó ở đó, mổ vào ô cửa kính trong suốt chuyến viếng thăm cuối cùng của K. Người ta có thể nghe tiếng mổ rất rõ rệt khi lắng nghe băng cát xét của bàn luận.79

Vào ngày 19 tháng mười hai, hai ngày trước khi anh rời đó đi Madras, K đang kể cho Mary trên băng cát xét hàng ngày của anh:

 

Anh đang giảm cân nhiều lắm. Dường như anh bị mệt rất mau. Giữa tháng giêng em sẽ biết liệu anh không đi Bombay và hay anh đi chuyến máy bay của Singapore Airline từ Madras đến Singapore, từ Singapore đến LA . . . Việc đó làm sốt ruột anh lắm – không phải ghé Heathrow - London và sau đó năm ngày, đi một chuyến bay khác đến LA . . . Chúng ta sẽ chờ mọi việc ra sao. Thật ra, anh khỏe lắm, không bị đau tim, không bị nhức đầu; bộ não của anh vẫn bình thường, gan và mọi thứ đều tốt, nhưng có vẻ anh không thể tiếp tục lên cân. Anh đang bị giảm cân, vì vậy có lẽ khôn ngoan khi đi đến Singapore rồi bay thẳng qua biển Thái bình dương . . . nhưng vì anh viết cho em mỗi ngày, nói với em mỗi ngày, em sẽ biết. Chúng ta hãy chờ điều gì xảy đến. Càng đi ít càng tốt cho anh, lúc này mọi thứ làm anh mệt lắm.

 

Có nhiều ngắt đoạn trong cuốn băng này khi K nói với cái gì đó mà chắc chẳn là con chim hoopoe: ‘Vào đây đi. Tôi ở đây nè, thôi mà. Thôi mà cô gái thân yêu. Tôi ở phía này nè. Hãy đến và ngồi xuống đi. (Xin lỗi, anh đang nói chuyện với những con chim.) Em có đôi mắt rất sắc, phải không!’

Ngày 21, như anh bảo Mary, anh hủy bỏ những nói chuyện Bombay của anh và quyết định đi máy bay đến Los Angeles quá cảnh Singapore. Anh tiếp tục nói, ‘Anh không thể sụt cân thêm nữa. Anh đã sụt nhiều lắm rồi và nếu còn bị sụt nữa anh sẽ yếu lắm và sẽ không thể đi được nữa. Việc đó sẽ không tốt gì cả.’

Lúc này anh yêu cầu Scott theo anh đến Ojai thay vì quay lại Châu âu cùng những giáo viên khác và yêu cầu đổi vé của Dr Parchure và anh để đi máy bay Singapore Airline và mua một vé cho Scott. May thay, Scott có một American Express card để thực hiện sắp xếp này. K không thể chịu được cái lạnh của Châu âu. Anh muốn rời ngay sau những nói chuyện Madras, và những gặp gỡ của những ủy viên Ấn độ sẽ theo sau, là kết thúc.

Dr Parchure sắp xếp cho K có một hội chẩn với một bác sĩ nổi tiếng ngay khi anh đến Madras. Lúc này anh chỉ cân nặng 97 lbs và đang bị sốt. Bác sĩ, đang nghi ngờ anh bị khối u ác tính nào đó, muốn thực hiện những thí nghiệm, nhưng K không đồng ý thực hiện bất kỳ việc gì mà sẽ gây ảnh hưởng những nói chuyện của anh. Anh thực hiện ba thay vì bốn nói chuyện trước công chúng, vào những chiều tối trong vườn của Vasanta Vihar, và yêu cầu Scott chuyển sớm ngày đi từ ngày 17 tháng giêng lên ngày 10. (Dr Parchure ghi lại, gần như anh đang vội vàng về Ojai để Dr Deutch chăm sóc.) Mặc dù anh bệnh ghê lắm, anh tiếp tục dạo bộ mỗi ngày trong những buổi chiều hơi muộn trên bãi biển từ nhà của Radha Burnier.

Vào đầu tháng giêng tất cả những người đang ở tại Vasanta Vihar, ngoại trừ K, đi xem buổi chiếu đầu tiên của cuốn phim Aravinda ở Madras mà đã được hoàn thành trong một thời gian ngắn kỷ lục. Có vài cảnh quay đẹp trong cuốn phim, mặc dù hơi đáng tiếc là những nơi chúng ta thấy K đang dạo bộ hay nói chuyện lại không được nhận ra.80 K chấm dứt nói chuyện lần thứ ba của anh vào ngày 4 tháng giêng năm 1986 – nói chuyện cuối cùng mà anh đã thực hiện – bằng những từ ngữ:

 

Sáng tạo là cái gì đó thiêng liêng nhất. Đó là sự việc thiêng liêng nhất trong sống và nếu bạn đã tạo ra sự hỗn loạn trong sống, thay đổi nó. Thay đổi nó hôm nay, không phải ngày mai. Nếu bạn còn ngờ vực hãy tìm ra tại sao và hãy kiên định. Nếu suy nghĩ của bạn không ngay thẳng, hãy suy nghĩ ngay thẳng, hợp lý. Nếu tất cả điều đó không được sẵn sàng, nếu tất cả điều đó không được giải quyết, bạn không thể thâm nhập vào thế giới của sáng tạo này.

kết thúc. (Hai từ này hầu như không nghe rõ, được thở ra thay vì được nói. Chúng chỉ nghe được trên băng cát xét. Chúng không thể nghe được bởi khán giả.)

 

Tiếp theo, sau khi ngừng lâu, anh thêm vào, ‘ Đây là nói chuyện cuối cùng. Các bạn có muốn cùng nhau ngồi yên lặng một chốc lát không? Được rồi, thưa các bạn, hãy ngồi yên lặng một chốc lát.’81

Tại gặp gỡ Indian Foundation tiếp theo sau những nói chuyện, K khẳng định rằng những ngôi nhà nơi anh đã sống không nên trở thành những nơi dành cho sự hành hương, rằng không hệ thống thờ cúng tôn giáo nào được khai triển quanh anh. Và anh yêu cầu những ghi nhớ dưới đây được thêm vào trong những nội quy và điều lệ của Foundation:

 

Dù trong bất kỳ tình huống nào, không Foundation hay bất kỳ những học viện nào trong sự bảo trợ của nó, hay bất kỳ những thành viên của nó sẽ tự-thiết lập họ như những thẩm quyền trên những lời giảng của Krishnamurti. Điều này phù hợp với sự tuyên bố của Krishnamurti rằng không người nào tại bất kỳ nơi nào có quyền tự-thiết lập như một thẩm quyền trên anh và những lời giảng của anh.82
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6592)
Bổn nguyện tức là bốn mươi tám lời nguyện. Sau khi Tịnh Tông được thành lập thì chúng ta niệm Phật y theo ‘bổn nguyện’.
(Xem: 6540)
Hành vi đời sống của chính mình chính là Phương tiện khéo léo của sáu phép Ba La Mật. Dùng sáu phép này để tu sửa lại tất cả những hành vi sai lầm đã phạm phải ở ngay trong cuộc sống thường ngày của chúng ta.
(Xem: 6328)
Kinh Vô Lượng Thọviên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh.
(Xem: 6685)
Phật dạy rằng tất cả nhân quả thiện ác trên thế gian như bóng theo hình, không sai chạy tơ hào. Song, những kẻ không tin tưởng luật nhân quả thì cho đó là lời rỗng tuếch.
(Xem: 7840)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 7218)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6776)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 6392)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 5442)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5887)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 7250)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 6456)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 13248)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 6221)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7653)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 6045)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 6472)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 5355)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4903)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8951)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 7169)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7973)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 6400)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 6093)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6928)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 7192)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 8202)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 5310)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 5236)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5763)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 13977)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 10964)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 11635)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 11568)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 11248)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 13066)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 11302)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 11978)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 10959)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 9880)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 10776)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 16002)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 9898)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 10357)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10740)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 10058)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 11777)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 10854)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 9419)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 10876)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 9920)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 10658)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 10048)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 9473)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 10248)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 10253)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 9922)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 10705)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 10293)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 10022)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
Quảng Cáo Bảo Trợ
free website cloud based tv menu online azimenu
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant