Việt dịch: Đệ tử Bồ-tát giới Định Huệ
Kinh Vô Lượng Thọ là viên giáo xứng tánh của Như Lai, là hóa nghi sẵn đủ của chúng sanh. Nơi cõi chân như, trong cửa giải thoát vốn không có một pháp nhưng lại vào khắp vi trần, ứng các căn cơ mà cứu cánh rỗng lặng; chỉ vì chúng sanh chẳng liễu ngộ nguồn tâm mà bị trói buộc một cách hư dối vào đủ thứ khổ não, huyễn sanh huyễn diệt, chợt xuống chợt lên. Nếu muốn nhổ gốc sanh tử, cắt nhân ái dục mà chẳng mở môn niệm Phật thì đâu biết con đường về nhà. Vì thế Đấng Pháp Vương dủ lòng từ mẫn, giương rộng lưới nguyện tóm thu kinh được chư Phật hộ niệm[1], trang nghiêm cõi nước vốn sẵn thanh tịnh của chúng sanh. Biển giác vô biên thu nạp vô vàn ngọn sóng, mây từ vô tận tuôn mưa thấm nhuần khắp cõi đại thiên, Vừa niệm hồng danh A-di-đà Phật thì liền khô cạn nguồn tội, lúc nhất niệm vẹn toàn thì liền bước lên đất báu. Bản thân ta và Phật không có ngăn cách, vượt qua mười muôn ức cõi nước chẳng phải là xa; phàm thánh không sai khác, ngay ba mươi hai tướng cả hai đồng đủ. Điều quý nhất là tâm này làm Phật, ngay nơi Phật sáng tỏ tâm; hội vạn thiện để đồng quy, nắm nhất tâm để bất loạn. Nơi hoa sen vi diệu, mẹ con rốt cuộc gặp nhau, trong tướng bạch hào đâu có khổ vui gián cách. Từ đây nắm trí ấn của Văn-thù, mãn nguyện vương của Phổ Hiền; chẳng động mảy lông mà được các tam-muội, không dời nửa bước mà đến khắp mười phương; được thọ ký bồ-đề, lên ngôi bất thoái. Phương tiện như thế, ai mà chẳng biết ơn sâu; hễ đủ linh tri đều nên tin nhận.
Nếu người chấp hữu bác không, trệ tình mê tánh, lưu luyến thân huyễn trăm năm, không biết đạo huyền vạn cổ thì dù có đem thuốc tiên chuyển con bọ hung đi nữa, nó cũng chẳng thể nào bay cao; chắp cánh làm cho con phù du rạng rỡ đi nữa thì nó cũng chẳng tồn tại đến hết buổi sáng, đứa con nghèo cùng trôi nổi nhận chốn nghèo hèn làm quê nhà, sống đời điên đảo, khóa chặt chân giác trong đêm dài mộng mị. Dẫu cho ân cần chỉ dạy nhưng ai có thể theo ngón tay chỉ điểm mà biết đường về, cũng có người phá tướng rồi cho rằng hoàn toàn không có gì cả, đó là kẻ chấp thuốc thành bệnh; không nhận Đức Từ Tôn ở ngoài tâm, bỏ cõi Cực Lạc cho là như đồ thừa. Họ chỉ biết đắm đuối nơi tịch tĩnh u nhàn mà chẳng xét là đang chôn vùi thiên chân, trái với tánh giác, như thấy bóng sáng lọt qua khe cửa, mà không thấy hết ánh sáng mặt trời, chỉ thấy nước trong gáo nổi sóng mà chẳng tin có biển cả rộng lớn mênh mông. Điều này giống như bà lão ở thành Đông dù Phật hiện ra trước mặt cũng vô ích, Diễn-nhã-đạt-đa bỗng nhiên tự nói mất đầu rồi đâm ra sợ hãi.
Than ôi! Thân người khó được, chí đạo khó được nghe, một hơi thở ra không hít vào, đã thành đời khác, một phen bị đọa vào ba đường ác, biết đến năm nào mới được thoát ra, nhà lửa cháy bừng, vậy mà còn mãi ở trong đó chơi đùa, thân thọ báo qua lại trong sáu nẻo luân hồi nhiều như số cát sông Hằng không cùng tận, chỉ do vì chẳng liễu ngộ nhất tâm chân như nên mới đến nỗi bị trầm luân nhiều kiếp. Nếu muốn vượt ngang ba cõi, chi bằng qua thẳng Tây Phương. Phật nói các kinh Tịnh Độ, đại khái có bốn, năm bộ, nếu nói về bản kinh hoàn bị nhất thì phải kể đến kinh này. Tiếc thay! Các sư sớ giải chưa kịp xiển dương, bản hiệu san của ông Vương Nhật Hưu có hơn phân nửa bị sai lầm. Tôi chẳng lượng sức mình ngu tối, đánh bạo nói sơ lược cương tông, dẫn chứng kinh điển để quy về nhất thật.
I.Nói về giáo thể
II.Nói về giáo tướng
III.Nói về quy thú
IV.Giải thích văn kinh
V.Hồi hướng Cực Lạc
Đặt tên chung là Khởi Tín Luận, mục đích của luận này là phá tà chấp không hữu, nói chánh tông viên đốn, mở cơ duyên mà chư sư chưa mở, cứu lỗi lầm của Vương Long Thơ[2] đã hiệu san sai lầm, ngỏ hầu khai Phật tri kiến, thị Phật tri kiến, ngộ Phật tri kiến, nhập Phật tri kiến, dẫn dắt khắp quần sanh đồng về Cực Lạc.
I.Nói về giáo thể
Muốn nói về giáo thể thì phải quán pháp tánh. Pháp tánh thì bất sanh bất diệt, bất đoạn bất thường, tâm chỉ là cái tên tạm gọi thì quốc độ nương gá vào đâu! Nhưng phi tâm phi độ mà tức tâm tức độ, thủ xả đều trừ, thấy nghe đều dứt thì đâu thể nào sanh chấp trước, lầm nói thị phi. Sơ lược nêu ra bốn nghĩa để tìm hiểu về pháp tánh: 1. Tự tha không hai, 2. Tánh tướng không hai, 3. Nhân quả không hai, 4. Chúng sanh và Phật không hai.
1.Tự tha không hai: Pháp thân chư Phật trùm khắp pháp giới, toàn tự toàn tha, chẳng chống trái, chẳng chướng ngại nhau. Theo hóa nghi thì hiện ra có chủ có bạn, như Tỳ-lô-giá-na làm chủ thì các Đức Phật khắp mười phương làm bạn cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết vi trần số cõi Phật, không cõi nào chẳng phải là pháp giới Tỳ-lô-giá-na. Như Đức Phật Vô Lượng Thọ làm chủ thì các Đức Phật khắp mười phương làm bạn cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết vi trần số cõi Phật, không cõi nào chẳng phải là pháp giới Vô Lượng Thọ, cho nên kinh này nói ánh sáng của Đức Phật Vô Lượng Thọ chiếu khắp Hằng sa cõi nước ở phương Đông, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương cạnh, phương trên, phương dưới cũng giống như vậy. Pháp tánh là như vậy, không có chia cắt thành từng bộ phận, như kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “Ta dùng diệu minh bất sanh bất diệt hợp Như Lai tạng mà Như Lai tạng chỉ là diệu giác minh viên chiếu pháp giới. Thế nên, ở trong đó một là vô lượng, vô lượng là một, trong nhỏ hiện lớn, trong lớn hiện nhỏ, chẳng rời đạo tràng mà hiện khắp mười phương, thân bao hàm hư không vô tận khắp mười phương, trên một đầu sợi lông hiện cõi nươc Phật, ngồi trong hạt bụi chuyển diệu pháp luân”. Vì thế nên biết Đức Phật Vô Lượng Thọ hiện trước mắt tất cả chúng sanh ở khắp mười phương, chẳng thể dùng tâm tư duy mà sanh phân biệt. Hoặc có người nói Hoa Nghiêm là thật, Cực Lạc là quyền, phải biết nói như thế là không đúng, vì pháp thân chư Phật không có tự tha.
Hỏi: Vậy thì, tại sao không niệm Lô-xá-na mà niệm Phật Vô Lượng Thọ?
Đáp: Vì lời dạy của Đức Phật Thích-ca, vì bản nguyện của Đức Phật Vô Lượng Thọ, vì mười niệm vãng sanh, vì chóng lên bất thoái.
2.Tánh tướng không hai: Luận Đại thừa khởi tín nói: “ Từ xưa đến nay, sắc tâm không hai, vì tánh của sắc thân tức là trí cho nên thể của sắc thân vô hình được gọi là trí thân; vì tánh của trí tức là sắc thân cho nên được gọi là pháp thân ở khắp tất cả mọi nơi. Sắc thân hiện ra không có giới hạn cục bộ, tùy tâm có thể thị hiện vô lượng bồ-tát, vô lượng báo thân, vô lượng trang nghiêm ở khắp các thế giới trong mười phương, mỗi thân sai khác đều không có giới hạn cục bộ và không chướng ngại nhau”. Vì thế, trong kinh Hoa nghiêm nói thế giới, hạt bụi, sợi lông, vật hữu hình, vật vô hình thảy đều diễn nói diệu pháp, đầy đủ đồ trang nghiêm của mười phương pháp giới. Kinh Vô Lượng Thọ cũng nói trong mỗi hoa sen, trong mỗi tia sáng, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy, tiếng âm nhạc, hoặc thấy, hoặc nghe, không có một vật nào chẳng phải là thân Phật, không có một tiếng nào chẳng phải là pháp Phật. Vì sao? Vì hữu tình, vô tình phi nhất, phi dị, trong cảnh giới chân như không có bỉ thử.
Hỏi: Pháp tánh đã như thế, trong thế giới Ta-bà, vì sao chẳng thấy Đức Phật hiện thân thuyết pháp?
Đáp: Đức Phật thường thuyết, không lúc nào không thuyết pháp, chỉ vì hữu tình trí cách nên chẳng thấy chẳng nghe. Nếu một niệm chứng nhập pháp giới Phật thì chẳng rời Ta-bà bước thẳng lên Cực Lạc, như kinh Pháp hoa nói: “ Chúng sanh thấy kiếp tận, lúc lửa đốt thế giới, cõi nước Ta an ổn, trời người thường đông đúc”, kinh Duy-ma nói: “ Cõi nước của Ta thanh tịnh mà ông chẳng thấy”. Đây là chỗ tự thọ dụng của chư Phật, tất cả chúng sanh cũng đồng đầy đủ.
Hỏi: Vậy thì đâu cần phải cầu sanh tịnh độ?
Đáp: Sanh tức vô sanh, cõi nước cũng chẳng phải cõi nước, vì hàng bố chẳng ngại viên dung, vì tướng chẳng phải ngoài tánh.
3.Nhân quả không hai: Kinh này nói tỳ-kheo Pháp Tạng vừa phát nguyện xong, trong hư không có tiếng ngợi khen rằng quyết định ắt thành Vô thượng chánh giác. Kinh còn nói chúng sanh một niệm niệm Phật ắt là đầy đủ công đức vô thượng. Phải biết nhân gồm biển quả, quả suốt nguốn nhân, kinh Hoa nghiêm cũng nói lúc vừa mới phát tâm liền thành Chánh giác, vì trong pháp tánh, nhân quả chẳng khác, vì cứu cánh bất khả đắc. Kinh Đại bát-nhã ghi: “Ngài Thiện Hiện hỏi: Đại bồ-tát dùng tâm đầu tiên chứng đắc Vô thượng chánh đẳng bồ-đề hay là dùng tâm sau cùng chứng đắc Vô thượng chánh đẳng bồ-đề? Phật đáp: “ Như lúc đốt đèn, ngọn lửa đầu tiên đốt cháy tim đèn hay ngọn lửa sau cùng đốt cháy tim đèn? Thiện Hiện đáp: “ Bạch Thế Tôn! Theo ý con hiểu, chẳng phải ngọn lửa đầu tiên đốt cháy tim đèn, cũng chẳng lìa ngọn lửa đầu tiên, cũng chẳng phải ngọn lửa sau cùng đốt cháy tim đèn cũng chẳng lìa ngọn lửa sau cùng. Phật dạy: “ Các đại bồ-tát cũng giống như thế, chẳng phải dùng tâm đầu tiên chứng đắc Vô thượng chánh đẳng bồ-đề, cũng chẳng phải lìa tâm đầu tiên chứng đắc Vô thượng chánh đẳng bồ-đề, chẳng phải dùng tâm sau cùng chứng đắc Vô thượng chánh đẳng bồ-đề, cũng chẳng phải lìa tâm sau cùng chứng đắc Vô thượng chánh đẳng bồ-đề”. Nếu có thể như thế mà tin vào pháp môn Tịnh Độ thì trong khoảnh khắc liền đã nghiêm tịnh cõi nước của chư Phật, liền đã đầy đủ công đức vô thượng, thành Phật độ chúng sanh, nhất thời cứu cánh, cùng với tỳ-kheo Pháp Tạng không hai không khác, như trong kinh nói đầy đủ, chân thật không dối.
4.Chúng sanh và Phật không hai: Kinh Đại niết-bàn nói: “Ta dùng Đại bát-nhã quán tất cả hàm linh ở trên núi, trong biển cả, trên đất liền của lục đạo trong tam giới; tam giới này căn bản tánh ly, tất cánh không tịch đồng với tướng hư không, vô danh, vô thức, vĩnh viễn đoạn các hữu, xưa nay bình đẳng không có tưởng cao thấp, không thấy, không nghe, không giác, không biết, không thể trói buộc, không thể giải thoát, không chúng sanh, không thọ mạng, chẳng sanh, chẳng khởi, chẳng tận, chẳng diệt, chẳng phải thế gian, chẳng phải phi thế gian, niết-bàn sanh tử đều bất khả đắc, hai thứ bình đẳng vì các pháp bình đẳng”. Thế nên biết Đức Phật Vô Lượng Thọ chẳng ở Cực Lạc, chúng sanh chẳng ở Ta-bà, vốn tự không có uế thì từ đâu lấy tịnh; chỉ vì chúng sanh chẳng giữ tự tánh, ở trong nhất thể, lầm sanh đồng dị, Đức Phật mới dùng phương tiện đại bi để độ thoát họ, cho nên kinh này nói: “Như thế chư Phật đều an lập vô lượng chúng sanh nơi chánh đạo của Phật”.
Hỏi: Chúng sanh và Phật đã bất khả đắc, tại sao chư Phật hiện thân tiếp dẫn chúng sanh?
Đáp: Kinh Hoa nghiêm nói: “Ví như mặt trời chiếu khắp thế gian, đều hiện bóng trong tất cả các đồ đựng có nước trong lặng ở khắp mọi nơi mà mặt trời không có qua lại, nếu đồ đựng nước bị vỡ thì bóng chẳng hiện. Mặt trời trí huệ của Như Lai cũng giống như vậy hiện khắp pháp giới, không trước không sau, trong tâm thanh tịnh của chúng sanh, Phật đều hiển hiện. Tâm chúng sanh thường thanh tịnh thì thường thấy thân Phật. Nếu tâm chúng sanh ô trược thì chẳng được thấy thân Phật. Vậy thì, Phật vốn không đến mà đến, chúng sanh thật không đi mà đi, theo tâm chúng sanh mà hiện có đến đi.
II.Nói về giáo tướng
Muốn nói về giáo tướng thì phải biết về nhân duyên. Chư Phật vì nhân duyên mà xuất hiện ở thế gian, chúng sanh nhờ nhân duyên mà chứng chân. Nếu chỉ quán pháp tánh mà chẳng thông đạt nhân duyên thì đóng bít cửa phương tiện, không có phần tiếp dẫn; sáu nẻo luân hồi do đâu mà được ra khỏi, vạn đức do đâu mà được viên mãn. Sơ lược chia ra làm bốn môn để nói ý nghĩa của kinh: 1.Môn tín, 2.Môn nguyện, 3.Môn niệm, 4.Môn hạnh.
1. Môn tín tức là kinh này nói: “Chúng sanh nghe danh hiệu Phật, tín tâm hoan hỷ, chí tâm hồi hướng, nguyện sanh về nước Cực Lạc”. Lại nói: “Sáng suốt tin Phật trí cho đến thắng trí v.v...”. Kinh Hoa nghiêm nói: “Tin sâu chư Phật và Phật pháp, cũng tin đạo của bồ-tát tu hành và tin Vô thượng bồ-đề, bồ-tát lấy đây để bắt đầu phát tâm”. Lại nói: “Thà ở trong vô lượng kiếp chịu khổ nơi các đường ác, chứ chẳng bao giờ bỏ Như Lai mà cầu xuất ly”. Kinh Duy-ma nói: “Bồ-tát ở trong đường sanh tử đáng sợ phải nên nương vào sức công đức của Như Lai”. Chúng sanh kém hiểu biết nghe nói cảnh giới bất tư nghị của chư Phật, phần nhiều sanh ra nghi ngờ; ngay cả hàng nhị thừa như Thanh văn còn chẳng tin có chư Phật ở phương khác, vì chẳng biết Phật không ngoài tâm này, vì ngoài tâm không có Phật. Nếu biết Phật không ngoài tâm này thì biết tha Phật tức là tự Phật, mà cũng chẳng hoại tướng tự tha thì người này có khả năng vào vô biên cõi nước Phật, khởi vô lượng hạnh môn. Vì cảnh giới của tự tâm bất tư nghị nên biết cảnh giới của chư Phật cũng bất tư nghị đến như nguyện lực, công đức, trí huệ, thần thông của Đức Phật Vô Lượng Thọ tròn đồng thái hư, rộng khắp Hằng hà sa thế giới, chẳng phải có thể tánh toán được, chẳng phải tình thức có thể lường được. Nếu người nghe kinh này rồi quyết định tin vào mà chẳng kinh, chẳng sợ, chẳng hãi thì phải biết người này đã trồng thiện căn ở chỗ vô lượng các Đức Phật, sẽ được bất thoái chuyển đối với A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, hơn hàng Thanh văn gấp trăm nghìn vạn ức lần, huống là người khác!Thế nên phải biết vào trong môn này thì tín là bậc nhất. Luận Tỳ-bà-sa nói: “Nếu người trồng thiện căn, nghi thì hoa không nở, người tín tâm thanh tịnh, hoa nở liền thấy Phật”. Vì sao? Vì một niệm tín tâm vượt lên tình chấp, đủ Phật tri kiến.
2. Môn nguyện tức là kinh này nói: “Tuân tu đức của bồ-tát Phổ Hiền” nghĩa là đủ vô lượng hạnh nguyện của các bồ-tát, nguyện thành Chánh giác ở vô lượng thế giới cho đến bốn mươi tám nguyện của ngài Pháp Tạng và các chúng sanh nguyện sanh về cõi nước Cực Lạc. Tất cả hạnh môn đều từ nguyện khởi; nguyện như mầm tốt, chẳng có mầm thì chẳng có trái; nguyện như người dẫn đường giỏi, chẳng có người dẫn đường thì chẳng đi được đến nơi. Nhưng tâm có rộng hẹp cho nên nguyện có lớn nhỏ; chỉ có người phát tâm tương xứng với lượng của pháp giới mới có thể vào nguyện ba-la-mật của chư Phật, như trong kinh Hoa nghiêm, bồ-tát Phổ Hiền bảo Thiện Tài: “Người muốn thành tựu môn công đức của Như Lai thì phải tu mười hạnh nguyện rộng lớn: 1.Lễ kính chư Phật, 2.Khen ngợi Như Lai, 3.Rộng tu cúng dường, 4.Sám hối nghiệp chướng, 5.Tùy hỷ công đức, 6.Thỉnh chuyển pháp luân, 7.Thỉnh Phật trụ thế, 8.Thường học theo Phật, 9.Hằng thuận chúng sanh, 10. Hồi hướng cho khắp tất cả chúng sanh”. Mười nguyện này được gọi là nguyện vương, tất cả bồ-tát đều từ mười nguyện này tu hành thẳng đến thành Phật. Nhưng trong đó có một môn tổng trì có năng lực làm cho sở nguyện mau được thành tựu, đó là chẳng lìa niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ, cầu sanh Tây Phương, bài kệ của ngài Phổ Hiền nói:
“Nguyện tôi thời điểm sắp lâm chung,
Trừ hết tất cả các chướng ngại,
Tạn mặt thấy Phật A-di-đà,
Liền được vãng sanh cõi An Lạc.
Tôi đã đã sanh về cõi ấy rồi,
Hiện tiền thành tựu đại nguyện này,
Đầy đủ tất cả không thiếu sót
Lợi ích an lạc các chúng sanh”.
Thế nên biết nguyện vượt trội hơn các nguyện của chúng sanh trong khắp mười phương chánh là nguyện vãng sanh An Lạc. Vì sao? Vì Phật Vô Lượng Thọ là nguyện vương vô thượng, là nguyện vương của tất cả bồ-tát, không có vị bồ-tát nào không lấy nguyện sanh Tây Phương làm cứu cánh.
Nay nói phát nguyện, phải như trong Tây phương hiệp luận nói: “Quyết được vãng sanh:
1.Chẳng vì phước điền nên nguyện mà vì che chở chúng sanh nên nguyện sanh Tịnh độ.
2. Chẳng vì quyến thuộc nên nguyện mà vì quản trị nhà Như Lai nên nguyện sanh Tịnh độ.
3. Chẳng vì bệnh khổ nên nguyện mà vì chữa trị ung nhọt vô minh cho tất cả chúng sanh nên nguyện sanh Tịnh độ.
4. Chẳng vì ngôi vị Chuyển luân vương nên nguyện mà vì chuyển pháp luân của Phật, làm Đại pháp vương nên nguyện sanh Tịnh độ.
5. Chẳng vì Dục giới nên nguyện mà vì lìa tất cả ngũ dục vi diệu nên nguyện sanh Tịnh độ.
6. Chẳng vì Sắc giới nên nguyện mà vì lìa tất tham đắm thiền vị nên nguyện sanh Tịnh độ.
7. Chẳng vì Vô sắc giới nên nguyện mà vì sạch hết các thứ lưu chú vi tế, chứng thân vô lượng tướng hảo nên nguyện sanh Tịnh độ.
8. Chẳng vì Thanh văn, Bich-chi-phật nên nguyện mà vì hai thứ phước trí trang nghiêm lợi ích chúng sanh nên nguyện sanh Tịnh độ.
9.Chẳng vì chúng sanh trong một thế giới, nghìn thế giới nên nguyện mà vì chịu khổ thay cho chúng sanh trong vô số thế giới, cứu chúng sanh khổ trong tất cả thế giới nên nguyện sanh Tịnh độ.
10.Chẳng vì chúng sanh trong một a-tăng-kỳ kiếp, nghìn a-tăng-kỳ kiếp nên nguyện mà vì chịu khổ thay cho chúng sanh trong vô số a-tăng-kỳ kiếp, cứu chúng sanh khổ trong tất cả kiếp nên nguyện sanh Tịnh độ”.
3.Môn niệm tức là kinh này nói “Nhất hướng chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ cho đến mười niệm, một niệm niệm Đức Phật ấy”. Trong kinh Lăng-nghiêm, bồ-tát Đại Thế Chí bạch Phật: “Con nhớ thuở xa xưa cách nay Hằng hà sa kiếp, có Phật xuất thế hiệu là Vô Lượng Quang, mười hai Đức Như Lai nối nhau ra đời trong một kiếp, Đức Phật sau cùng hiệu là Siêu Nhật Nguyệt Quang, Ngài dạy con niệm Phật tam-muội. Ví như có hai người, một người chuyên nhớ, một người chuyên quên, hai người này hoặc gặp nhau hoặc không gặp nhau, hoặc thấy nhau hoặc không thấy nhau. Hai người này nhớ nhau và nhớ nhau sâu sắc, như vậy cho đến từ đời này sang đời khác thì họ gần gũi nhau như bóng với hình, chẳng còn xa cách. Các Đức Như Lai ở khắp mười phương thương nhớ chúng sanh như mẹ nhớ con, nếu con bỏ đi thì mẹ nhớ thương cũng không lôi kéo lại được. Nếu con nhớ mẹ như mẹ nhớ con thì mẹ con đời đời chẳng xa cách nhau. Nếu tâm chúng sanh nhớ Phật niệm Phật thì hiện tại hoặc tương lai chắc chắn thấy Phật, cách Phật chẳng xa, chẳng nhờ phương tiện nào khác cũng được tâm khai. Nhân địa trước kia của con nhờ tâm niệm Phật mà chứng nhập Vô sanh nhẫn, nay con ở thế giới này tiếp dẫn người niệm Phật đưa về tịnh độ. Phật hỏi viên thông, con không có chọn lựa nào khác hơn là pháp tu thu nhiếp cả sáu căn, tịnh niệm nối nhau, đắc tam-ma-địa, đây là bậc nhất”. Kinh Văn-thù sở thuyết bát-nhã nói: “Pháp giới nhất tướng, buộc tâm duyên vào pháp giới, đây gọi là Nhất Hạnh tam-muội. Thiện nam tử, thiện nữ nhân muốn nhập Nhất Hạnh tam-muội phải nên ở chỗ vắng vẻ, rảnh rang, bỏ các tâm ý tán loạn, chẳng chấp tướng mạo, buộc tâm vào một Đức Phật, chuyên xưng danh hiệu, ngồi ngay thẳng day mặt về hướng của của Đức Phật ấy, trong tâm niệm một Đức Phật ấy tương tục thì ở trong niệm này có thể thấy các Đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại. Vì sao? Vì công đức niệm một Đức Phật vô lượng vô biên cũng không khác với công đức của vô lượng các Đức Phật. Người nhập Nhất Hạnh tam-muội như thế biết hết tướng pháp giới vô sai biệt của Hằng hà sa Chư Phật”. Lại như trong kinh Bát-chu, Phật dạy: “Do đâu mà đắc tam-muội Chư Phật hiện tại đứng ở trước mặt? Nếu có bốn chúng[3]trì giới đầy đủ, ở yên một mình, tâm niệm Phật A-di-đà ở phương Tây hiện đang cách đây mười muôn ức cõi Phật, tên cõi nước ấy là Tu-ma-đề (Hán dịch: Cực Lạc hoặc An Lạc), Ngài đang nói kinh cho các bồ-tát nghe. Những người thường niệm Đức Phật A-di-đà thì ví như người nằm mộng thấy thất bảo và cùng quyến thuộc vui chơi, thức dậy rồi kể lại việc ấy. Nếu người niệm Phật A-di-đà một ngày một đêm, hoặc bảy ngày bảy đêm, nếu lúc thức không thấy Phật A-di-đà thì trong mộng sẽ thấy. Lúc tâm niệm Phật thì những chỗ tối tăm bị núi lớn che trong các cõi nước của chư Phật thảy đều mở toang, chẳng cần thần túc mà vẫn đến được cõi Cực Lạc, ngồi tại thế gian mà vẫn thấy Phật A-di-đà và được nghe Phật nói kinh”. Ba kinh kể trên đều nói đủ niệm lực bất khả tư nghị, thế nên biết một niệm, mười niệm cho đến nhất hướng chuyên niệm, Đức Phật Vô Lượng Thọ theo tâm của chúng sanh mà niệm niệm xuất hiện. Chúng sanh nào có một niệm niệm Phật thì có một tâm thanh tịnh, có một tâm thanh tịnh tức là có một thân thanh tịnh, có một thân thanh tịnh tức là có nhiều thân thanh tịnh, có nhiều thân thanh tịnh tức là có một thế giới thanh tịnh, có một thế giới thanh tịnh tức là có nhiều thế giới thanh tịnh, như vậy cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết Hằng hà sa số thế giới thanh tịnh. Đến lúc lâm chung, tùy theo niệm lực của người ấy, thấy Phật và vãng sanh, tự tánh tự độ vì tâm này làm Phật.
4.Môn hạnh tức là kinh này nói tỳ-kheo Pháp Tạng và các bồ-tát tích tập vô lượng công đức cho đến công đức của người trong tam bối vãng sanh tu. Trong kinh Duy-ma, trưởng giả Bảo Tích bạch Phật; “ Cúi xin Thế Tôn nói về hạnh tịnh độ của các bồ-tát. Phật dạy: Chúng sanh là tịnh độ của bồ-tát. Vì sao? Vì bồ-tát tu tịnh độ là vì lợi ích chúng sanh. Ví như có người muốn xây cất nhà cửa ở mặt đất thì tùy ý vô ngại, nếu xây cất trên hư không thì không thể nào được. Cũng vậy, bồ-tát vì thành tựu chúng sanh nên nguyện sanh về cõi nước Phật; nguyện sanh về cõi nước Phật tức là chẳng phải xây nhà trên hư không. Nếu bồ-tát muốn được tịnh độ thì phải tịnh tâm mình, theo tâm mình tịnh mà cõi nước Phật tịnh”. Trong kinh Bảo tích, Phật bảo Di-lặc: “Phát mười tâm sau đây thì được vãng sanh Cực Lạc:
1.Khởi tâm đại từ không làm tổn hại chúng sanh.
2. Khởi tâm đại bi không làm bức não chúng sanh.
3.Tâm ưa thủ hộ chánh pháp của Phật, không tiếc thân mạng.
4.Phát tâm thắng nhẫn không chấp trước tất cả pháp.
5.Tâm thích thanh tịnh không tham lợi dưỡng, cung kính, tôn trọng.
6.Tâm cầu Phật trí, không lúc nào quên mất.
7. Tâm tôn trọng cung kính đối với chúng sanh, không dám xem thường.
8.Tâm quyết định đối với bồ-đề phần, không say đắm thế luận.
9. Tâm thanh tịnh không tạp nhiễm trồng các thứ thiện căn.
10.Khởi tâm tùy niệm, không lìa bỏ các tướng đối với các Đức Như Lai.
Đây gọi là phát mười tâm bồ-đề, do mười tâm này mà được vãng sanh. Nếu người nào thành tựu một trong mười tâm này muốn vãng sanh về thế giới của Phật A-di-đà mà không được sanh thì thật là vô lý!” Thế nên hành giả đã phát nguyện rồi, chỉ cần lúc làm bất cứ việc gì cũng chẳng rời niệm Phật, lúc đang ở một mình cũng chẳng rời niệm Phật, ở giữa quyến thuộc cũng chẳng rời niệm Phật, nghe nói lời vừa ý hay lời không vừa ý cũng chẳng rời niệm Phật, thấy hình sắc vừa ý hay hình sắc không vừa ý cũng chẳng rời niệm Phật, cho đến vào triều chầu vua, điểm binh ra trận cũng chẳng rời niệm Phật, gặp kiếp đao binh, nhập bọn la-sát cũng chẳng rời niệm Phật. Niệm Phật như thế dần dần có thể sạch hết bốn tướng căn bản: ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, tùy nguyện đầy đủ mười ba-la-mật. Tâm đã là tâm Phật thì đâu có khó gì bước vào cõi nước Phật. Vì sao? Vì một tịnh thì tất cả tịnh.
III.Nói về quy thú:
Muốn nói về quy thú thì cần phải biết nhân duyên chẳng lìa pháp tánh, như kinh này nói ngài Pháp Tạng mới phát tâm trước tiên khai mở Chánh giác, thế nên tam bối vãng sanh đều phải phát tâm bồ-đề, nếu chẳng phát tâm bồ-đề thì bốn môn[4] kể trên chẳng thành an lập. Phát tâm bồ-đề là gì? Bồ-đề nghĩa là giác, nói tóm lại có năm nghĩa: 1.Biết rõ tất cả chư Phật chẳng lìa tự tâm, vì tự tâm thường có chư Phật thành Chánh giác, 2. Biết rõ tất cả cõi Phật chẳng lìa tự tâm, vì tự tâm đầy đủ tất cả cõi Phật trang nghiêm, 3.Biết rõ chúng sanh một niệm niệm Phật quyết định thành Phật, vì tất cả Phật do niệm lực mà thành, 4. Biết rõ chúng sanh phát nguyện cầu sanh tịnh độ chắc chắn được sanh tịnh độ, vì tất cả cõi nước đều do nguyện lực hiện ra, 5.Biết rõ tự tâm như vậy thì tha tâm cũng vậy, có một chúng sanh chẳng sanh tịnh độ, chẳng thành Phật thì cõi nước tôi chẳng thanh tịnh, tôi chẳng thành Phật, vì tôi, Phật, chúng sanh, cả ba không sai khác. Do đây phát khởi tín thì gọi là không tin mà tin; do đây phát khởi nguyện thì gọi là không nguyện mà nguyện; do đây phát khởi niệm thì gọi là không niệm mà niệm; do đây phát khởi hành thì gọi là không hành mà hành.
Sao gọi là không tin mà tin? Kinh Hoa Nghiêm nói; “Phật tử! Những gì là tín tạng của Đại bồ-tát? Bồ-tát này tin tất cả pháp không, tin tất cả pháp vô tướng, tin tất cả pháp vô nguyện, tin tất cả pháp vô tác, tin tất cả pháp vô phân biệt, tin tất cả pháp vô sở y, tin tất cả pháp bất khả lượng, tin tất cả pháp vô hữu thượng, tin tất cả pháp nan siêu việt, tin tất cả pháp vô sanh. Nếu bồ-tát có thể tùy thuận tất cả pháp như thế, sanh niềm tin thanh tịnh rồi, nghe pháp bất khả tư nghị của chư Phật mà tâm không khiếp nhược, nghe tất cả Phật bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe chúng sanh giới bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe pháp giới bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe hư không giới bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe niết-bàn giới bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe thời quá khứ bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe thời vị lai bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe thời hiện tại bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, nghe vào tất cả kiếp bất khả tư nghị mà tâm không khiếp nhược, vì sao? Vì bồ-tát này ở chỗ chư Phật mãi mãi có niềm tin vững chắc, biết trí huệ Phật vô biên vô tận, trong vô lượng thế giới ở khắp mười phương, mỗi thế giới đều có vô lượng chư Phật đã đắc, đang đắc, sẽ đắc Vô thượng chánh đẳng chánh giác, đã xuất thế, đang xuất thế, sẽ xuất thế, đã nhập niết-bàn, đang nhập niết-bàn, sẽ nhập niết-bàn. Trí huệ của các Đức Phật ấy chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng tiến chẳng thoái, chẳng xa chẳng gần, vô tri vô xả. Bồ-tát này nhập trí huệ Phật, thành tựu vô biên vô tận tín, được niềm tin này rồi thì tâm chẳng thoái chuyển, tâm chẳng tạp loạn, chẳng thể phá hoại, không bị đắm nhiễm, tùy thuận thánh nhân, sanh vào nhà Như Lai, hộ trì chủng tánh của tất cả chư Phật, tăng trưởng tín giải của tất cả bồ-tát, tùy thuận thiện căn của tất cả Như Lai, sanh ra phương tiện của tất cả chư Phật, đây gọi là tín tạng của Đại bồ-tát”. Thế nên biết, nguyện lực, công đức, trí huệ, thần thông của Phật Vô Lượng Thọ ở trong tâm chúng sanh chẳng tăng chẳng giảm, chẳng sanh chẳng diệt, chẳng tiến chẳng thoái, chẳng xa chẳng gần, vô tri vô xả, xưa nay vốn là Phật, không còn gì để tin. Trong kinh Lăng-nghiêm, ngài Văn-thù nói: Tôi thật Văn-thù, không có là Văn-thù; nếu có người là Văn-thù thì thành hai Văn-thù”. Tâm, Phật cũng vậy, ta thật Vô Lượng Thọ Phật, không có Phật là Vô Lượng Thọ, niềm tin như vậy mới là niềm tin thanh tịnh, cho nên kinh này nói: “ Biết tất cả pháp thảy đều tịch diệt”. Nếu nghe pháp thâm diệu này mà tâm không nghi sợ thì đây gọi là không tin mà tin.
Sao gọi là không nguyện mà nguyện? Trong kinh Đại Bát-nhã, Phật dạy: “Các Đại bồ-tát có đủ giác ngộ tối thắng, tuy có khả năng vâng làm pháp thâm diệu này nhưng ở trong đó không cầu quả báo. Vì sao? Vì đối với tự tánh không động. Thiện Hiện hỏi: Đối với tự tánh của những pháp nào không động? Phật đáp: Đối với tự tánh vô tánh của tất cả pháp không động. Vì sao? Vì tự tánh của các pháp tức là vô tánh, vô tánh chẳng thể hiện chứng vô tánh”. Trong kinh Tư Ích, bồ-tát Võng Minh nói: “Tánh của A-nậu-đa-la tam-miệu-tam bồ-đề tức là tánh của tất cả chúng sanh, tánh của tất cả chúng sanh tức là tánh của huyễn, tánh của huyễn tức là tánh của tất cả pháp; ở trong pháp này, ta chẳng thấy có lợi, chẳng thấy không lợi. Nếu có bồ-tát hy vọng công đức lợi mà phát tâm bồ-đề thì không được gọi là phát tâm đại thừa. Vì sao? Tất cả pháp không có công đức lợi, vì không có chỗ đền đáp”.
Hỏi: Tất cả pháp đã không có công đức lợi thì vô lượng nguyện vương từ đâu kiến lập?
Đáp: Từ tâm của tất cả chúng sanh kiến lập. Tánh của tất cả chúng sanh vốn thanh tịnh, vì vốn thanh tịnh nên thọ vốn vô lượng, vì vốn thanh tịnh nên quang cũng vô lượng, cho đến các đường ác thống khổ như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, ở trong tâm thanh tịnh vốn bất khả đắc. Thế nên biết tất cả chúng sanh thường trụ Cực Lạc, chỉ ở trong huyễn mộng có Ta-bà, lúc tỉnh cơn huyễn mộng thì Ta-bà đâu còn tồn tại, vốn không đáng chán cũng không đáng ưa, chỉ lấy tâm thanh tịnh mà hồi hướng Phật, cho nên kinh này nói: “ Giác ngộ tất cả pháp như mộng, như huyễn, như âm vang mà đầy đủ các diệu nguyện thì chắc chắn thành tịnh độ”. Đây gọi là không nguyện mà nguyện.
Sao gọi là không niệm mà niệm? Trong kinh Hoa nghiêm, tỳ-kheo Đức Vân bảo Thiện Tài: “Thiện nam tử! Ta đắc Tự tại quyết định giải lực, tín nhãn thanh tịnh, ánh sáng trí huệ chiếu khắp pháp giới, lìa tất cả chướng, khéo léo quán sát, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh, đi qua tất cả cõi nước ở khắp mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật, thường niệm tất cả chư Phật Như Lai, tổng trì chánh pháp của tất cả chư Phật, thường thấy tất cả chư Phật trong mười phương, đó là thấy ở phương Đông có một Đức Phật, hai Đức Phật, mười Đức Phật, trăm Đức Phật, nghìn Đức Phật, trăm nghìn Đức Phật, ức Đức Phật, trăm ức Đức Phật, nghìn ức Đức Phật, trăm nghìn ức Đức Phật, na-do-tha ức Đức Phật, trăm na-do-tha ức Đức Phật, nghìn na-do-tha ức Đức Phật, trăm nghìn na-do-tha ức Đức Phật, cho đến thấy vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết bất khả thuyết Đức Phật, cho đến thấy Diêm-phù-đề vi trần số Đức Phật, tứ thiên hạ vi trần số Đức Phật, thiên thế giới vi trần số Đức Phật, nhị thiên thế giới vi trần số Đức Phật, tam thiên[5] thế giới vi trần số Đức Phật, Phật sát vi trần số Phật, cho đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Đức Phật. Như phương Đông, các phương Nam, Tây, Bắc, bốn phương cạnh và hai phương trên và dưới cũng giống như vậy. Lại nữa, trưởng giả Giải Thoát bảo Thiện Tài: Ta nếu muốn thấy Đức A-di-đà Như Lai ở thế giới An Lạc tùy ý liền thấy. Ta nếu muốn thấy Kim Cang Quang Minh Như Lai ở thế giới Chiên Đàn, Bảo Quang Minh Như Lai ở thế giới Diệu Hương, Bảo Liên Hoa Quang Minh Như Lai ở thế giới Liên Hoa, Tịch Tĩnh Quang Minh Như Lai ở thế giới Diệu Kim, Bất Động Như Lai ở thế giới Diệu Hỷ, Sư Tử Như Lai ở thế giới Thiện Trụ, Nguyệt Giác Như Lai ở thế giới Cảnh Quang Minh, Tỳ-lô-giá-na Như Lai ở thế giới Bảo Sư Tử Trang Nghiêm, các Đức Như Lai như thế ta đều tùy ý liền thấy. Nhưng các Đức Như Lai ấy chẳng đến đây, ta cũng chẳng qua chỗ của các ngài. Ta biết tất cả Phật và tâm ta thảy đều như mộng; biết tất cả Phật đều như bóng, tâm ta như nước; biết sắc tướng của tất cả Phật cho đến tâm ta thảy đều như huyễn; biết tất cả Phật cho đến tâm ta thảy đều như âm vang. Ta biết như vậy, ức niệm như vậy, các Đức Phật được ta thấy đều do tâm ta. Niệm Phật như vậy thì ngay nơi niệm tức là Phật, không còn có Phật nào khác; nơi Phật tức là niệm, không còn có niệm nào khác; Vô Lượng tức là thể của niệm, niệm tức là dụng của Vô Lượng, thể dụng nhất như, tâm tâm tịch diệt, Phật Phật hiển bày. Kinh Viên giác nói: “Viên giác phổ chiếu và tịch diệt không hai, ở trong trăm nghìn vạn ức a-tăng-kỳ bất khả thuyết Hằng hà sa thế giới của chư Phật như hoa đốm trong hư không loạn khởi loạn diệt, chẳng tức chẳng ly, chằng trói buộc, chẳng giải thoát, mới biết chung sanh xưa nay vốn đã thành Phật”. Vậy thì, chẳng rời chỗ này mỗi bước đi trên hoa sen, đâu đợi ngày khác, mỗi hạt bụi đều là tịnh độ, cho nên kinh này nói; “ Trụ vào môn định sâu thấy hết vô lượng các Đức Phật hiện tại, trong khoảng một niệm đến khắp các nơi”. Đây gọi là không niệm mà niệm.
Sao gọi là không hành mà hành? Kinh Hoa nghiêm nói: “Lúc bồ-tát tu hành trong pháp tịch diệt vi diệu thậm thâm thù thắng, cũng chẳng nghĩ rằng ta đang tu hạnh này, đã tu hạnh này, sẽ tu hạnh này, chẳng chấp ngũ uẩn, thập nhị xứ, thập bát giới, nội thế gian, ngoại thế gian, nội ngoại thế gian, đều không chấp trước đại nguyện, các ba-la-mật và tất cả pháp. Vì sao? Vì trong pháp giới không có pháp gọi là hướng đến Thanh văn thừa, hướng đến Độc giác thừa, không có pháp gọi là hướng đến Bồ-tát thừa, hướng đến A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ-đề, không có pháp gọi là hướng đến cõi phàm phu, không có pháp gọi là hướng đến nhiễm, hướng đến tịnh, hướng đến sanh tử, hướng đến niết-bàn. Vì sao? Vì các pháp không hai, không chẳng hai”. Kinh Kim cang bát-nhã cũng nói: “Trang nghiêm cõi nước Phật tức là chẳng phải trang nghiêm, ấy gọi là trang nghiêm.”.
Hỏi:Tất cả pháp đã bất khả đắc thì cần gì phải trang nghiêm cõi nước Phật?
Đáp:Tất cả pháp bất khả đắc vì thế mới trang nghiêm cõi nước Phật. Nếu có một pháp khả đắc thì Phật và chúng sanh mỗi bên đều trụ tự tánh riêng, đồng dị rõ ràng thành hai bên đối địch, Phật chẳng độ chúng sanh, chúng sanh chẳng thành Phật. Chỉ vì một pháp bất khả đắc nên giác ngộ viên mãn, duyên khởi không để lại dấu vết, bản tế bất động, Phật sự phồn hưng. Thế nên biết chúng sanh cầu sanh, thật vốn vô sanh; Phật không hiện mà hiện, Phật tức là chúng sanh; không sanh mà sanh, chúng sanh tức là Phật; cho nên kinh này nói; “Ví như nhà ảo thuật hóa hiện các thứ hình sắc khác nhau hoặc nam, hoặc nữ, vì ông ta đã học thông thuộc nên tùy ý biến hiện đủ thứ”. Đây là không hành mà hành.
Pháp này thật là pháp môn bao gồm vạn thiện, liễu nghĩa của nhất thừa, bồ-tát lấy pháp này để nghiêm tịnh cõi nước Phật, chư Phật dùng pháp này để viên chứng bồ-đề. Các kinh đều ca ngợi pháp tánh như nhiên, hễ tin vào được thì đã gieo hạt giống vào ao báu; vĩnh viễn chặt đứt gốc nghi thì chắc chắn vãng sanh về đất vàng. Điều này cố nhiên xưa nay đầy đủ, nhưng cần phải phương tiện gia công, nhiếp cả sáu căn chỉ đề khởi một niệm, ngộ được tức tâm tức Phật thì tự biết phi Phật phi tâm. Đến phần giải thích văn kinh dùng để khuyến khích.
IV.Giải thích kinh văn
Giải thích văn kinh, sơ lược chia làm bốn phần: 1.Giải thích nhan đề của kinh, 2.Giải thích phần tựa, 3. Giải thích phần chánh tông, 4. Giải thích phần lưu thông.
1.Giải thích nhan đề của kinh: Phạn ngữ A-di-đà, Hán dịch Vô Lượng. Lấy danh hiệu Phật để đặt tên kinh là vì tất cả y báo, chánh báo trang nghiêm đều từ Phật xuất sanh, vừa nêu danh hiệu Phật thì đã bao gồm hết. Phật Vô Lượng Thọ còn có mười hai danh hiệu, xin xem trong văn kinh. Nay chỉ nêu một danh hiệu Vô Lượng Thọ là biểu thị cái thể bất sanh bất diệt, kiêm cả hóa nghi mà nói vì tuổi thọ cực vô lượng của các Đức Phật trong mười phương.
Kinh này trước sau có 5 bản Hán dịch:
1.Kinh Vô Lượng Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác, Chi-lâu-ca-sấm dịch vào đời Hậu Hán.
2.Kinh A-di-đà Hóa Độ Nhân Đạo, cư sĩ Chi Khiêm dịch vào đời Ngô.
3.Kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội trong kinh Đại Bảo Tích, Bồ-đề Lưu-chí dịch vào đời Đường.
4.Kinh Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm, Pháp Hiền dịch vào đời Triệu Tống.
5.Bản kinh Vô Lượng Thọ này do Khang Tăng Khải dịch vào đời Tào Ngụy. Tăng Khải là người nước ngoài (Khang Cư), cuối năm Gia Bình, ngài đến Lạc Dương dịch bốn bộ kinh, kinh này là một trong bốn bộ ấy. Đời Tống, ông Vương Nhật Hưu ở Long Thơ hội thông các bản dịch thành ra một bản, đặt tên là Kinh Đại A-di-đà. Chỉ trừ kinh Vô Lượng Thọ Như Lai Hội trong kinh Đại Bảo Tích, ông chưa được thấy. Trong các bản dịch kể trên, ba bản dịch vào đời Hán, Ngô, Tống, văn và lý chưa tinh tường, bản của ông Vương Nhật Hưu so với các bản kia thì lưu loát thông đạt hơn, thời gần đây được lưu hành rộng rãi. Nhưng cũng có điều đáng bàn là như trong tự phần từ câu ‘du bộ thập phương’ trở xuống nói rộng về hạnh nguyện bồ-tát để cho hành giả phát tâm Đại thừa, tích tập thiện căn phước đức, cứu cánh thành Phật, chánh là yếu lĩnh mở đầu kinh này nhưng ông Vương lại cắt bỏ, đến hai bậc thượng hạ vãng sanh, ông cắt bỏ phát tâm bồ-đề và nói chẳng phát. Một tiết ‘thai sanh’, ông cắt bỏ ‘nghi hoặc Phật trí cho đến thắng trí’. Trước thì trái với chánh nhân thành Phật, sau là đánh mất chánh trí vãng sanh. Còn về thứ tự của nguyện văn thì ông đặt trước sau lộn xộn. Đây là các điều cần phải khảo chánh, bản trong kinh Đại Bảo Tích ý nghĩa đầy đủ rõ ràng, xem kỹ thấy cũng chẳng hay bằng bản dịch của Khang Tăng Khải. Ông Vương lại cắt bỏ ‘khuyến tấn vãng sanh’ cho rằng chẳng cần câu văn ấy mà ông chẳng thấy được thâm ý khuyến tấn của Như Lai, vì thế ngài Vân Thê ( Đại sư Liên Trì Châu Hoằng) chỉ khắc bản của Khang Tăng Khải lưu hành. Nay tôi biên tập chỉnh lý vẫn căn cứ theo bản xưa của Khang Tăng Khải, điều nào thích hợp thì giữ lại; nghĩa cú trong kinh nếu có trùng lặp rườm rà, tôi cẩn trọng tham khảo các bản khác rồi thẩm định kỹ lưỡng, chỉ bỏ các chỗ trùng lặp, chẳng dám thêm vào hoặc sửa đổi. Về số mục trước sau của bốn mươi tám nguyện, tôi dựa theo bản khắc của ngài Vân Thê thêm vào cốt để được tận thiện tận mỹ, chẳng đến nỗi khiến người đời sau than tiếc, xin người đọc biết cho!
1. Thời, xứ nghe kinh:
Như thị ngã văn, nhất thời Phật trụ Vương Xá thành, Kỳ-xà Quật sơn trung.
Tôi nghe như vầy, một thời Đức Phật ở trong núi Ký-xà Quật gần thành Vương Xá
2. Chúng Thanh văn:
Dữ đại tỳ-kheo chúng vạn nhị thiên nhân câu, nhất thiết đại thánh thần thông dĩ đạt. Kỳ danh viết tôn giả Liễu Bản Tế, tôn giả Chánh Nguyện, tôn giả Chánh Ngữ, tôn giả Đại Hiệu, tôn giả Nhân Hiền, tôn giả Ly Cấu, tôn giả Danh Văn, tôn giả Hiền Thật, tôn giả Cụ Túc, tôn giả Ngưu Vương, tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, tôn giả Dà-gia Ca-diếp, tôn giả Na-đề Ca-diếp, tôn giả Ma-ha Ca-diếp, tôn giả Xá-lợi-phất, tôn giả Đại Mục-kiền-liên, tôn giả Kiếp-tân-na, tôn giả Đại Trụ, tôn giả Đại Tịnh Chí, tôn giả Ma-ha Châu-na, tôn giả Mãn Nguyện Tử, tôn giả Ly Chướng, tôn giả Lưu Quán, tôn giả Kiên Phục, tôn giả Diện Vương, tôn giả Dị Thừa, tôn giả Nhân Tánh, tôn giả Gia Lạc, tôn giả Thiện Lai, tôn giả La Vân, tôn giả A-nan, giai như tư đẳng thượng thủ giả dã.
Cùng với chúng tỳ-kheo một muôn hai nghìn người câu hội; tất cả các vị đại thánh này đã đắc thần thông. Tên của các ngài là tôn giả Liễu Bản Tế, tôn giả Chánh Nguyện, tôn giả Chánh Ngữ, tôn giả Đại Hiệu, tôn giả Nhân Hiền, tôn giả Ly Cấu, tôn giả Danh Văn, tôn giả Hiền Thật, tôn giả Cụ Túc, tôn giả Ngưu Vương, tôn giả Ưu-lâu-tần-loa Ca-diếp, tôn giả Dà-gia Ca-diếp, tôn giả Na-đề Ca-diếp, tôn giả Ma-ha Ca-diếp, tôn giả Xá-lợi-phất, tôn giả Đại Mục-kiền-liên, tôn giả Kiếp-tân-na, tôn giả Đại Trụ, tôn giả Đại Tịnh Chí, tôn giả Ma-ha Châu-na, tôn giả Mãn Nguyện Tử, tôn giả Ly Chướng, tôn giả Lưu Quán, tôn giả Kiên Phục, tôn giả Diện Vương, tôn giả Dị Thừa, tôn giả Nhân Tánh, tôn giả Gia Lạc, tôn giả Thiện Lai, tôn giả La Vân, tôn giả A-nan. Các ngài này đều là bậc thượng thủ.
3 .Chúng Bồ-tát:
Hựu dữ Đại thừa chúng bồ-tát câu, Phổ Hiền bồ-tát, Diệu Đức bồ-tát, Từ Thị bồ-tát, thử Hiền kiếp trung nhất thiết bồ-tát. Hựu Hiền Hộ đẳng thập lục chánh sĩ, Thiện Tư Nghị bồ-tát, Tín Huệ bồ-tát, Không Vô bồ-tát, Thần Thông Hoa bồ-tát, Quang Anh bồ-tát, Bảo Tràng bồ-tát, Huệ Thượng bồ-tát, Trí Tràng bồ-tát, Tịch Căn bồ-tát, Nguyện Huệ bồ-tát, Hương Tượng bồ-tát, Bảo Anh bồ-tát, Trung Trụ bồ-tát, Chế Hạnh bồ-tát, Giải Thoát bồ-tát, giai đạo Phổ Hiền đại sĩ chi đức, cụ chư bồ-tát vô lượng hạnh nguyện, an trụ nhất thiết công đức chi pháp, du bộ thập phương, hành quyền phương tiện, nhập Phật pháp tạng, cứu cánh bỉ ngạn. Nguyện ư vô lượng thế giới hiện thành Đẳng giác, xử Đâu-thuật thiên hoằng tuyên chánh pháp, xả bỉ thiên cung, giáng thần mẫu thai, tòng hữu hiếp sanh, hiện hành thất bộ, quang minh hiển diệu phổ chiếu thập phương, vô lượng Phật độ lục chủng chấn động, cử thanh tự xưng ngô đương ư thế vi Vô Thượng Tôn, Thích Phạm phụng thị, thiên nhân quy ngưỡng. Thị hiện toán, kế, văn, nghệ, xạ, ngự, bác tổng đạo thuật, quán luyện quần tịch, du ư hậu viên, giảng võ thí nghệ. Hiện xử cung trung sắc vị chi gian, kiến lão bệnh tử, ngộ thế phi thường, khí quốc tài vị, nhập sơn học đạo, phục thừa bạch mã, bảo quan anh lạc khiển chi linh hoàn. Xả trân diệu y nhi trước pháp phục. Thế trừ tu phát, đoan tọa thọ hạ, cần khổ lục niên, hành như sở ưng. Hiện ngũ trược sát, tùy thuận quần sanh. Thị hữu trần cấu, mộc dục Kim lưu, thiên án thọ chi, đắc phan xuất trì, linh cầm dực tòng, vãng nghệ đạo tràng, cát tường cảm trưng, biểu chương công tộ, ai thọ thí thảo, phu Phật thọ hạ, già phu nhi tọa, phấn đại quang minh sử ma tri chi, ma suất quan thuộc nhi lai bức thí, chế dĩ trí lực, giai linh hàng phục, đắc vi diệu pháp, thành Tối Chánh Giác. Thich Phạm kỳ khuyến, thỉnh chuyển pháp luân, dĩ Phật du bộ, Phật hống nhi hống, khấu pháp cổ, xuy pháp loa, chấp pháp kiếm, kiến pháp tràng, chấn pháp lôi, diệu pháp điện, chú pháp vũ, diễn pháp thí. Thường dĩ pháp âm giác chư thế gian, quang minh chiếu vô lượng Phật độ, nhất thiết thế giới lục chủng chấn động, tổng nhiếp ma giới, động ma cung điện, chúng ma chiếp bố, mạc bất quy phục, quắc liệt tà võng, tiêu diệt chư kiến, tán chư trần lao, hoại chư dục tiệm, tẩy trạc cấu ô, hiển minh thanh bạch. Dĩ chư pháp dược cứu liệu tam khổ. Thọ bồ-tát ký thành Đẳng Chánh Giác. Thị hiện diệt độ chửng tế vô cực. Tiêu trừ chư lậu, thực chúng đức bản, cụ túc công đức vi diệu vô lượng. Du chư Phật quốc phổ hiện đạo giáo. Kỳ sở tu hành thanh tịnh vô úy. Thí như ảo sư hiện chúng dị tượng, vi nam vi nữ vô sở bất biến, bản học minh liễu tại ý sở vi. Thử chư bồ-tát diệc phục như thị, học nhất thiết pháp quán tổng lũ luyện. Vô số Phật độ giai tất phổ hiện, danh xưng phổ chí, đạo ngự thập phương. Vô lượng chư Phật hàm cộng hộ niệm. Phật sở trụ giả giai dĩ đắc trụ, Đại Thánh sở lập nhi giai dĩ lập, Như Lai đạo hóa, các năng tuyên bố, vị chư bồ-tát nhi tác đại sư, dĩ thậm thâm thiền huệ khai đạo chúng sanh, thông chư pháp tánh, đạt chúng sanh tướng, minh liễu chư quốc, cúng dường chư Phật. Hóa hiện kỳ thân du như điện quang. Thiện học vô úy chi võng, hiểu liễu huyễn hóa chi pháp, hoại liệt ma võng, siêu việt Thanh văn, Duyên giác chi địa. Đắc không, vô tướng, vô nguyện tam-muội, thiện lập phương tiện hiển thị tam thừa, ư thử hóa chung nhi hiện diệt độ, diệc vô sở tác, diệc vô sở hữu, bất khởi bất diệt. Đắc bình đẳng pháp, cụ túc thành tựu vô lượng tổng trì, bách thiên tam-muội, chư căn trí huệ, quảng phổ tịch định, thâm nhập bồ-tát pháp tạng. Đắc Hoa Nghiêm tam-muội, tuyên dương diễn thuyết nhất thiết kinh điển, trụ thâm định môn, tất đổ hiện tại vô lượng chư Phật, nhất niệm chi khoảnh vô bất chu biến, phân biệt hiển thị chân thật chi tế. Đắc chư Như Lai biện tài chi trí, nhập chúng ngôn âm, khai hóa nhất thiết, siêu quá thế gian chư sở hữu pháp, tâm thường đế trụ độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật nhi tùy ý tự tại, hạ phụ quần sanh, vị chi trọng đảm, hộ Phật chủng tánh thường sử bất tuyệt, hưng đại bi, mẫn chúng sanh, diễn từ biện thọ pháp nhãn, đổ tam thú, khai thiện môn. Dĩ bất thỉnh chi pháp thí chư lê thứ, như thuần hiếu chi tử ái kính phụ mẫu; ư chư chúng sanh thị nhược tự kỷ; nhất thiết thiện bản giai độ bỉ ngạn; tất hộ chư Phật vô lượng công đức trí huệ thánh minh bất khả tư nghị. Như thị chi đẳng bồ-tát đại sĩ bất khả xưng kế nhất thời lai hội.
Lại cùng với các bồ-tát Đại thừa câu hội, đó là các ngài: bồ-tát Phổ Hiền, bồ-tát Diệu Đức, bồ-tát Từ Thị v.v… đây là tất cả các vị bồ-tát trong Hiền kiếp. Lại có mười sáu vị chánh sĩ là bồ-tát Hiền Hộ, bồ-tát Thiện Tư Nghị, bồ-tát Tín Huệ, bồ-tát Không Vô, bồ-tát Thần Thông Hoa, bồ-tát Quang Anh, bồ-tát Bảo Tràng, bồ-tát Huệ Thượng, bồ-tát Trí Tràng, bồ-tát Tịch Căn, bồ-tát Nguyện Huệ, bồ-tát Hương Tượng, bồ-tát Bảo Anh, bồ-tát Trung Trụ, bồ-tát Chế Hạnh, bồ-tát Giải Thoát đều tuân tu theo đức của đại sĩ Phổ Hiền. Các ngài đủ vô lượng hạnh nguyện của các bồ-tát, an trụ vào tất cả pháp công đức, đi khắp mười phương thực hành phương tiện quyền xảo, nhập pháp tạng Phật, cứu cánh đến bờ kia. Các ngài nguyện ở trong vô lượng thế giới hiện thành Đẳng giác, ở cung trời Đâu-thuật hoằng tuyên chánh pháp, rồi bỏ cung trời ấy giáng thần vào thai mẹ, từ hông phải sanh, hiện đi bảy bước, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp mười phương vô lượng cõi nước Phật, sáu cách chấn động, Ngài cất tiếng nói: “ Ta sẽ làm Đấng Vô Thượng ở thế gian”. Đế Thích, Phạm vương hầu hạ, trời người quy ngưỡng, thị hiện học tập toán số, văn chương, nghệ thuật, cưỡi ngựa, bắn cung, thông hết đạo thuật, làu thông kinh sử, dạo chơi hậu viên, luyện tập võ nghệ. Thị hiện ở trong cung giữa sắc đẹp, thức ngon, thấy già, bệnh, chết, giác ngộ thế gian vô thường, bỏ đất nước, của cải, vương vị, đi vào núi học đạo, ngựa trắng, mão báu, chuỗi ngọc đều bảo mang trở về, bỏ y phục xa hoa lộng lẫy mà mặc pháp phục, cạo bỏ râu tóc, ngồi bên cội cây, siêng tu khổ hạnh sáu năm. Bồ-tát làm những điều cần phải làm nghĩa là thị hiện nơi cõi ác năm trược tùy thuận quần sanh. Thị hiện thân dính bụi nhơ, tắm gội dưới sông Kim (sông Ni-liên-thiền), chư thiên oằn nhánh cây để ngài vịn bước lên, chim chóc bay theo qua đến đạo tràng, cảm được điềm lành biểu hiện công đức. Bồ-tát nhận cỏ trải dưới cội cây bồ-đề`rồi ngồi kiết-già, phóng ánh sáng lớn khiến cho ma biết, ma dẫn quan thuộc đến bức bách để thử ngài. Ngài dùng sức trí huệ để hàng phục chúng ma, rồi đắc pháp vi diệu, thành Tối Chánh Giác. Đế Thích, Phạm thiên khuyến thỉnh chuyển diệu pháp luân, dùng bước đi của Phật mà đi,dùng tiếng Phật mà thuyết, đánh trống pháp, thổi ốc pháp, cầm kiếm pháp, dựng cờ pháp, vang sấm pháp, chớp ánh pháp, tuôn mưa pháp, diễn pháp thí, thường dùng pháp âm giác ngộ thế gian, ánh sáng chiếu khắp vô lượng cõi Phật, tất cả thế giới chấn động sáu cách, thu phục hết cõi ma, làm chấn động cung điện ma, chúng ma sợ hãi đều xin quy phục. Xé nát lưới tà, diệt các kiến chấp, phá tan trần lao, san bằng hố dục, rửa sạch nhơ cấu, hiển bày thanh bạch, dùng các thuốc pháp cứu chữa ba khổ[6], thọ ký bồ-tát thành Đẳng Chánh Giác, thị hiện diệt độ, cứu tế vô cực. Tiêu trừ các lậu, trồng các cội đức, đầy đủ công đức vi diệu khó lường, đến các cõi Phật, thị hiện giáo hóa chúng sanh, các ngài tu hành thanh tịnh vô úy. Ví như nhà ảo thuật hiện ra các hình tượng khác nhau, người nam, người nữ, không gì không biến hiện được, học đã thông thạo thì mặc tình biến hóa. Cũng vậy, các bồ-tát này học tất cả pháp thông suốt lão luyện, đều có thể hiện khắp vô số cõi Phật, nổi tiếng khắp nơi, dùng đạo pháp giáo hóa chúng sanh ở khắp mười phương. Vô lượng chư Phật đều cùng hộ niệm, các ngài đều đã được trụ chỗ Phật trụ, đều đã an lập chỗ Đại thánh an lập, các ngài đều có thể tuyên dương truyền bá giáo pháp Như Lai, làm Đại sư cho các bồ-tát, dùng thiền định, trí huệ rất sâu dẫn dắt chúng sanh, thông các pháp tánh, hiểu tướng chúng sanh, biết rõ các cõi nước, cúng dường chư Phật, hóa hiện thân mình giống như ánh chớp, khéo học lưới vô úy, hiểu rõ pháp huyễn hóa, xé nát lưới ma, mở các trói buộc, vượt qua địa vị Thanh văn, Duyên giác, đắc không, vô tướng, vô nguyện tam-muội, khéo lập phương tiện hiển thị tam thừa, ở đây giáo hóa xong, thị hiện diệt độ, cũng vô sở tác, cũng vô sở hữu, chẳng khởi, chẳng diệt. Các ngài đắc pháp bình đẳng,thành tựu đầy đủ vô lượng tổng trì, trăm nghìn tam-muội, các căn trí huệ, tịch định rộng khắp thâm nhập pháp tạng bồ-tát. Các ngài đắc tam-muội Phật Hoa Nghiêm tuyên dương diễn nói tất cả kinh điển, trụ môn định sâu thấy hết vô lượng chư Phật hiện tại, trong khoảnh một niệm, đến khắp tất cả phân biệt hiển bày pháp chân thật. Các ngài đắc trí biện tài của chư Như Lai vào trong các loại ngôn âm khai hóa tất cả chúng sanh, vượt qua các pháp của thế gian, tâm thường thật sự trụ nơi đạo xuất thế, tùy ý tự tại đối với tất cả muôn vật, gánh vác quần sanh, lấy đó làm trọng trách, thường giữ chủng tánh Phật, không để cho đoạn tuyệt, khởi đại bi, thương chúng sanh, diễn từ biện, trao pháp nhãn, đóng bít ba đường ác, mở toang cánh cửa thiện, dùng pháp bất thỉnh ban bố cho mọi người, như người con hiếu yêu kính cha mẹ, coi chúng sanh như bản thân mình, đều đưa tất cả chúng sanh có thiện căn qua đến bờ kia, thủ hộ hết vô lượng công đức trí huệ thánh minh không thể nghĩ bàn của chư Phật. Các vị bồ-tát đại sĩ như thế nhiều không thể kể xiết cùng một lúc đến dự pháp hội.
2. Giải thích phần Tự: từ Ngã văn như thị đến nhất thời lai hội được gọi chung là phần Tự. Thời, xứ và chúng nghe pháp v.v…các kính sớ đều có giài thích rộng. ở đây không cần phải giải thích nữa, mà chỉ y theo văn kinh, nêu ra sơ lược nghĩa riêng của kinh này. Thứ tự của các bồ-tát trong các kinh khác hoặc nêu Văn-thù trước, hoặc nêu Phổ Hiền trước. Nêu Văn-thù trước vì biểu thị trí. Nêu Phổ Hiền trước vì biểu thị hạnh. Kinh này thuộc về viên giáo, lấy quả khởi nhân, vì thế trước nêu Phổ Hiền.
Từ câu đạo Phổ Hiền đại sĩ chi đức trở xuống đến bất khả tư nghị là nói rộng về bồ-tát tùy thuận Như Lai, tu học hạnh nguyện Phổ Hiền, đó là thực hành phương tiện thiện xảo nhập pháp tạng Phật, cứu cánh đến bờ kia. Trong nghĩa của ba câu gồm hết pháp môn Tịnh Độ. Mọi việc làm của bồ-tát chẳng lìa phương tiện, vì phương tiện nên sanh về tịnh độ, được thường thấy Phật. Vì được thấy Phật nên nghe pháp, tu hành, nhập pháp tạng Phật, viên mãn tâm giác ngộ, cứu cánh đến bờ kia. Nếu không có phương tiện thì vô lượng hạnh môn không bao giờ thành tựu, như kinh Đại Bát-nhã nói: “Bồ-tát này do tương ưng với bát-nhã ba-la-mật-đa nên từ nơi này chết thì sanh về cõi Phật khác, từ một nước Phật đến một nước Phật, sanh ra ở nơi nào cũng thường được gặp chư Phật Thế Tôn, cúng dường, cung kính, tôn trọng, tán thán cho đến Vô thượng Chánh đẳng Bồ-đề cũng không bao giờ rời Phật. Vậy cần phải lấy niệm Phật làm nhân, như hàng bồ-tát Thập địa trong kinh Hoa nghiêm trước sau chẳng rời niệm Phật, vì thế biết kinh này chẳng phải hàng Nhị thừa Thanh văn có thể gánh vác mà vì khiến cho hạng phàm phu đại tâm y giáo tu hành sanh vào nhà Như Lai vì thành tựu viên mãn hạnh Phổ Hiền.
Từ câu ở cung trời Đâu-suất đến câu cứu vớt vô cực là theo hóa nghi của bản sư để hiền bày bồ-tát thành Phật dộ chúng sanh. Nguyện vương vô tận mà chỉ nêu bản sư để đại diện cho chư Phật ở khắp mười phương, vì một tức là tất cả.
Kế đến, Diệu Đức tức là Văn-thù, chẳng qua biển Văn-thù thì khó vào cửa hạnh Phổ Hiền, vì chẳng thể biết rõ tự tâm, một niệm chóng viên mãn chánh tánh bình đẳng, phàm thánh có chung một pháp không sai khác. Vì không biết rõ nên chẳng đầy đủ hạnh nguyện. Vì sao? Vì ngoài tâm mà khởi tu thì thành hữu lậu, vì vô biên công đức chẳng ngoài tự tâm. Tùy thuận chân như tu tất cả pháp thì có thể đầy đủ vô biên công đức.
Từ câu tiêu trừ các lậu trở xuống đều nói nhờ trí Văn-thù mà được viên mãn hạnh Phổ Hiền, cho nên nói: “Như nhà ảo thuật hóa hiện các hình tướng khác nhau như người nam, người nữ, không thứ gì mà không biến hiện được”. Lại nói: “Cũng vô sở tác, cũng vô sở hữu, chắng khởi, chẳng diệt, đắc pháp bình đẳng”. Người đời nghe nói tịnh độ liền chấp trước độ, nghe nói vãng sanh liền chấp trước sanh. Nếu chẳng phải như vậy thì lại chấp không sanh, bác bỏ tịnh độ. Bọn người này đều lấy sanh diệt làm nhân, không thể nào khế hợp với tánh bất sanh diệt. Trái lại, họ chẳng biết trong Như Lai tạng diệu minh chu viên bao trùm tất cả cõi nước trong khắp mười phương, tìm sanh tử đến đi hoàn toàn không thể được. Vì vô sở đắc nên sanh diệt nhất như, đến đi vô ngại. Các vị bồ-tát này có năng lực vào lưới vô úy, hiểu rõ pháp huyễn hóa nên thấy hết vô lượng chư Phật, nghiêm tịnh tất cả cõi nước ở khắp mười phương.
Kế đến, Từ Thị tức Di-lặc. Vì muốn kinh này lưu truyền lâu dài trên thế gian rộng độ quần sanh, nếu chẳng phải là bồ-tát Bổ xứ thì đâu kham nhận phó chúc, văn sau sẽ nói đầy đủ.
Ba vị bồ-tát này hiện khắp mười phương giáo hóa chúng sanh mà cũng thường ở tại thế giới Cực Lạc tiếp đón các chúng sanh về tịnh độ, như phẩm Phổ Hiền hạnh nguyện nói: “Những người vãng sanh đều liền thấy Phật A-di-đà, bồ-tát Văn-thù, bồ-tát Phổ Hiền, bồ-tát Quán Tự Tại, bồ-tát Di-lặc v.v…cùng nhau vây quanh, các bồ-tát khác, dựa theo đây có thể biết. Vì sao? Vì các ngài đều tuân theo đức của Đại sĩ Phổ Hiền nghĩa là cùng với Phổ Hiền đồng một nguyện.
4. Đại giáo duyên khởi:
Nhĩ thời Thế Tôn, chư căn duyệt dự, tư sắc thanh tịnh, quang nhan nguy nguy. Tôn giả A-nan thừa Phật thánh chỉ, tức tùng tòa khởi, thiên đản hữu kiên, trường quỵ hợp chưởng, nhi bạch Phật ngôn: Kim nhật Thế Tôn chư căn duyệt dự, tư sắc thanh tịnh, quang nhan nguy nguy như minh cảnh tịnh, ảnh sướng biểu lý, oai dung hiển diệu, siêu tuyệt vô lượng. Dụy nhiên, Đại Thánh! Ngã tâm niệm ngôn: Kim nhật Thế Tôn trụ kỳ đặc pháp. Kim nhật Thế Hùng trụ Phật sở trụ. Kim nhật Thế Nhãn trụ đạo sư hạnh. Kim nhật Thế Anh trụ tối thắng đạo. Khứ lai hiện tại Phật Phật tương niệm, đắc vô kim Phật niệm chư Phật da, hà cố oai thần quang quang nãi nhĩ?
Ư thị Thế Tôn cáo A-nan viết: Vân hà A-nan, chư thiên giáo nhữ lai vấn Phật da?
A-nan bạch Phật: Vô hữu chư thiên lai giáo ngã giả, tự dĩ sở kiến vấn tư nghĩa nhĩ.
Phật ngôn: Thiện tai, A-nan! Sở vấn thậm khoái! Như Lai dĩ vô tận đại bi căng ai tam giới, sở dĩ xuất hưng ư thế quang xiển đạo giáo, dục chửng tế quần manh, huệ dĩ chân thật chi lợi, vô lượng ức kiếp nan trị nan kiến du như linh thoại hoa thời thời nãi xuất. Kim sở vấn giả đa sở nhiêu ích, khai hóa nhất thiết chư thiên nhân dân. A-nan đương tri, Như Lai chánh giác. Kỳ trí nan lường. đa sở đạo ngự, huệ kiến vô ngại, dĩ nhất san chi lực năng trụ thọ mạng ức bách thiên kiếp, vô số vô lượng, phục quá ư thử. Chư căn duyệt dự, bất dĩ hủy tổn, tư sắc bất biến, quang nhan vô dị. Sở dĩ giả hà? Như Lai định huệ cứu sướng vô cực, ư nhất thiết pháp nhi đắc tự tại. A-nan đế thính, kim vị nhữ thuyết.
Đối viết: Dụy nhiên! Nguyện nhạo dục văn.
Bấy giờ Thế Tôn các căn vui vẻ, hình sắc thanh tịnh, dung nhan sáng rỡ, A-nan nương thần lực Phật từ chỗ ngồi đứng dậy trịch y bày vai hữu, quỳ gối chắp tay và bạch Phật rằng: Hôm nay Thế Tôn, các căn vui vẻ, hình sắc thanh tịnh, dung nhan sáng rỡ như gương sáng sạch suốt cả trong ngoài, oai dung rực rỡ siêu tuyệt vô lượng. Bạch đức Đại Thánh! Tâm con nghĩ rằng: Hôm nay Thế Tôn trụ pháp kỳ đặc. Hôm nay Thế Hùng trụ chỗ Phật trụ. Hôm nay Thế Nhãn trụ hạnh đạo sư. Hôm nay Thế Anh trụ đạo tối thắng. Các đức Phật quá khứ, vị lai, hiện tại nghĩ nhớ đến nhau, nếu chẳng phải hôm nay Phật đang nghĩ đến chư Phật thì cớ sao oai thần của Phật rạng rỡ như thế?
Thế Tôn hỏi A-nan: Thế nào? A-nan! Có phải chư thiên bảo ông đến hỏi Phật chăng?
A-nan bạch Phật: Không có chư thiên đến bảo con mà do tự con thấy mà hỏi nghĩa này.
Phật nói: Lành thay, A-nan! Ông hỏi rất hay! Như Lai dùng đại bi vô tận xót thương ba cõi, vì thế xuất hiện ở thế gian xiển dương đạo pháp để cứu vớt quần sanh, ban cho sự lợi ích chân thật, vô lượng ức kiếp khó gặp, khó thấy, giống như hoa linh thoại đúng thời mới xuất hiện. Hôm nay ông hỏi, mang lại nhiều lợi ích, khai hóa tất cả chư thiên, nhân dân. A-nan nên biết, Như Lai chánh giác, trí ấy khó lường dẫn đường chúng sanh, trí huệ thấy vô ngại, dùng một thời gian rất ngắn mà có thể trụ thọ mạng ức trăm nghìn kiếp, còn quá hơn số vô lượng vô biên. Các căn vui vẻ, chẳng bị thương tổn, hình sắc bất biến, dung nhan rạng rỡ không khác. Vì sao? Vì Như Lai thành tựu viên mãn định huệ, được tự tại đối với tất cả pháp. A-nan hãy lắng nghe Ta nói.
A-nan đáp: Thưa vâng! Con xin muốn nghe!
3. Giải thích phần Chánh tông, từ đây đến đoạn thứ ba mươi ba được gọi chung là phần Chánh tông. Phật sắp mở pháp môn thù thắng, đặc biệt thị hiện dung nhan rạng rỡ. Lại nói nguyên nhân Như Lai xuất thế, nguồn gốc khởi giáo là muốn cho người nghe sanh ý tưởng hy hữu, sanh ý tưởng khó gặp là vì đoạn nghi khởi tín. Khuyên sanh Cực Lạc, không chỉ kinh này, đặc biệt căn cứ vào văn của kinh này nói lại nghĩa thù thắng này.
- Đầu tiên nói thệ nguyện rộng lớn của ngài Pháp Tạng vì muốn cho hành giả sanh tâm gánh vác, phát khởi bi trí, đủ hạnh Phổ Hiền.
- Kế đến nói công đức rộng lớn của ngài Pháp Tạng vì muốn cho hành giả sanh tâm chân thật thực hành nhiều phương tiện, viên mãn hạnh Phổ Hiền.
- Kế đến nói các thứ trang nghiêm của y báo, chánh báo Cực Lạc vì muốn cho hành giả sanh tâm quyết định, chí thành hồi hướng, nhập cảnh giới Phật, chẳng đọa vào nghi thành.
- Kế đến nói chánh nhân vãng sanh và quả báo thế gian vì muốn cho hành giả sanh tâm tinh tấn, nhất tâm niệm Phật, thành tựu tam-muội, quyết sanh Cực Lạc.
Hỏi: Các kinh viên đốn đều nói bản sư phóng quang biểu hiện tướng lành, kinh này sao không nói như vậy?
Đáp: Kinh này lấy Phật Vô Lượng Thọ làm chủ, bản sư làm bạn. Văn sau, Phật Vô Lượng Thọ phóng quang chiếu khắp thế giới của tất cả chư Phật. Bản sư cùng mười phương chư Phật đặc biệt tán thán chứng minh. Đức bản sư chẳng phóng quang là vì muốn cho chúng sanh nhất tâm quy kính Đức Phật Vô Lượng Thọ.
5. Cổ Phật xuất thế
Phật cáo A-nan: Vãng nãi quá khứ cửu viễn vô lượng bất khả tư nghị vô ương số kiếp, Đĩnh Quang Như Lai hưng xuất ư thế giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh giai linh đắc đạo, nãi thủ diệt độ. Thứ hữu Như Lai danh viết Quang Viễn, thứ danh Nguyệt Quang, thứ danh Chiên-đàn Hương, thứ danh Thiện Sơn Vương, thứ danh Tu-di Thiên Quan, thứ danh Tu-di Đẳng Diệu, thứ danh Nguyệt Sắc, thứ danh Chánh Niệm, thứ danh Ly Cấu, thứ danh Vô Trước, thứ danh Long Thiên, thứ danh Dạ Quang, thứ danh An Minh Đảnh, thứ danh Bất Động Địa, thứ danh Lưu Ly Diệu Hoa, thứ danh Lưu Ly Kim Sắc, thứ danh Kim Tạng, thứ danh Viêm Quang, thứ danh Viêm Căn, thứ danh Địa Chủng, thứ danh Nguyệt Tượng, thứ danh Nhật Ý, thứ danh Giải Thoát Hoa, thứ danh Trang Nghiêm Quang Minh, thứ danh Hải Giác Thần Thông, thứ danh Thủy Quang, thứ danh Đại Hương, thứ danh Ly Trần Cấu, thứ danh Xả Yếm Ý, thứ danh Bảo Viêm, thứ danh Diệu Đảnh, thứ danh Dũng Lập, thứ danh Công Đức Trì Huệ, thứ danh Tế Nhật Nguyệt Quang, thứ danh Nhật Nguyệt Lưu Ly Quang, thứ danh Vô Thượng Lưu Ly Quang, thứ danh Tối Thượng Thủ, thứ danh Bồ-đề Hoa, thứ danh Nguyệt Minh, thứ danh Nhật Quang, thứ danh Hoa Sắc Vương, thứ danh Thủy Nguyệt Quang, thứ danh Trừ Si Minh, thứ danh Độ Ích Hạnh, thứ danh Tịnh Tín, thứ danh Thiện Tú, thứ danh Oai Thần, thứ danh Pháp Huệ, thứ danh Loan Âm, thứ danh Sư Tử Âm, thứ danh Long Âm, thứ danh Xử Thế. Như thử chư Phật giai tất dĩ quá, nhĩ thời thứ hữu Phật danh Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Phật bảo A-nan: Về thời quá khứ lâu xa vô lượng bất khả tư nghị vô số kiếp có Đức Như Lai tên Đĩnh Quang xuất hiện ở thế gian giáo hóa độ thoát vô lượng chúng sanh, đều làm cho họ đắc đạo cho đến diệt độ. Kế đến có Như Lai tên Quang Viễn, kế đến có Như Lai tên Nguyệt Quang, kế đến có Như Lai tên Chiên-đàn Hương, kế đến có Như Lai tên Thiện Sơn Vương, kế đến có Như Lai tên Tu-di Thiên Quan, kế đến có Như Lai tên Tu-di Đẳng Diệu, kế đến có Như Lai tên Nguyệt Sắc, kế đến có Như Lai tên Chánh Niệm, kế đến có Như Lai tên Ly Cấu, kế đến có Như Lai tên Vô Trước, kế đến có Như Lai tên Long Thiên, kế đến có Như Lai tên Dạ Quang, kế đến có Như Lai tên An Minh Đảnh, kế đến có Như Lai tên Bất Động Địa, kế đến có Như Lai tên Lưu Ly Diệu Hoa, kế đến có Như Lai tên Lưu Ly Kim Sắc, kế đến có Như Lai tên Kim Tạng, kế đến có Như Lai tên Viêm Quang, kế đến có Như Lai tên Viêm Căn, kế đến có Như Lai tên Địa Chủng, kế đến có Như Lai tên Nguyệt Tượng, kế đến có Như Lai tên Nhật Ý, kế đến có Như Lai tên Giải Thoát Hoa, kế đến có Như Lai tên Trang Nghiêm Quang Minh, kế đến có Như Lai tên Hải Giác Thần Thông, kế đến có Như Lai tên Thủy Quang, kế đến có Như Lai tên Đại Hương, kế đến có Như Lai tên Ly Trần Cấu, kế đến có Như Lai tên Xả Yếm Ý, kế đến có Như Lai tên Bảo Viêm, kế đến có Như Lai tên Diệu Đảnh, kế đến có Như Lai tên Dũng Lập, kế đến có Như Lai tên Công Đức Trì Huệ, kế đến có Như Lai tên Tế Nhật Nguyệt Quang, kế đến có Như Lai tên Nhật Nguyệt Lưu Ly Quang, kế đến có Như Lai tên Vô Thượng Lưu Ly Quang, kế đến có Như Lai tên Tối Thượng Thủ, kế đến có Như Lai tên Bồ-đề Hoa, kế đến có Như Lai tên Nguyệt Minh, kế đến có Như Lai tên Nhật Quang, kế đến có Như Lai tên Hoa Sắc Vương, kế đến có Như Lai tên Thủy Nguyệt Quang, kế đến có Như Lai tên Trừ Si Minh, kế đến có Như Lai tên Độ Ích Hạnh, kế đến có Như Lai tên Tịnh Tín, kế đến có Như Lai tên Thiện Tú, kế đến có Như Lai tên Oai Thần, kế đến có Như Lai tên Pháp Huệ, kế đến có Như Lai tên Loan Âm, kế đến có Như Lai tên Sư Tử Âm, kế đến có Như Lai tên Long Âm, kế đến có Như Lai tên Xử Thế. Các Đức Phật như thế đều đã diệt độ, bấy giờ kế tiếp có Phật tên Thế Tự Tại Vương Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật Thế Tôn.
Sắp nói về bản nhân thành Phật của Pháp Tạng, đặc biệt tìm về các Đức Phật từ thưở xa xưa, theo bản trong kinh Bảo tích thì bắt đầu từ Phật Đĩnh Quang thời xa xưa qua năm mươi ba Đức Phật mới đến Đức Phật Thế Tự Tại Vương, đếu dùng số nghịch,, hoàn toàn khác với đây. Nhưng các bản Hán dịch khác phần nhiều theo số thuận, chẳng biết bản trong kinh Bảo tích có căn cứ vào bản Phạn nào khác hay không?
6. Pháp Tạng nhân địa
Thời hữu quốc vương văn Phật thuyết pháp, tâm hoài duyệt dự, tầm phát vô thượng chánh chân đạo ý, khí quốc quyên vương, hạnh tác sa-môn, hiệu viết Pháp Tạng, cao tài dũng triết, dữ thế siêu dị, nghệ Thế Tự Tại Vương Như Lai sở, khể thủ Phật túc, hữu nhiễu tam táp, trường quỵ hợp chưởng, dĩ tụng tán viết:
Quang nhan nguy nguy Oai thần vô cực
Như thị viêm minh Vô dữ đẳng giả.
Nhật nguyệt ma-ni Châu quang diễm diệu
Giai tất ẩn tế Du như tụ mặc.
Như Lai nhan dung Siêu thế vô tỷ
Chánh giác đại âm Hưởng lưu thập phương.
Giới văn tinh tấn Tam-muội trí thông
Oai đức vô lữ Thù thắng hy hữu.
Thâm đế thiện tư Chư Phật pháp hải
Cùng thâm tận áo Cứu kỳ nhai để.
Vô minh, dục, nộ Thế Tôn vĩnh vô
Nhân hùng sư tử Thần đức vô lượng.
Công huân quảng đại Trí huệ thâm diệu
Quang minh oai tướng Chấn động đại thiên.
Nguyện ngã tác Phật Tề thánh pháp vương
Quá độ sanh tử Mỹ bất giải thoát.
Bố thí điều ý Giới nhẫn tinh tấn
Như thị tam-muội Trí huệ vi thượng.
Ngô thệ đắc Phật Phổ hành thử nguyện
Nhất thiết khủng cụ Vị tác đại an.
Giả linh hữu Phật Bách thiên ức vạn
Vô lượng đại thánh Số như Hằng sa.
Cúng dường nhất thiết Tư đẳng chư Phật
Bất như cầu đạo Kiên chánh bất khước.
Như thị tinh tấn Oai thần nan lượng
Linh ngã tác Phật Quốc độ đệ nhất.
Kỳ chúng kỳ diệu Đạo tràng siêu tuyệt
Quốc như nê-hoàn Nhi vô đẳng song.
Ngã đương mẫn ai Độ thoát nhất thiết
Thập phương chúng sanh Tâm duyệt thanh tịnh,
Dĩ chí ngã quốc Khoái lạc an ổn.
Hạnh Phật minh tín Thị ngã chân chứng
Phát nguyện ư bỉ Lực tinh sở dục.
Thập phương Thế Tôn Trí huệ vô ngại
Ngã linh thử tôn Tri ngã tâm hành.
Giả sử thân chỉ Chư khổ độc trung
Ngã hành tinh tấn Nhẫn chung bất hối.
Phật cáo A-nan: Pháp Tạng tỳ-kheo thuyết thử tụng dĩ nhi bạch Phật ngôn: Dụy nhiên, Thế Tôn! Ngã phát Vô thượng Chánh giác chi tâm, nguyện Phật vị ngã quảng tuyên kinh pháp. Ngã đương tu hành, nhiếp thủ Phật quốc thanh tịnh trang nghiêm vô lượng diệu độ, linh ngã ư thế tốc thành Chánh giác, bạt chư sanh tử cần khổ chi bản. Thời, Thế Tự Tại Vương Phật ngứ Pháp Tạng tý-kheo: Như sở tu hành trang nghiêm Phật độ, nhữ tự đương tri. Tỳ-kheo bạch Phật: Tư nghĩa hoằng thâm, phi ngã cảnh giới. Duy nguyện Thế Tôn quảng vị phu diễn chư Phật Như Lai tịnh độ chi hạnh, ngã văn thử dĩ, đương như thuyết tu hành, thành mãn sở nguyện. Nhĩ thời Thế Tự Tại Vương Phật tri kỳ cao minh, chí nguyện thâm quảng, tức vị Pháp Tạng tỳ-kheo nhi thuyết kinh ngôn: Thí như đại hải, nhất nhân đẩu lượng kinh lịch kiếp số thượng khả cùng để, đắc kỳ diệu bảo. Nhân hữu chí tâm tinh tấn cầu đạo bất chỉ, hội đương khắc quả, hà nguyện bất đắc! Ư thị Thế Tự Tại Vương Phật tức vị quảng thuyết nhị bách nhất thập ức chư Phật sát độ, nhân thiên thiện ác, quốc độ thô diệu, ứng kỳ tâm nguyện, tất hiện dữ chi. Thời bỉ tỳ-kheo văn Phật sở thuyết nghiêm tịnh quốc độ, giai tất đổ kiến, khởi phát vô thượng thù thắng chi nguyện, kỳ tâm tịch tĩnh, chí vô sở trước, nhất thiết thế gian vô năng cập giả, cụ túc ngũ kiếp tư duy nhiếp thủ trang nghiêm Phật quốc thanh tịnh chi hạnh.
A-nan hỏi Phật: Bỉ Phật quốc độ thọ lượng kỷ hà?
Phật đáp: Kỳ Phật thọ mạng tứ thập nhị kiếp.
Bấy giờ có vị quốc vương nghe Phật thuyết pháp, trong lòng vui vẻ phát đạo tâm Vô thương chánh chân, bỏ nước bỏ ngôi, xuất gia làm sa-môn hiệu là Pháp Tạng tài cao trí sáng vượt hơn thế gian. Ngài đi đến chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương Như Lai, cúi đầu lễ chân Phật, nhiễu bên hữu ba vòng, quỳ gối chắp tay, nói kệ khen Phật:
Thân sáng vòi vọi Oai thần vô cực
Rực rỡ như vậy Không ai sánh bằng.
Ánh sáng nhật, nguyệt Bảo châu ma-ni
Đều bị che mất Đen như đống mực.
Dung nhan Như Lai Không ai sánh bằng
Tiếng bậc Đại Giác Vang khắp mười phương.
Giới, văn, tinh tấn Tam-muội, trí, thông
Oai đức đặc biệt Thù thắng hy hữu.
Khéo ghi nhớ sâu Biển pháp chư Phật
Cùng tận nghĩa mầu Cứu xét triệt để.
Thế Tôn dứt hẳn Vô minh, dục, nộ
Như sư tử chúa Oai đức vô lượng.
Công đức rộng lớn Trí huệ thâm diệu
Quang minh oai tướng Chấn động đại thiên.
Nguyện con thành Phật Bằng đấng Pháp Vương
Độ các chúng sanh Giải thoát sanh tử.
Bố thí phá tham Giới, nhẫn, tinh tấn
Như vậy tam-muội Trí huệ hơn hết.
Con thệ làm Phật Thực hành nguyện này
Khiến kẻ sợ hãi Đều được an lạc.
Giả sử có Phật Trăm nghìn ức vạn
Vô lượng Đại thánh Số như Hằng sa,
Cúng dường tất cả Các Đức Phật này
Chẳng bằng cầu đạo Chân chánh bất thoái.
Như vậy tinh tấn Oai thần khó lường
Khiến con thành Phật Cõi nước bậc nhất.
Đại chúng kỳ diệu Đạo tràng siêu tuyệt
Nước như nê-hoàn Không gì sánh bằng.
Con sẽ thương xót Độ thoát tất cả
Chúng sanh mười phương Tâm vui thanh tịnh
Đã đến nước con An ổn hạnh phúc.
Xin Phật chứng minh Lòng con chân thật
Phát nguyện trước Phật Ra sức thực hiện.
Mười phương Thế Tôn Trí huệ vô ngại
Do đó các ngài Đều biết tâm con.
Giả sử thân này Ở trong các khổ
Con hành tinh tấn Không hề hối tiếc!
Phật bảo A-nan: Tỳ-kheo Pháp Tạng nói kệ này rồi, bạch với Phật rằng: Thế Tôn! Con phát tâm Vô thượng Chánh giác, xin Phật tuyên thuyết kinh pháp cho con nghe, con sẽ tu hành nhiếp thủ cõi nước Phật thanh tịnh trang nghiêm vô lượng diệu độ, khiến cho con mau thành Chánh giác ở thế gian, nhổ sạch hết gốc khổ sanh tử.
Bấy giờ, Đức Phật Thế Tự Tại Vương nói với tỳ-kheo Pháp Tạng: Ông tự phải biết tu hành trang nghiêm cõi nước Phật.
Tỳ-kheo bạch Phật: Nghĩa này rất sâu, chẳng phải cảnh giới của con, cúi xin Thế Tôn diễn nói hạnh tịnh độ của chư Phật Như Lai. Con được nghe rồi, sẽ vâng theo lời dạy mà tu hành để thành tựu viên mãn sở nguyện.
Bấy giờ, Đức Phật Thế Tự Tại Vương biết tỳ-kheo Pháp Tạng cao minh, chí nguyện sâu rộng, liền nói kinh pháp: Ví như có một người dùng gàu tát nước biển cả trải qua kiếp số còn cạn đến tận đáy, lấy được châu báu vi diệu. Người có chí, tâm tinh tấn không ngừng cầu đạo thì sẽ đắc quả.
Lúc ấy, Đức Phật Thế Tự Tại Vương rộng nói hai trăm mười ức các cõi nước chư Phật, trời người thiện ác, cõi nước tốt xấu, ứng theo tâm nguyện thảy đều hiển hiện. Tỳ-kheo Pháp Tạng thấy hết các cõi nước trang nghiêm thanh tịnh mà Đức Phật vừa nói, ngài liền phát nguyện thù thắng vô thượng, tâm ngài tịch tĩnh, ý không dính mắc, tất cả thế gian không ai bì kịp. Suốt cả năm kiếp, ngài tư duy nhiếp thủ hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi nước Phật.
A-nan hỏi Phật: Tuổi thọ của Đức Phật Thế Tự Tại Vương là bao nhiêu?
Phật đáp:Tuổi thọ của Đức Phật ấy bốn mươi hai kiếp.
Đoạn trên nói Pháp Tạng phát tâm, cũng từ cơ cảm mà vào. Hôm nay chúng ta nghe kinh này rồi, chí tâm hướng về Đức Phật Vô Lượng Thọ, cầu sanh Cực Lạc tức là không khác với tỳ-kheo Pháp Tạng trước kia phát tâm. Đức Phật Vô Lượng Thọ từ xa thọ ký cho chúng ta như lời chân thật của Đức Phật Thế Tự Tại Vương đã nói. Ngài Pháp Tạng nói: Ta phát tâm Vô thượng Chánh giác, phải nên biết rằng tất cả nguyện đều từ Vô thượng Chánh giác sanh, tất cả tịnh độ đều từ Vô thượng Chánh giác kiến lập, vừa phát tâm này thì Cực Lạc trang nghiêm ngay khi ấy liền đầy đủ, cho nên nói chí tâm cầu đạo tinh tấn không ngừng sẽ đắc Phật quả, nguyện nào cũng thành. Vì sao? Vì tất cả pháp chẳng lìa tự tâm. Sau đó nói: “Tâm ngài tịch tĩnh, ý không dính mắc”, vừa có dính mắc thì có hạn cuộc thành ra nhỏ hẹp, chẳng được gọi là nguyện thù thắng, chỉ có tùy thuận tâm Chánh giác nhiếp thủ các cõi nước Phật, thì được một niệm viên minh, mười phương thanh tịnh. Đây là tấm gương nhập đạo cho tất cả chúng sanh, chúng ta phải quyết tâm noi theo học tập, chớ có sanh tâm thoái lui!
7. Phát nguyện trước Phật
Thời Pháp Tạng tỳ-kheo nhiếp thủ hạnh thanh tịnh nhị bách nhất thập ức chư Phật diệu độ thanh tịnh chi hạnh. Như thị tu dĩ, nghệ bỉ Phật sở, khể thủ lễ túc, nhiễu Phật tam táp, hợp chưởng nhi trụ, bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ngã dĩ nhiếp thủ trang nghiêm Phật độ thanh tinh chi hạnh. Phật cáo tỳ-kheo: Nhữ kim khả thuyết. nghi tri thị thời, phát khởi duyệt khả nhất thiết đại chúng, bồ-tát văn dĩ tu hành thử pháp, duyên trí mãn túc vô lượng đại nguyện. Tỳ-kheo bạch Phật: Dụy thùy thính sát, như ngã sở nguyện, đương cụ thuyết chi.
Đệ nhất nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc hữu địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân thọ chung chi hậu, phục cánh tam ác đạo giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất tất chân kim sắc giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân hình sắc bất đồng, hữu hảo xú giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ ngũ nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất thức túc mạng, hạ chí tri bách thiên ức na-do-tha chư kiếp sự giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ lục nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất đắc thiên nhãn, hạ chí kiến bách thiên ức na-do-tha chư Phật quốc giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thất nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất đắc thiên nhĩ, hạ chí văn bách thiên ức na-do-tha chư Phật sở thuyết, bất tất thọ trì giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ bát nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất đắc kiến tha tâm trí, hạ chí tri bách thiên ức na-do-tha chư Phật quốc trung chúng sanh tâm niệm giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ cửu nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất đắc thần túc, ư nhất niệm khoảnh, hạ chí bất năng siêu quá bách thiên ức na-do-tha chư Phật quốc giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân nhược khởi tưởng niệm tham kế thân giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập nhất nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất trụ định tụ, tất diệt độ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập nhị nguyện, thiết ngã đắc Phật, quang minh hữu hạn lượng, hạ chí bất chiếu bách thiên ức na-do-tha chư Phật quốc giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập tam nguyện, thiết ngã đắc Phật, thọ mạng hữu hạn lượng, hạ chí bách thiên ức na-do-tha kiếp giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập tứ nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung Thanh văn hữu năng kế lượng, nãi chí tam thiên đại thiên thế giới chúng sanh tất thành Duyên giác, ư bách thiên kiếp tất cộng kế giảo tri kỳ số giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập ngũ nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung nhân thiên thọ mạng vô năng hạn lượng, trừ kỳ bản nguyện, tu đoản tự tại. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập lục nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân nãi chí văn hữu bất thiện danh giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập thất nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương thế giới vô lượng chư Phật bất tất tư ta xưng ngã danh giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ thập bát nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương chúng sanh chí tâm tín nhạo dục sanh ngã quốc nãi chí thập niệm, nhược bất sanh giả, bất thủ Chánh giác, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Đệ thập cửu nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương chúng sanh phát bồ-đề tâm, tu chư công đức, chí tâm phát nguyện, dục sanh ngã quốc, lâm thọ chung thời, giả linh bất dữ đại chúng vi nhiễu kỳ nhân tiền giả, bất thủ chánh giác.
Đệ nhị thập nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương chúng sanh văn ngã danh hiệu, hệ niệm ngã quốc, thực chúng đức bản, chí tâm hồi hướng, dục sanh ngã quốc, bất quả toại giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập nhất nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân bất tất thành mãn tam thập nhị đại nhân tương giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập nhị nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng lai sanh ngã quốc, cứu cánh tất chí Nhất sanh bổ xứ, trừ kỳ bản nguyện tự tại sở hóa, vị chúng sanh cố, bị hoằng thệ khải, tích lũy đức bản, độ thoát nhất thiết, du chư Phật quốc, tu bồ-tát hạnh, cúng dường thập phương chư Phật Như Lai, khai hóa Hằng sa vô lượng chúng sanh, sử lập vô thương chánh chân chi đạo, siêu xuất thường luân chư địa chi hạnh, hiện tiền tu tập Phổ Hiền chi đức. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập tam nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát thừa Phật thần lực, cúng dường chư Phật, nhất thực chi khoảnh, bất năng biến chí vô số vô lượng ức na-do-tha chư Phật quốc giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập tứ nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát tại chư Phật tiền, hiện kỳ đức bản, chư sở cầu dục cúng dường chi cụ. Nhược bất như ý giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập ngũ nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát bất năng diễn thuyết Nhất thiết trí giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập lục nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát bất đắc kim cang na-la-diên thân giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập thất nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân, nhất thiết vạn vật, nghiêm tịnh quang lệ, hình sắc thù đặc, cùng vi cực diệu, bất năng xưng lượng, kỳ chư chúng sanh nãi chí đãi đắc thiên nhãn, hữu năng minh liễu biện kỳ danh số giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập bát nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát nãi chí thiểu công đức giả bất năng tri kiến kỳ đạo tràng thọ vô lượng quang sắc, cao tứ bách vạn lý giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ nhị thập cửu nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát nhược thọ độc kinh pháp, phúng tụng trì thuyết nhi bất đắc biện tài trí huệ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát trí huệ biện tài, nhược khả hạn lượng giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập nhất nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc độ thanh tịnh giai tất chiếu kiến thập phương nhất thiết vô lượng vô số bất khả tư nghị chư Phật thế giới du như minh cảnh đổ kỳ diện tượng. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập nhị nguyện, thiết ngã đắc Phật, tự địa dĩ thượng chí ư hư không, cung điện lâu quán, trì lưu hoa thọ. Quốc độ sở hữu nhất thiết vạn vật giai dĩ vô lượng tạp bảo, bách thiên chủng hương nhi cộng hợp thành, nghiêm sức kỳ diệu siêu chư thiên nhân. Kỳ hương phổ huân thập phương thế giới, bồ-tát văn giả giai tu Phật hạnh. Nhược bất như thị, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập tam nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chúng sanh chi loại mông ngã quang minh xúc kỳ thân giả, thân tâm nhu nhuyến siêu quá thiên nhân. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập tứ nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chúng sanh chi loại văn ngã danh tự, bất đắc bồ-tát Vô sanh pháp nhẫn, chư thâm tổng trì giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập ngũ nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới, kỳ hữu nữ nhân văn ngã danh tự, hoan hỷ tín nhạo, phát bồ-đề tâm, yếm ố nữ thân, thọ chung chi hậu, phục vi nữ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập lục nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chư bồ-tát chúng văn ngã danh tự, thọ chung chi hậu thường tu phạm hạnh chí thành Phật đạo. Nhược bất nhĩ giả bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập thất nguyện, thiết ngã đắc Phật, thập phương vô lượng bất khả tư nghị chư Phật thế giới chư thiên nhân dân văn ngã danh tự, ngũ thể đầu địa, khể thủ tác lễ, hoan hỷ tín nhạo tu bồ-tát hạnh, chư thiên nhân dân mạc bất trí kính. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập bát nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân dục đắc y phục, tùy niệm tức chí, như Phật sở tán ứng pháp diệu phục tự nhiên tại thân, hữu cầu tài phùng, đảo nhiễm hoán trạc giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tam thập cửu nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung thiên nhân sở thọ khoái lạc bất như lậu tận tỳ-kheo giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát tùy ý dục kiến thập phương vô lượng nghiêm tịnh Phật độ, ứng thời như nguyện, ư bảo thọ trung tất giai chiếu kiến du như minh cảnh đổ kiến diện tượng. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập nhất nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng văn ngã danh tự chí ư đắc Phật, chư căn khuyết lậu, bất cụ túc giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập nhị nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng văn ngã danh tự giai tất đãi đắc thanh tịnh giải thoát tam-muội, trụ thị tam-muội, nhất phát ý khoảnh, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn nhi bất thất định ý. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập tam nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng văn ngã danh tự, thọ chung chi hậu, sanh tôn quý gia. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập tứ nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng văn ngã danh tự hoan hỷ dũng dước tu bồ-tát hạnh, cụ túc đức bản. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập ngũ nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng văn ngã danh tự giai tất đãi đắc Phổ Đẳng tam-muội, trụ thị tam-muội chí ư thành Phật, thường kiến vô lượng bất khả tư nghị nhất thiết chư Phật. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập lục nguyện, thiết ngã đắc Phật, quốc trung bồ-tát tùy kỳ chí nguyện, sở dục văn pháp, tự nhiên đắc văn. Nhược bất nhĩ giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập thất nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng văn ngă danh tự, bất tức đắc chí bất thoái chuyển giả, bất thủ Chánh giác.
Đệ tứ thập bát nguyện, thiết ngã đắc Phật, tha phương quốc độ chư bồ-tát chúng văn ngã danh tự, bất tức đắc chí đệ nhất nhẫn, đệ nhị nhẫn, đệ tam nhẫn, ư chư Phật pháp, bất năng tức đắc bất thoái chuyển giả, bất thủ Chánh giác.
Phật cáo A-nan: Nhĩ thời Pháp Tạng tỳ-kheo thuyết thử nguyện dĩ, dĩ kệ tụng viết:
Ngã kiến siêu thế nguyện Tất chí vô thượng đạo
Tư nguyện bất mãn túc Thệ bất thành Đẳng giác.
Ngã ư vô lượng kiếp Bất vi đại thí chủ
Phổ tế chư cùng khổ Thệ bất thành Chánh giác.
Ngã chí thành Phật đạo Danh văn siêu thập phương
Cứu cánh hữu bất văn Thệ bất thành Chánh giác.
Ly dục thân chánh niệm Tịnh huệ tu phạm hạnh
Chí cầu Vô thượng đạo Vi chư thiên nhân sư.
Thần lực diễn đại quang Phổ chiếu vô tế độ
Tiêu trừ tam cấu minh Minh tế chúng ách nạn.
Khai bỉ trí huệ nhãn Diệt thử hôn manh ám
Bế tắc chư ác đạo Thông đạt thiện thú môn.
Công tộ thành mãn túc Oai diệu lãng thập phương
Nhật nguyệt tập trùng huy Thiên quang ẩn bất hiện.
Vị chúng khai pháp tạng Quảng thí công đức bảo
Thường ư đại chúng trung Thuyết pháp sư tử hống.
Cúng dường nhất thiết Phật Cụ túc chúng đức bản
Nguyện huệ tất thành mãn Đắc vi tam giới hùng.
Như Phật vô ngại trí Thông đạt mỹ bất chiếu
Nguyện ngã công đức lực Đẳng thử tối thắng tôn.
Tư nguyên nhược khắc quả Đại thiên ưng cảm động
Hư không chư thiên thần Đương vũ trân diệu hoa.
Phật ngứ A-nan: Pháp Tạng tỳ-kheo thuyết thử tụng dĩ, ứng thời phổ địa lục chủng chấn động, thiên vũ diệu hoa dĩ tán kỳ thượng, tự nhiên âm nhạc không trung tán ngôn: “Quyết định tất thành Vô thượng Chánh giác”. Ư thị Pháp Tạng tỳ-kheo cụ túc tu mãn như thị đại nguyện, thành đế bất hư, siêu xuất thế gian, thâm nhạo tịch diệt.
Bấy giờ tỳ-kheo Pháp Tạng nhiếp thủ hạnh thanh tịnh hai trăm mười ức cõi nước vi diệu của chư Phật. Tu như thế rồi, ngài đi đến chỗ Đức Phật Thế Tự Tại Vương, đảnh lễ chân Phật nhiễu Phật ba vòng, chắp tay bạch Phật: Thế Tôn! Con đã nhiếp thủ hạnh thanh tịnh trang nghiêm cõi nước Phật.
Phật bảo tỳ-kheo: Nay thật đúng lúc, ông nên nói để làm cho đại chúng vui vẻ, bồ-tát nghe xong, tu hành pháp này, nhờ đó đầy đủ vô lượng đại nguyện.
Tỳ-kheo bạch Phật: Xin Phật chứng giám, con sẽ nói đủ các nguyện của con.
Điều nguyện thứ nhất, nếu con thành Phật, trong con cõi nước có địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con sau khi thọ chung còn đọa vào ba đường ác thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng đều được thân sắc vàng ròng thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ tư, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con hình sắc bất đồng, có đẹp có xấu thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ năm, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng biết túc mạng, ít nhất biết việc trong trăm nghìn ức na-do-tha kiếp thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ sáu, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng được thiên nhãn, ít nhất thấy trăm nghìn ức na-do-tha cõi nước chư Phật thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bảy, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng được thiên nhĩ ít nhất nghe trăm nghìn ức na-do-tha lời chư Phật thuyết pháp thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ tám, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng được trí biết tâm người khác ít nhất biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm nghì úc na-do-tha cõi nước chư Phật thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ chín, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng được thần túc, trong một niệm ít nhất chẳng thể vượt qua trăm nghìn ức na-do-tha cõi nước chư Phật thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con nếu khởi tưởng niệm tham chấp lấy thân thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười một, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng trụ chánh định tụ cho đến diệt độ thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười hai, nếu con thành Phật, quang minh có hạn lượng, ít nhất chẳng chiếu đến trăm nghìn ức na-do-tha cõi nước chư Phật thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười ba, nếu con thành Phật, thọ mạng có hạn lượng ít nhất đến trăm nghìn ức na-do-tha kiếp thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười bốn, nếu con thành Phật, dẫu cho chúng sanh trong tam thiên đại thiên thế giới đều thành Duyên giác trải qua trăm nghìn kiếp cùng nhau tánh đếm được số Thanh văn trong cõi nước của con thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười lăm, nếu con thành Phật, thọ mạng của nhân dân trong cõi nước không có hạn lượng, trừ người có bản nguyện riêng, thọ mạng dài ngắn tự tại. Nếu chẳng như vậy thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười sáu, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con còn nghe nói đến danh từ bất thiện thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười bảy, nếu con thành Phật, các đức Phật trong thế giới ở khắp mười phương chẳng đều ngợi khen danh hiệu của con thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ mười tám, nếu con thành Phật, chúng sanh ở khắp mười phương chí tâm tin ưa, muốn sanh về cõi nước con cho đến mười niệm. nếu chẳng được sanh thì con không ở ngôi Chánh giác, trừ người tạo tội ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Điều nguyện thứ mười chín, nếu con thành Phật, chúng sanh ở khắp mười phương phát tâm bồ-đề, tu các công đức, chí tâm phát nguyện, muốn sanh về cõi nước con. Lúc người ấy mạng chung, nếu con chẳng cùng đại chúng vây quanh hiện trước người ấy thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi, nếu con thành Phật, chúng sanh ở khắp mười phương nghe danh hiệu con, nhớ đến cõi nước con, trồng các cội đức, chí tâm hồi hướng, muốn sanh về cõi nước con, nếu không toại nguyện thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi mốt, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con chẳng đều thành tựu đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhân thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi hai, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát trong cõi nước Phật ở phương khác sanh về cõi nước con cứu cánh ắt đến bậc Nhất sanh bổ xứ, trừ người có bản nguyện tự tại hóa hiện, vì chúng sanh mặc giáp hoằng thệ, tích lũy cội đức, độ thoát tất cả chúng sanh, đến các cõi Phật, tu hạnh bồ-tát, cúng dường các đức Phật Như Lai trong khắp mười phương, khai hóa vô lượng chúng sanh nhiều như số cát sông Hằng, khiến họ đứng vững nơi đạo Vô thượng chánh chân., siêu xuất công hạnh của các hạng thông thường, hiện tiền tu tập đức của Phổ Hiền. Nếu chẳng được như vậy thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi ba, nếu con thành Phật, bồ-tát trong nước con thừa thần lực của Phật, cúng dường chư Phật, trong thời gian một bữa ăn, nếu không đến khắp vô số vô lượng ức na-do-tha cõi nước chư Phật thì coni không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi bốn, nếu con thành Phật, bồ-tát trong cõi nước con ở trước chư Phật, hiện công đức của mình, muốn có những đồ cúng dường, nếu chẳng được như ý thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi lăm, nếu con thành Phật, bồ-tát trong cõi nước con chẳng thể diễn nói nhất thiết trí thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi sáu, nếu con thành Phật, bồ-tát trong cõi nước con chẳng được thân kim cang Na-la-diên thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi bảy, nếu con thành Phật, trong cõi nước con, trời, người, tất cả muôn vật trang nghiêm thanh tịnh, hình sắc vô cùng đặc biệt tốt đẹp không thể tánh lường, dù cho các chúng sanh đều đắc thiên nhãn mà phân biệt biết danh số của các vật ấy thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi tám, nếu con thành Phật, bồ-tát trong cõi nước con cho đến người ít công đức nhất mà chẳng thấy biết cây đạo tràng vô lượng quang sắc, cao bốn trăm vạn dặm thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ hai mươi chín, nếu con thành Phật, bồ-tát trong cõi nước con nếu đọc tụng, thọ trì kinh pháp mà chẳng đắc trí huệ biện tài thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi, nếu con thành Phật, bồ-tát trong cõi nước con, nếu trí huệ biện tài có thể hạn lượng thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi mốt, nếu con thành Phật, cõi nước thanh tịnh đều có thể soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật ở khắp mười phương như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như vậy thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi hai, nếu con thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, cung điện, lầu quán, ao nước, cây hoa, tất cả muôn vật ở trong cõi nước đều dùng vô lượng tạp bảo và trăm nghìn thứ hương hợp lại mà thành. nghiêm sức kỳ diệu, vượt hơn trời người, mùi hương ấy xông khắp mười phương, bồ-tát được nghe, đều tu hạnh Phật. Nếu chẳng được như vậy thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi ba, nếu con thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghị thế giới chư Phật trong mười phương được quang minh của con chạm đến thân thì thân tâm nhẹ nhàng hơn thiên nhân. Nếu chẳng được như vậy thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi bốn, nếu con thành Phật, các loài chúng sanh trong vô lượng bất khả tư nghị thế giới chư Phật trong mười phương nghe danh tự của con mà chẳng đắc vô sanh pháp nhẫn, các tổng trì sâu của bồ tát thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi lăm, nếu con thành Phật, người nữ trong vô lượng bất khả tư nghị thế giới chư Phật trong mười phương nghe danh tự của con vui vẻ tín ưa, phát tâm bồ-đề, chán ghét thân nữ, sau khi mạng chung còn thọ thân nữ nữa thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi sáu, nếu con thành Phật, chúng bồ-tát, trong vô lượng bất khả tư nghị thế giới chư Phật trong mười phương nghe danh tự của con, sau khi mạng chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu chẳng được như thế thì con không thành Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi bảy, nếu con thành Phật, chư thiên, nhân dân trong vô lượng bất khả tư nghị thế giới chư Phật trong mười phương nghe danh tự của con năm vóc gieo xuống đất, cúi đầu đảnh lễ, vui vẻ tin ưa tu hạnh bồ-tát thì được chư thiên và người đời tôn kính. Nếu chẳng được như thế thì con không thành Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi tám, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con muốn được y phục thì y phục đúng pháp liền tự nhiên hiện đến trên thân, nếu còn có cắt may nhuộm giặt thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ ba mươi chín, nếu con thành Phật, trời người trong cõi nước con hưởng thụ phúc lạc nếu chẳng như vị tỳ-kheo lậu tận thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi, nếu con thành Phật, bồ-tát trong cõi nước con tùy ý muốn thấy vô lượng cõi Phật trang nghiêm thanh tịnh ở khắp mười phương thì liền được thấy trong cây báu như thấy mặt mình trong gương sáng. Nếu chẳng được như thế thì con không thành Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi mốt, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của con cho đến thành Phật, nếu các căn bị khuyết tật thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi hai, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của con đều đắc thanh tịnh giải thoát tam-muội. Trụ tam-muội này vừa khởi một ý niệm cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn mà chẳng mất chánh định. Nếu chẳng được như thế thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi ba, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của con, sau khi mạng chung sanh vào nhà tôn quý. Nếu chẳng được như thế thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi bốn, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của con vui mừng hớn hở tu hạnh bồ-tát, đầy đủ cội đức. Nếu chẳng được như thế thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi lăm, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của con đều đắc Phổ Đẳng tam-muội. Trụ tam-muội này cho đến thành Phật, thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu chẳng đươc như thế thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi sáu, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát trong cõi nước con tùy theo ý nguyện muốn nghe pháp gì thì tự nhiên được nghe pháp ấy. Nếu chẳng được như thế thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi bảy, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của con chẳng liền đến bậc bất thoái chuyển thì con không ở ngôi Chánh giác.
Điều nguyện thứ bốn mươi tám, nếu con thành Phật, các chúng bồ-tát ở cõi nước phương khác nghe danh tự của con chẳng liền đắc đệ nhất Âm hưởng nhẫn, đệ nhị Nhu thuận nhẫn , đệ tam Vô sanh pháp nhẫn, ở trong Phật pháp chẳng thể liền được bất thoái chuyển thì con không ở ngôi Chánh giác.
Phật bảo A-nan: Bấy giờ tỳ-kheo Pháp Tạng nói các nguyện này xong, mới nói bài kệ:
Con lập nguyện siêu thế Quyết đến đạo vô thượng
Nguyện này chẳng được mãn Thệ chẳng thành Đẳng giác.
Con trong vô lượng kiếp Chẳng làm đại thí chủ
Cứu giúp kẻ nghèo khổ Thệ chẳng thành Đẳng giác.
Con cho đến thành Phật Danh tiếng vượt mười phương
Nếu có ai chẳng nghe Thệ chẳng thành Đẳng giác.
Ly dục, chánh niệm sâu Tịnh huệ tu phạm hạnh
Chí cầu Vô thượng tôn Làm thầy của trời người.
Thần lực phóng ánh sáng Chiếu khắp các cõi nước
Tiêu trừ tham,sân, si Cứu vớt các ách nạn.
Mở mắt trí cho họ Diệt sự mù tối này
Đóng bít các đường ác Mở toang cửa nẻo thiện.
Công đức đã thành tựu Oai đức chiếu mười phương
Nhật nguyệt mất ánh sáng Thiên quang ẩn chẳng hiện.
Mở kho pháp bố thí Báu công đức cho chúng
Thường ở trong đại chúng Thuyết pháp sư tử rống.
Cúng dường tất cả Phật Đầy đủ các cội đức
Nguyện, huệ đều thành mãn Được làm Tam Giới Hùng.
Trí vô ngại như Phật Thông đạt chiếu khắp nơi
Nguyện công đức của con Bằng với Đức Tối Thắng.
Nguyện này nếu kết quả Đại thiên nên cảm động
Thiên thần trên hư không Sẽ mưa hoa trân bảo.
Phật bảo A-nan: Tỳ-kheo Pháp Tạng nói kệ này xong, lập tức mặt đất chấn động sáu cách, trời mưa diệu hoa rải lên trên Ngài, trong hư không âm nhạc tự nhiên trỗi lên thành tiếng khen: “Quyết định thành Vô thượng Chánh giác”. Lúc ấy tỳ-kheo Pháp Tạng tu đầy đủ mãn nguyện như thế chân thật, không giả dối, siêu xuất thế gian, rất thích tịch diệt.
Đoạn trên nói ngài Pháp Tạng vì tất cả chúng sanh mà kiến lập đại nguyện, phải nên biết cõi nước của chư Phật chẳng lìa một niệm tâm thanh tịnh mà được thành lập. Tánh của tất cả chúng sanh vốn thanh tịnh, vốn không có sanh tử, xưa nay thường trụ Vô dư niết-bàn, chỉ vì bất chợt tình sanh bèn thành trôi nổi lặn hụp trong biển sanh tử chẳng hẹn ngày ra. Bồ-tát xót thương bọn họ nên Ngài phát thệ nguyện rộng lớn này phá trừ vọng chấp cho chúng sanh, tâm lượng sáng sủa thênh thang, hiện sức tự tại, hiển đại oai quang, pháp tánh như nhiên, chẳng từ bên ngoài mà đắc. Vì sao? Vì tự tánh rỗng lặng, lìa các đường ác, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm rỗng lặng mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh diệu viên đủ các tướng hảo, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm diệu viên mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh vô ngại hiện sáu thần thông, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm vô ngại mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh vô trụ chẳng thể đoạn diệt, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm vô trụ mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh vô tác không có hạn lượng, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm vô tác mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh vô ngoại ví như gió xuân trùm khắp vạn vật, , phải biết bồ-tát tùy thuận tâm vô ngoại mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh vô nội, ví như nước và gương đều có thể hiển hiện bóng các vật, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm vô nội mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh quang minh như mặt trời chiếu khắp, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm quang minh mà trang nghiêm cõi nước Phật; tự tánh bình đẳng như hương xông khắp, phải biết bồ-tát tùy thuận tâm bình đẳng mà trang nghiêm cõi nước Phật. Thế nên biết bốn mươi tám nguyện, không một nguyện nào mà chẳng phải tâm sẵn đủ của chúng sanh, tức là đem tâm của mình trang nghiêm cõi nước của mình như dòng sông chảy về biển, như âm vang ứng theo tiếng, vì thế Pháp Tạng nói: “Nếu chẳng được như thế thì con không ở ngôi Chánh giác”. Trong hư không liền cất tiếng khen: “Quyết định thành Vô thượng Chánh giác”. Dùng nhân chẳng thể nghĩ bàn để sanh khởi quả chẳng thể nghĩ bàn, phải biết nhân chẳng thể nghĩ bàn tức là quả chẳng thể nghĩ bàn. Người có chí cầu sanh tịnh độ phải từ chỗ này tín nhập.
8 .Vun trồng đức hạnh
A-nan! Pháp Tạng tỳ-kheo ư kỳ Phật sở, chư thiên, ma, Phạm, long thần bát bộ đại chúng chi trung, phát tư hoằng thệ, kiến thử nguyện dĩ, nhất hướng chuyên chí trang nghiêm diệu độ. Sở tu Phật quốc khai khuếch quảng đại, siêu thắng độc diệu, kiến lập thường nhiên, vô suy vô biến. Ư bất khả tư nghị triệu tải vĩnh kiếp, tích thực bồ-tát vô lượng đức hạnh, bất sanh dục giác, sân giác, hại giác, bất khởi dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, bất trước sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, nhẫn lực thành tựu, bất kế chúng khổ, thiểu dục tri túc, vô nhiễm, khuể si, tam-muội thường tịch, trí huệ vô ngại, vô hữu hư ngụy siểm khúc chi tâm, hòa nhan ái ngữ, tiên ý thừa vấn, dũng mãnh tinh tấn, chí nguyện vô quyện, chuyên cầu thanh bạch chi pháp, dĩ huệ lợi quần sanh, cung kính Tam bảo, phụng sự sư trưởng, dĩ đại trang nghiêm cụ túc chúng hạnh, linh chư chúng sanh công đức thành tựu, trụ không, vô tướng, vô nguyện chi pháp, vô tác vô khởi, quán pháp như hóa, viễn ly thô ngôn, tự hại hại bỉ, bỉ thử câu hại; tu tập thiện ngữ, tự lợi lợi nhân, nhân ngã kiêm lợi; khí quốc quyên vương, tuyệt khử tài sắc; tự hành lục ba-la-mật, giáo nhân linh hành; vô ương số kiếp tích công lũy đức, tùy kỳ sanh xứ tại ý sở dục, vô lượng bảo tạng tự nhiên phát ứng; giáo hóa an lập vô số chúng sanh trụ ư Vô thượng chánh chân chi đạo. Hoặc vi trưởng giả, cư sĩ hào tánh tôn quý, hoặc vi Sát-lợi quốc quân, Chuyển luân thánh đế, hoặc vi Lục dục thiên chủ nãi chí Phạm vương thường dĩ tứ sự cúng dường cung kính nhất thiết chư Phật. Như thị công đức bất khả xưng thuyết, khẩu khí hương khiết như ưu-bát-la hoa; thân chư mao khổng xuất chiên-đàn hương, kỳ hương phổ huân vô lượng thế giới, dung sắc đoan chánh, tướng hảo thù diệu; kỳ thủ thường xuất vô tận chi bảo; y phục ẩm thực, trân diệu hương hoa, tăng cái tràng phan, trang nghiêm chi cụ. Như thị đẳng sự siêu chư thiên nhân, ư nhất thiết pháp nhi đắc tự tại.
Này A-nan! Tỳ-kheo Pháp Tạng ở trong đại chúng chư thiên, ma, Phạm, Long thần, bát bộ chỗ Đức Phật kia phát thệ nguyện rộng lớn này; kiến lập nguyện này xong, Ngài luôn luôn chuyên chí trang nghiêm cõi nước vi diệu, tu cõi nước Phật, mở ra cõi nước rộng lớn độc đáo thù thắng siêu tuyệt, kiến lập thường nhiên không suy, không biến. Trong bất khả tư nghị triệu năm vĩnh kiếp, Ngài vun trồng vô lượng đức hạnh bồ-tát, chẳng sanh dục giác, sân giác, hại giác, chẳng khởi dục tưởng, sân tưởng, hại tưởng, chẳng đắm nhiễm sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, thành tựu nhẫn lực chẳng kể các khổ, thiểu dục tri túc, không tham, sân, si; tam-muội thường tịch, trí huệ vô ngại, không có tâm dối trá nịnh hót quanh co, vui vẻ mở lời dễ thương chào hỏi trước; dũng mãnh tinh tấn, chí nguyện không biết mỏi mệt chuyên cầu thiện pháp; dùng trí huệ làm lợi ích quần sanh; cung kính Tam bảo, phụng sự sư trưởng; dùng đại trang nghiêm làm đầy đủ các hạnh khiến các chúng sanh thành tựu công đức; trụ pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô tác, vô khởi, quán pháp như hóa, xa lìa lời nói thô ác hại mình hại người, cả hai đều bị hại; tu tập lời nói thiện lành lợi mình lợi người, mình người đều lợi. Bỏ nước bỏ ngôi, dứt hẳn tiền của, sắc dục, tự thực hành sáu ba-la-mật và cũng dạy người khác thực hành; vô số kiếp tích lũy công đức, sanh ra nơi nào cũng được vừa ý, vô lượng kho báu tự nhiên hiện theo; giáo hóa an lập vô số chúng sanh trụ nơi đạo Vô thượng chánh chân. Hoặc làm trưởng giả, cư sĩ sang cả tôn quý, hoặc làm sát-lợi vua chúa, Chuyển luân thánh vương, hoặc làm thiên chủ sáu cõi trời Dục cho đến Phạm vương thường dùng tứ sự cúng dường cung kính tất cả chư Phật. Công đức như thế chẳng thể nói hết, miệng thoảng mùi thơm như hoa ưu-bát-la, các lỗ chân lông trên thân tỏa hương chiên-đàn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới, dung sắc đoan chánh, tướng hảo rất đẹp, tay Ngài thường hiện ra của báu vô tận, y phục, thức uống ăn, hương hoa quý báu, lọng lụa, tràng phan, các đồ trang nghiêm. Những việc như vậy hơn các trời người, Ngài được tự tại đối với tất cả pháp.
Đoạn trên nói ngài Pháp Tạng dùng tâm vô lượng phát nguyện vô lượng, khởi hạnh vô lượng, không có một điều nào mà không xứng hợp với chân như pháp giới. Chúng sanh vô lượng, cõi nước vô lượng, bồ-tát tùy thuận chúng sanh trải qua bất khả thuyết bất khả thuyết na-do-tha kiếp vào bất khả thuyết bất khả thuyết Hằng hà sa cõi nước và dùng vô lượng hạnh hải để trang nghiêm các cõi nước ấy. Vì sao? Vì pháp giới vốn vô lượng nên nghiêm tịnh vô lượng cõi Phật như thế để độ thoát vô lượng chúng sanh mà thật ra không có cõi nước Phật để trang nghiêm, cũng không có chúng sanh để độ. Vì sao? Vì pháp giới tức phi pháp giới, cho nên nói: “ Vì đại trang nghiêm đầy đủ các hạnh”. Lại nói: “ Trụ pháp không, vô tướng, vô nguyện, vô tát, vô khởi, quán pháp như hóa”. Đây là bi trí song dung, lý sự vô ngại, cho nên có thể tự tại đối với tất cả pháp, luôn luôn sanh ra kinh pháp của bồ-tát. Phật nói: “ Ta nhớ quá khứ xa xưa cách nay vô lượng vô biên a-tăng-kỳ kiếp, có Phật hiệu là Bảo Công Đức Oai Tú Kiếp Vương, Đức Phật ấy sắp nhập niết-bàn thuyết pháp bản đà-la-ni cho chúng sanh nghe. Bấy giờ có Luân vương tên Trì Hỏa, vua có thái tử tên Bất Tư Nghị Thắng Công Đức tuổi vừa mười sáu theo Đức Như Lai ấy nghe pháp bản này rồi tinh tấn tu tập trong bảy vạn năm, chưa từng ngủ nghỉ, cũng chẳng dựa lưng, chỉ ngồi một chỗ, chẳng tham của báu cho đến vương vị, chẳng thích tự thân, được gặp chín mươi ức trăm nghìn na-do-tha Phật. Pháp chư Phật thuyết, ngài nghe nhận, tu tập hết, ngài cạo tóc xuất gia làm sa-môn, rồi lại ở trong chín vạn tu tập đà-la-ni này, còn chỉ dạy lại cặn kẽ cho chúng sanh. Trong một đời, ngài nỗ lực giáo hóa khiến cho tám mươi ức trăm nghìn na-do-tha chúng sanh phát đạo tâm, tích lũy công đức đến địa vị bất thoái. Bấy giờ tỳ-kheo Bất Tư Nghị Thắng Công Đức đâu phải người nào khác mà tức là A-di-đà Như Lai. Đây là nói bản hạnh của ngài Pháp Tạng đã tu đủ để chứng minh cho kinh này. Một đời còn như thế, huống là nhiều đời. Một kiếp còn như thế, huống là nhiều kiếp.
9. Pháp Tạng thành Phật
A-nan bạch Phật: Pháp Tạng bồ-tát vi dĩ thành Phật nhi thủ diệt độ, vi vị thành Phật, vi kim hiện tại?
Phật cáo A-nan: Pháp Tạng bồ-tát kim dĩ thành Phật, hiện tại Tây phương khứ thử thập vạn ức sát, kỳ Phật thế giới danh viết An Lạc.
A-nan hựu vấn: Kỳ Phật thành đạo dĩ lai vi kinh kỷ thời?
Phật ngôn: Thành Phật dĩ lai phàm lịch thập kiếp.
A-nan hỏi Phật: Bồ-tát Pháp Tạng đã thành Phật và đã diệt độ, hay chưa thành Phật, hay hiện nay đang thành Phật?
Phật đáp: Bồ-tát Pháp Tạng nay đã thành Phật hiện đang ở Tây phương cách đây mười muôn ức cõi nước; thế giới của Đức Phật ấy tên là An Lạc.
A-nan lại hỏi: Từ lúc Đức Phật ấy thành đạo đến nay đã bao lâu?
Phật đáp: Ngài thành Phật đến nay đã được mười kiếp.
Đoạn trên nói thời và xứ thành Phật. Nói hiện đang ở tại Tây phương, chẳng những lúc ấy gọi là hiện tại mà cho đến hôm nay và mãi đến vô tận mai sau cũng đều gọi là hiện tại, vì tuổi thọ của Phật vô lượng.
10. Quốc độ bảo nghiêm
Kỳ Phật quốc độ tự nhiên thất bảo kim, ngân, lưu-ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hợp thành vi địa, khôi khuếch quảng đãng, bất khả hạn cực, tất tương tạp thứ, chuyển tương gián nhập, quang hách dục thước, vi diệu kỳ lệ, thanh tịnh trang nghiêm siêu du thập phương nhất thiết thế giới, chúng bảo trung tinh, kỳ bảo du như đệ lục thiên bảo. Hựu kỳ quốc độ vô Tu-di sơn cập Kim Cang Vi nhất thiết chư sơn, diệc vô đại hải, tiểu hải, khê, cừ, tỉnh, cốc, Phật thần lực cố, dục kiến tắc kiến, diệc vô địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, chư nạn chi xứ, diệc vô tứ thời xuân, hạ, thu, đông, bất hàn, bất nhiệt, thường hòa điều thích.
Nhĩ thời A-nan bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Nhược bỉ quốc độ vô Tu-di sơn, kỳ Tứ Thiên vương cập Đao-lợi thiên y hà nhi trụ?
Phật ngứ A-nan: Đệ tam Viêm thiên nãi chí Sắc Cứu Cánh thiên giai y hà trụ?
A-nan bạch Phật: Hành nghiệp quả báo khả tư nghị.
Phật ngứ A-nan: Hành nghiệp quả báo khả tư nghị, chư Phật thế giới diệc bất khả tư nghị. Kỳ chư chúng sanh công đức thiện lực trụ hành nghiệp chi địa, cố năng nhĩ nhĩ.
A-nan bạch Phật: Ngã bất nghi thử pháp, đãn vị tương lai chúng sanh, dục trừ kỳ nghi hoặc, cố vấn tư nghĩa.
Cõi nước Phật ấy tự nhiên có bảy báu là vàng, bạc, lưu-ly, san hô, hổ phách, xa cừ, mã não hợp thành làm đất rộng rãi thênh thang không có ranh giới, các báu xen nhau chiếu sáng rực rỡ tốt đẹp lạ lùng, thanh tịnh trang nghiêm vượt hơn tất cả thế giới ở mười phương. Các thứ báu ấy là tinh hoa trong các thứ báu như châu báu của cõi trời thứ sáu. Cõi nước ấy không có núi Tu-di và tất cả các núi Kim Cang Vi, cũng không có biển lớn, biển nhỏ, sông, suối, giếng, hang, nhưng nhờ thần lực của Phật, muốn thấy thì được liền thấy; cũng không có các đường thống khổ địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cũng không có bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, chẳng lạnh, chẳng nóng, khí hậu điều hòa.
Bấy giờ A-nan hỏi Phật: Bạch Thế Tôn! Nếu cõi nước ấy không có núi Tu-di thì cõi trời Tứ Thiên vương và Đao-lợi nương vào đâu mà trụ?
Phật hỏi lại A-nan: Cõi trời Viêm (Diệm-ma) thứ ba cho đến cõi trời Sắc Cứu Cánh đều nương vào đâu mà trụ?
A-nan bạch Phật: Quả báo của hành nghiệp chẳng thể nghĩ bàn.
Phật bảo A-nan: Quả báo của hành nghiệp chẳng thể nghĩ bàn, thế giới chư Phật cũng chẳng thể nghĩ bàn. Do sức thiện công đức của các chúng sanh trụ chỗ hành nghiệp cho nên như thế mà thôi.
A-nan bạch Phật: Con chẳng nghi điều này, nhưng vì con muốn trừ nghi hoặc cho chúng sanh thời vị lai nên con mới hỏi nghĩa này.
Đoạn trên nói cõi nước thù thắng tức là thuộc về các điều nguyện ‘không có ba đường ác’ và ‘cõi nước nghiêm tịnh’ đã nói ở văn trước.
11 .Quang minh vô lượng
Phật cáo A-nan: Vô Lượng Thọ Phật oai thần quang minh tối tôn đệ nhất, chư Phật quang minh sở bất năng cập, hoặc chiếu bách Phật thế giới, hoặc thiên Phật thế giới, thủ yếu ngôn chi, nãi chiếu đông phương Hằng sa Phật sát, nam tây bắc phương, tứ duy thượng hạ diệc phục như thị. Hoặc hữu Phật quang chiếu ư thất xích, hoặc nhất do-tuần, nhị tam tứ ngũ do-tuần, như thị chuyển bội, nãi chí chiếu nhất thiết Phật sát. Thị cố, Vô Lượng Thọ Phật hiệu Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Kỳ hữu chúng sanh ngộ tư quang giả, tam cấu tiêu diệt, thân ý nhu nhuyến, hoan hỷ dũng dước, thiện tâm sanh yên. Nhược tại tam đồ cực khổ chi xứ kiến thử quang minh giai đắc hưu tức, vô phục khổ não, thọ chung chi hậu giai mông giải thoát. Vô Lượng Thọ Phật quang minh hiển hách chiếu diệu thập phương, chư Phật quốc độ mạc bất văn yên. Bất đãn ngã kim xưng kỳ quang minh, nhất thiết chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, chư Bồ-tát chúng hàm cộng thán dự diệc phục như thị. Nhược hữu chúng sanh văn kỳ quang minh oai thần công đức, nhật dạ xưng thuyết, chí tâm bất đoạn, tùy ý sở nguyện, đắc sanh kỳ quốc, vị chư Bồ-tát, Thanh văn chi chúng sở cộng thán dự, xưng kỳ công đức, chí kỳ tối hậu đắc Phật đạo thời, phổ vị thập phương chư Phật, Bồ-tát thán kỳ quang minh diệc như kim dã. Ngã thuyết Vô Lượng Thọ Phật quang minh oai thần nguy nguy thù diệu trú dạ nhất kiếp thượng vị năng tận.
Phật bảo A-nan: Quang minh oai thần của Đức Phật Vô Lượng Thọ tối tôn bậc nhất, quang minh của các Đức Phật khác chẳng thể bì kịp. Quang minh của Ngài hoặc chiếu trăm thế giới Phật, hoặc nghìn thế giới Phật. Nói tóm lại là chiếu đến Hằng sa cõi nước Phật ở phương đông, các phương nam, tây, bắc, bốn phương cạnh, phương trên, phương dưới cũng đều như vậy. Hoặc ánh sáng Phật chiếu bảy thước, hoặc một do-tuần, hai, ba, bốn, năm do-tuần, như vậy tăng gấp bội cho đến chiếu tất cả các cõi nước Phật. Thế nên Vô Lượng Thọ Phật còn có hiệu là Vô Lượng Quang Phật, Vô Biên Quang Phật, Vô Ngại Quang Phật, Vô Đối Quang Phật, Viêm Vương Quang Phật, Thanh Tịnh Quang Phật, Hoan Hỷ Quang Phật, Trí Huệ Quang Phật, Bất Đoạn Quang Phật, Nan Tư Quang Phật, Vô Xưng Quang Phật, Siêu Nhật Nguyệt Quang Phật. Nếu chúng sanh nào gặp ánh sáng này thì ba thứ căn bản phiền não (tham, sân, si) tiêu diệt, thân tâm nhu hòa, vui mừng hớn hở, phát sanh tâm lành. Nếu người đang ở trong ba đường ác đầy thống khổ thấy ánh sáng này thì các khổ đều ngừng, không còn đau khổ nữa, sau khi mạng chung đều được giải thoát. Quang minh của Phật Vô Lượng Thọ sáng ngời chiếu khắp mười phương, các cõi nước Phật đều nghe thấy, chẳng những hôm nay ta ngợi khen quang minh này, mà tất cả chư Phật, Thanh văn, Duyên giác, các bồ-tát cũng đều cùng nhau ca ngợi. Nếu chúng sanh nào nghe đến công đức oai thần của quang minh này, rồi ngày đêm chí tâm ngọi khen không dứt thì tùy theo ý nguyện được sanh về cõi của Ngài, được các chúng Bồ-tát, Thanh văn cùng nhau khen ngợi công đức của người ấy, cho đến lúc sau cùng người ấy đắc Phật đạo cũng được chư Phật, bồ-tát ở khắp mười phương ngợi khen quang minh của người ấy như ngày hôm nay. Ta nói oai thần quang minh vòi vòi tuyệt vời của Phật Vô Lượng Thọ ngày đêm suốt kiếp còn chưa thể hết.
Đoạn trên nói quang minh thù thắng tức là thuộc về các nguyện ‘quang minh có hạn lượng’ và ‘nhờ quang minh của ta” đã nói ở văn trước.
12. Thọ mạng vô lượng
Phật ngứ A-nan: Hựu Vô Lượng Thọ Phật thọ mạng trường cửu bất khả xưng kế, nhữ ninh tri hồ? Giả sử thập phương thế giới vô lượng chúng sanh giai đắc nhân thân tất linh thành tựu Thanh văn, Duyên giác đô cộng tập hội, thiền tư nhất tâm, kiệt kỳ trí lực, ư bách thiên vạn kiếp tất cộng suy toán kế kỳ thọ mạng trường viễn chi số, bất năng cùng tận, tri kỳ hạn cực; Thanh Văn, Bồ-tát , nhân, thiên chi chúng thọ mạng trường đoản diệc phục như thị, phi toán số, thí dụ sở năng tri dã.
Phật bảo A-nan: Thọ mạng của Phật Vô Lượng Thọ lâu dài chẳng thể tánh kể, ông có biết chăng? Giả sử chúng sanh trong các thế giới ở khắp mười phương đều được thân người và đều thành Thanh văn, Duyên giác cùng nhau nhất tâm suy tư, đem hết trí lực trải qua trăm nghìn vạn kiếp cùng nhau tánh toán số thọ mạng lâu dài của Ngài cũng không thể biết đến chỗ cùng tận; thọ mạng dài ngắn của Thanh văn, Bồ-tát, trời, người cũng lại như vậy, chẳng phải toán số, thí dụ có thể biết được.
Đoạn trên nói thọ mạng lâu dài tức là thuộc về các điều nguyện ‘ thọ mạng có hạn lượng’ và ‘ thọ mạng không thể hạn lượng’ đã nói ở văn trước.
13.Thánh chúng vô lượng
Hựu Thanh văn, Bồ-tát, kỳ số vô lượng bất khả xưng thuyết, thần trí đỗng đạt, oai lực tự tại, năng ư chưởng trung trì nhất thiết thế giới. Bỉ Phật sơ hội, Thanh văn chúng số bất khả xưng kế, Bồ-tát diệc nhiên. Như Đại Mục-kiền-liên bách thiên vạn ức vô lượng vô số, ư a-tăng-kỳ na-do-tha kiếp nãi chí diệt độ tất cộng kế giảo bất năng cứu liễu đa thiểu chi số. Thí như đại hải thâm quảng vô lượng, giả sử hữu nhân tích kỳ nhất mao dĩ vi bách phần, dĩ nhất phần mao triêm thủ nhất trích. Ư ý vân hà? Kỳ sở trích giả, ư bỉ đại hải, hà sở vi đa?
A-nan bạch ngôn: Bỉ sở trích thủy tỷ ư đại hải, đa thiểu chi lượng, phi xảo lịch toán số, ngôn từ, thí loại sở năng tri dã.
Phật ngứ A-nan: Như Mục-liên đẳng, ư bách thiên vạn ức na-do-tha kiếp kế bỉ sơ hội Thanh văn, Bồ-tát, sở tri số giả du như nhất trích, kỳ sở bất tri như đại hải thủy.
Lại nữa, số chúng Thanh văn, Bồ-tát khó lường, chẳng thể nói hết thần thông, trí huệ thông đạt, oai lực tự tại có thể cầm tất cả thế giới trong lòng bàn tay. Pháp hội đầu tiên của Đức Phật ấy có số chúng Thanh văn chẳng thể tánh kể, chúng Bồ-tát cũng như vậy. Trăm nghìn vạn ức vô lượng vô số người như Đại Mục-kiền-liên trong a-tăng-kỳ na-do-tha kiếp cho đến diệt độ cùng nhau tánh toán cũng chẳng thể biết được số nhiều ít. Ví như biển lớn sâu rộng vô lượng, giả sử có người chẻ một sợi lông thành trăm phần, rồi lấy một phần của sợi lông chấm lấy một giọt nước biển. Ý ông nghĩ sao? Giọt nước ấy so với biển lớn kia, cái nào là nhiều?
A-nan đáp: Giọt nước biển kia so với biển lớn, số lượng nhiều ít, chẳng phải toán số, ngôn từ có thể biết được.
Phật bảo A-nan: Những người như Mục-liên dù trải qua trăm nghìn vạn ức na-do-tha kiếp tánh số Thanh văn, Bồ-tát ở pháp hội đầu tiên của Đức Phật kia, số biết được như một giọt nước, còn số chẳng biết như nước biển lớn.
Đoạn trên nói thánh chúng vô lượng tức là thuộc về nguyện ‘ Thanh văn trong nước có thể tánh lường’ đã nói ở văn trước.
14. Các cây bảy báu
Hựu kỳ quốc độ thất bảo chư thụ chu mãn thế giới, kim thụ, ngân thụ, lưu-ly thụ, pha-lê thụ, san hô thụ, mã não thụ, xa cừ thụ. Hoặc hữu nhị bảo, tam bảo, nãi chí thất bảo, chuyển cộng hợp thành. Hoặc hữu kim thụ, ngân diệp hoa quả; hoặc hữu ngân thụ, kim diệp hoa quả; hoặc lưu-ly thụ, pha-lê vi diệp, hoa quả diệc nhiên; hoặc thủy tinh thụ, lưu-ly vi diệp, hoa quả diệc nhiên; hoặc san hô thụ, mã não vi diệp, hoa quả diệc nhiên; hoặc mã não thụ, lưu-ly vi diệp, hoa quả diệc nhiên; hoặc xa cừ thụ, chúng bảo vi diệp, hoa quả diệc nhiên. Hoặc hữu bảo thụ, tử kim vi bản, bạch ngân vi hành, lưu-ly vi chi, thủy tinh vi điều, san hô vi diệp, mã não vi hoa, xa cừ vi thật. Hoặc hữu bảo thụ, bạch ngân vi bản, lưu-ly vi hành, thủy tinh vi chi, san hô vi điều, mã não vi diệp, xa cừ vi hoa, tử kim vi thật. Hoặc hữu bảo thụ, lưu-ly vi bản, thủy tinh hành, san hô vi chi, mã não vi điều, xa cừ vi diệp, tử kim vi hoa, bạch ngân vi thật. Hoặc hữu bảo thụ, thủy tinh vi bản, san hô vi hành, mã não vi chi, xa cừ vi điều, tử kim vi diệp, bạch ngân vi hoa, lưu-ly vi thật. Hoặc hữu bảo thụ, san hô vi bản, mã não vi hành, xa cừ vi chi, tử kim vi điều, bạch ngân vi diệp, lưu-ly vi hoa, thủy tinh vi thật. Hoặc hữu bảo thụ, mã não vi bản, xa cừ vi hành, thử kim vi chi, bạch ngân vi điều, lưu-ly vi diệp, thủy tinh vi hoa, san hô vi thật. Hoặc hữu bảo thụ, xa cừ vi bản, tử kim vi hành, bạch ngân vi chi, lưu-ly vi điều, thủy tinh vi diệp, san hô vi hoa, mã não vi thật. Hàng hàng tương trực, hành hành tương vọng, chi chi tương chuẩn, diệp diệp tương hướng, hoa hoa tương thuận, thật thật tương đương, vinh sắc quang diệu, bất khả thăng thị, thanh phong thời phát xuất ngũ âm thanh, vi diệu cung thương, tự nhiên tương hòa.
Các cây bảy báu của cõi nước ấy đầy khắp thế giới, cây vàng, cây bạc, cây lưu-ly, cây pha-lê, cây san hô, cây mã não, cây xa cừ; hoặc có hai báu, ba báu cho đến bảy báu đắp đổi chung nhau hợp thành. Hoặc có cây vàng, lá hoa quả bạc; hoặc có cây bạc, lá hoa quả vàng; hoặc cây lưu-ly, lá hoa quả pha-lê, hoặc cây thủy tinh, lá hoa quả lưu-ly, hoặc cây san hô, lá hoa quả mã não, hoặc cây mã não, lá hoa quả lưu-ly ,hoặc cây xa cừ, lá hoa quả bằng các thứ báu. Hoặc có cây báu, tử kim làm gốc, bạch ngân làm thân, lưu-ly làm nhánh, thủy tinh làm cành, san hô làm lá, mã não làm hoa, xa cừ làm quả. Hoặc có cây báu, bạch ngân làm gốc, lưu-ly làm thân, thủy tinh làm nhánh, san hô làm cành, mã não làm lá, xa cừ làm hoa, tử kim làm quả. Hoặc có cây báu, lưu-ly làm gốc, thủy tinh làm thân, san hô làm nhánh, mã não làm cành, xa cừ làm lá, tử kim làm hoa, bạch ngân làm quả. Hoặc có cây báu, thủy tinh làm gốc, san hô làm thân, mã não làm nhánh, xa cừ làm cành, tử kim làm lá, bạch ngân làm hoa, lưu-ly làm quả. Hoặc có cây báu, san hô làm gốc, mã não làm thân, xa cừ làm nhánh, tử kim làm cành, bạch ngân làm lá, lưu-ly làm hoa, thủy tinh làm quả. Hoặc có cây báu, mã não làm gốc, xa cừ làm thân, tử kim làm nhánh, bạch ngân làm cành, lưu-ly làm lá, thủy tinh làm hoa, san hô làm quả. Hoặc có cây báu, xa cừ làm gốc, tử kim làm thân, bạch ngân làm nhánh, lưu-ly làm cành, thủy tinh làm lá, san hô làm hoa, mã não làm quả. Hàng hàng ngang nhau, thân thân đối nhau, nhánh nhánh xứng nhau, lá lá hướng nhau, hoa hoa thuận nhau, quả quả xứng nhau, nhiều màu sáng chói, nhìn không biết chán, gió mát thoảng qua phát ra tiếng ngũ âm, cung thương vi diệu tự nhiên hòa nhã.
15. Đạo tràng bảo thụ
Hựu Vô Lượng Thọ Phật, kỳ đạo tràng thụ cao tứ bách vạn lý, kỳ chu vi ngũ thiên do-tuần, chi diệp tứ bố nhị thập vạn lý, nhất thiết chúng bảo tự nhiên hợp thành, dĩ nguyệt quang ma-ni trì hải luân bảo chúng bảo chi vương nhi trang nghiêm chi. Chu táp điều gian, thùy bảo anh lạc, bách thiên vạn sắc, chủng chủng dị biến, vô lượng quang diễm chiếu diệu vô cực, trân diệu bảo võng la phú kỳ thượng, nhất thiết trang nghiêm tùy ứng nhi hiện. Vi phong từ động xuy chư bảo thụ diễn xuất vô lượng diệu pháp âm thanh, kỳ thanh lưu bố biến chư Phật quốc. Văn kỳ âm giả đắc thâm pháp nhẫn, trụ bất thoái chuyển chí thành Phật đạo, nhĩ căn thanh triệt bất tao khổ hoạn, mục đổ kỳ sắc, tỷ tri kỳ hương, khẩu thường kỳ vị, thân xúc kỳ quang, tâm dĩ pháp duyên giai đắc thậm thâm pháp nhẫn, trụ bất thoái chuyển chí thành Phật đạo, lục căn thanh triệt, vô chư não hoạn.
A-nan! Nhược bỉ quốc độ thiên nhân kiến thử thụ giả đắc tam pháp nhẫn: nhất giả âm hưởng nhẫn, nhị giả nhu thuận nhẫn, tam giả vô sanh pháp nhẫn. Thử giai Vô Lượng Thọ Phật oai thần lực cố, bản nguyện lực cố, mãn túc nguyện cố, minh liễu nguyện cố, kiên cố nguyện cố, cứu cánh nguyện cố.
Phật cáo A-nan: Thế gian Đế vương hữu bách thiên âm nhạc, tự Chuyển luân thánh vương nãi chí đệ lục thiên thượng, kỹ nhạc âm thanh triển chuyển tương thắng thiên ức vạn bội. Đệ lục thiên thượng vạn chủng âm nhạc bất như Vô Lượng Thọ quốc chư thất bảo thụ nhất chủng âm thanh thiên ức bội dã, diệc hữu tự nhiên vạn chủng kỹ nhạc. Hựu kỳ nhạc thanh vô phi pháp âm, thanh sướng ai lượng, vi diệu hòa nhã, thập phương thế giới âm thanh chi trung tối vi đệ nhất.
Cây đạo tràng của Phật Vô Lượng Thọ cao bốn trăm vạn dặm, chu vi gốc cây năm nghìn do-tuần, nhánh lá gie ra bốn phía hai mươi vạn dặm, do tất cả các thứ châu báu tự nhiên hợp thành, dùng Nguyệt quang ma-ni trì hải luân bảo là vua của các châu báu để trang nghiêm cây ấy. Khoảng giữa những nhánh cây có treo các chuỗi báu anh lạc trăm nghìn muôn màu biến hiện khác nhau, vô lượng quang minh chiếu sáng rực rỡ, lưới báu vi diệu giăng phủ bên trên, tất cả các thứ trang nghiêm tùy ứng mà hiện. Gió nhẹ thổi qua lay động các cây báu phát ra vô lượng pháp âm vi diệu, tiếng ấy vang khắp cõi nước chư Phật. Người nghe tiếng ấy đắc pháp nhẫn thâm diệu, trụ bất thoái chuyển đến thành Phật đạo. Lỗ tai thông tỏ, chẳng bị bệnh khổ,
mắt thấy hình cây, mũi ngữi mùi cây, miệng nếm vị cây, thân tiếp xúc ánh sáng của cây, tâm lấy pháp làm duyên thì đều đắc pháp nhẫn thâm diệu, trụ bất thoái chuyển đến thành Phật đạo, sáu căn thông tỏ, không có các khổ não.
A-nan! Nếu trời người ở cõi nước ấy thấy cây này thì đắc ba thứ pháp nhẫn: một là Âm hưởng nhẫn, hai là Nhu thuận nhẫn, ba là Vô sanh pháp nhẫn. Đây đều là do sức oai thần, do sức bản nguyện, do nguyện mãn túc, do nguyện kiên cố, do nguyện cứu cánh của Đức Phật Vô Lượng Thọ.
Phật bảo A-nan: Đế vương ở thế gian có trăm nghìn âm nhạc, từ Chuyển luân thánh vương cho đến trên cõi trời thứ sáu của Dục giới, âm thanh của kỹ nhạc càng lên cao càng thù thắng gấp nghìn ức vạn lần, cũng có muôn loại kỹ nhạc tự nhiên. Lại nữa, tiếng nhạc của cõi Phật ấy đều là pháp âm rõ ràng thanh tao, vi diệu hòa nhã, là âm thanh bậc nhất trong các âm thanh của mười phương thế giới.
16. Lầu các giảng đường
Kỳ giảng đường tinh xá, cung điện lâu quán giai thất bảo trang nghiêm tự nhiên hóa thành; phục dĩ chân châu minh nguyệt ma-ni chúng bảo dĩ vi giao lạc phú cái kỳ thượng.
Giảng đường, tinh xá, cung điện, lầu các của cõi nước Cực Lạc đều được bảy báu trang nghiêm, tự nhiện hóa thành; còn dùng các thứ báu chân châu, minh nguyệt, ma-ni đan nhau che ở bên trên.
17. Ao tắm bảy báu
Nội ngoại tả hữu hữu chư dục trì, hoặc thập do-tuần, hoặc nhị thập, tam thập nãi chí bách thiên do-tuần, túng quảng thâm thiển, giai các nhất đẳng. Bát công đức thủy trạm nhiên doanh mãn, thanh tịnh hương khiết, vị như cam lộ. Hoàng kim trì giả, để bạch ngân sa; bạch ngân trì giả, để hoàng kim sa; thủy tinh trì giả, để lưu-ly sa; lưu-ly trì giả, để thủy tinh sa; san hô trì giả, để hổ phách sa; hổ phách trì giả, để san hô sa; xa cừ trì giả, để mã não sa; mã não trì giả, để xa cừ sa; bạch ngọc trì giả, để tử kim sa; tử kim trì giả, để bạch ngọc sa. Hoặc hữu nhị bảo, tam bảo, nãi chí thất bảo chuyển cộng hợp thành. Kỳ trì ngạn thượng hữu chiên-đàn thụ, hoa diệp thùy bố, hương khí phổ huân. Thiên ưu-bát-la hoa, câu-mâu-đầu hoa, phân-đà-lợi hoa, tạp sắc quang mậu, di phú thủy thượng. Bỉ chư bồ-tát cập Thanh văn chúng, nhược nhập bảo trì, ý dục linh thủy một túc, thủy tức một túc, dục linh chí tất, tức chí ư tất, dục linh chí yêu, thủy tức chí yêu, dục linh chí cảnh, thủy tức chí cảnh, dục linh quán thân, tự nhiên quán thân, dục linh hoàn phục, thủy triếp hoàn phục, điều hòa lãnh noãn, tự nhiên tùy ý, khai thần duyệt thể, đãng trừ tâm cấu, thanh minh trừng khiết, tịnh nhược vô hình, bảo sa ánh triệt, vô thâm bất chiếu, vi lan hồi lưu, chuyển tương quán chú, an tường từ thệ, bất trì bất tật; ba dương vô lượng tự nhiên diệu thanh, tùy kỳ sở ưng, mạc bất văn giả. Hoặc văn Phật thanh, hoặc văn pháp thanh, hoặc văn tăng thanh, hoặc tịch tĩnh thanh, không, vô ngã thanh, đại từ bi thanh, ba-la-mật thanh, hoặc thập lực, vô úy, bất cộng pháp thanh, chư thông huệ thanh, vô sở tác thanh, bất khởi diệt thanh, vô sanh nhẫn thanh, nãi chí cam lộ quán đảnh chúng diệu pháp thanh. Như thị đẳng thanh xứng kỳ sở văn, hoan hỷ vô lượng, tùy thuận thanh tịnh ly dục tịch tĩnh chân thật chi nghĩa, tùy thuận tam bảo, lực, vô sở úy, bất cộng chi pháp, tùy thuận thông huệ, bồ-tát, thanh văn sở hành chi đạo, vô hữu tam đồ khổ nạn chi danh, đãn hữu tự nhiên khoái lạc chi âm, thị cố kỳ quốc danh viết An Lạc.
A-nan! Bỉ Phật quốc độ, chư vãng sanh giả cụ túc như thị thanh tịnh sắc thân, chư diệu âm thanh, thần thông công đức.
Trong ngoài, trái phải có các ao tắm hoặc mười do-tuần, hoặc hai mươi, ba mươi cho đến trăm nghìn do-tuần, ngang dọc sâu cạn cũng đều như nhau. Nước tám công đức trong trẻo tràn đầy thanh tịnh thơm tho, vị như cam lộ. Ao bằng vàng ròng thì đáy ao trải cát bạch ngân; ao bằng bạch ngân thì đáy ao trải cát vàng ròng; ao bằng thủy tinh thì đáy ao trải cát lưu-ly; ao bằng lưu-ly thì đáy ao trải cát thủy tinh; ao bằng san hô thì đáy ao trải cát hổ phách; ao bằng hổ phách thì đáy ao trải cát san hô; ao bằng xa cừ thì đáy ao trải cát mã não; ao bằng mã não thì đáy ao trải cát xa cừ; ao bằng bạch ngọc thì đáy ao trải cát tử kim; ao bằng tử kim thì đáy ao trải cát bạch ngọc; hoặc có hai báu, ba báu cho đến bảy báu cùng chung hợp thành. Trên bờ các ao ấy có cây chiên-đàn, hoa lá sum suê, mùi hương lan tỏa khắp nơi, hoa ưu-bát-la, hoa bát-đầu-ma, hoa câu-mâu-đầu, hoa phân đà-lợi nhiều màu sáng chói che trên mặt nước. Các vị bồ-tát và chúng Thanh văn muốn vào ao tắm, muốn nước đến chân thì nước liền đến chân, muốn nước đến đầu gối thì nước liền đến đầu gối, muốn nước đến lưng thì nước liền đến lưng, muốn nước đến cổ thì nước liền đến cổ, muốn nước ngập thân thì tự nhiên ngập thân, muốn nước rút xuống thì nước rút xuống như cũ. Nhiệt độ của nước điều hòa ấm lạnh tự nhiên vừa ý, tinh thần vui vẻ, thân thể khỏe khoắn, trừ sạch tâm cấu, trong sáng thanh khiết, trong suốt như vô hình. Cát báu phản chiếu suốt cả đáy sâu, sóng gợn lăn tăn xô đẩy với nhau từ từ trôi chảy chẳng chậm chẳng mau. Sóng nước phát ra vô lượng âm thanh vi diệu tự nhiên, tùy ý muốn nghe thì đều được nghe, hoặc nghe tiếng Phật, hoặc nghe tiếng pháp, hoặc nghe tiếng tăng, hoặc tiếng tịch tĩnh, hoặc tiếng không, vô ngã, hoặc tiếng đại từ bi, tiếng ba-la-mật, hoặc tiếng thập lực, vô úy, bất cộng pháp, tiếng các thông huệ, tiếng vô sở tác,, tiếng bất khởi diệt, tiếng vô sanh nhẫn, cho đến các tiếng diệu pháp cam lộ quán đảnh. Những tiếng như thế hợp ý người nghe khiến họ hoan hỷ vô lượng, tùy thuận nghĩa chân thật thanh tịnh ly dục tịch diệt, tùy thuận tam bảo, thập lực, vô sở úy, pháp bất cộng, tùy thuận đạo thần thông, trí huệ của bồ-tát, thanh văn tu hành, không có danh từ tam đồ khổ nạn, chỉ có tiếng phúc lạc tự nhiên, thế nên cõi nước ấy mang tên là An Lạc.
Này A-nan! Các chúng sanh vãng sanh về cõi An Lạc được đầy đủ sắc thân thanh tịnh, các âm thanh vi diệu, thần thông, công đức như thế.
Từ phần thứ mười bốn đến đây nói các thứ trang nghiêm như: cây báu, âm thanh, cung điện, ao tắm, những người thấy nghe đều được pháp lạc, tức là thuộc về các nguyện ‘không nghe danh từ bất thiện’, ‘người và vật đều thanh tịnh trang nghiêm’, ‘thấy hết vô lượng nghiêm sức như cung điện, ao tắm ở khắp mười phương’ đã nói ở văn trước.
18. Y thực tự nhiên
Sở xử cung điện, y phục, ẩm thực, chúng diệu hoa hương, trang nghiêm chi cụ, du đệ lục thiên tự nhiên chi vật. Nhược dục thực thời, thất bảo bát khí tự nhiên tại tiền, kim ngân, lưu-ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, minh nguyệt, chân châu. Như thị đẳng bát tùy ý nhi chí, bách vị ẩm thực tự nhiên doanh mãn. Tuy hữu thử thực, thật vô thực giả, đãn kiến sắc văn hương ý dĩ vi thực, tự nhiên bão túc, thân tâm nhu nhuyến, vô sở vị trước, sự dĩ hóa khứ, thời chí phục hiện. Bỉ Phật quốc độ thanh tịnh an ổn, vi diệu khoái lạc, thứ ư vô vi niết-bàn chi đạo.
Cung điện của người vãng sanh cư trú, y phục, thức uống ăn, các thứ hoa đẹp, hương thơm vi diệu, các món trang nghiêm giống như các đồ vật tự nhiên của tầng trời thứ sáu của cõi Dục. Nếu lúc muốn ăn thì bát bằng bảy báu tự nhiên hiện ra trước mặt. Các thứ bát bằng vàng, bạc, lưu-ly, xa cừ, mã não, san hô, hổ phách, minh nguyệt, chân châu. Các bát như vậy tùy ý liền đến trăm món ăn ngon tự nhiên đầy bát. Tuy có ăn uống mà thật ra không có ăn uống, chỉ cần thấy sắc ngửi hương, ý cho là ăn thì tự nhiên no đủ, thân tâm nhẹ nhàng, không có tham đắm. Ăn xong bát báu biến mất, đến giờ lại hiện. Cõi nước Phật ấy thanh tịnh an ổn, khoái lạc vi diệu, chỉ cận kề đạo niết-bàn vô vi.
Đoạn trên nói cơm ăn, áo mặc, các thứ vật dụng tùy tâm hóa hiện, tức là thuộc về các nguyện ‘y thực tùy niệm’,’ hưởng thụ phúc lạc’ đã nói ở văn trước.
19. Dung mạo đoan chánh
Kỳ chư thanh văn, bồ-tát thiên nhân trí huệ cao minh, thần thông đỗng đạt, hàm đồng nhất loại, hình vô dị trạng, đãn nhân thuận dư phương, cố hữu thiên nhân chi danh. Nhan mạo đoan chánh, siêu thế hy hữu, dung sắc vi diệu, phi thiên phi nhân, giai thọ tự nhiên hư vô chi thân, vô cực chi thể.
Phật cáo A-nan: Thí như thế gian bần cùng khất nhân tại đế vương biên, hình mạo dung trạng ninh khả loại hồ?
A-nan bạch Phật: Giả linh thử nhân tại đế vương biên, luy lậu xú ác, vô dĩ vi dụ, bách thiên vạn ức bất khả kế bội.
Phật cáo A-nan: Nhữ ngôn thị dã. Kế như đế vương tuy nhân trung tôn quý, hình sắc đoan chánh, tỷ chi Chuyển luân thánh vương thậm vi bỉ lậu, du bỉ khất nhân tại đế vương biên dã. Chuyển luân thánh vương oai tướng thù diệu thiên hạ đệ nhất, tỷ chi Đao-lợi thiên vương hựu phục xú ác, bất đắc tương dụ vạn ức bội dã. Giả linh Thiên đế tỷ đệ lục thiên vương, bách thiên ức bội bất tương loại dã. Thiết đệ lục thiên vương tỷ Vô Lượng Thọ Phật quốc bồ-tát, thanh văn, quang nhan dung sắc bất tương cập đãi, bách thiên vạn ức bất khả kế bội.
Các vị thanh văn, bồ-tát, trời, người trong cõi nước ấy trí huệ cao minh, thần thông đỗng đạt, đều đồng một loại hình sắc không khác, nhưng vì thuận theo phương khác nên có tên gọi trời, người, dung mạo đoan chánh hiếm có, vượt hơn thế gian, nhan sắc vi diệu chẳng phải trời, chẳng phải người, đều thọ thân thể tự nhiên hư vô, vô cực.
Phật hỏi A-nan: Ví như ở thế gian có người ăn mày đứng bên cạnh Đế vương, dung mạo của kẻ ấy có thể sánh với vị Đế vương chăng?
A-nan bạch Phật: Kẻ này đứng bên cạnh Đế vương thì xấu xí trăm nghìn vạn ức lần cũng chẳng thể thí dụ.
Phật bảo A-nan: Đúng thế! Như Đế vương là bậc tôn quý trong loài người hình sắc đoan chánh, nhưng so với Chuyển luân thánh vương thì rất xấu xí như kẻ ăn mày đứng bên cạnh Đế vương. Chuyển luân thánh vương tướng mạo đặc biệt oai nghiêm đệ nhất thiên hạ, nhưng so với vua cõi trời Đao-lợi thì lại xấu xí vạn ức lần không thể thí dụ. Giả sử Thiên đế so với vua cõi trời thứ sáu thì trăm nghìn ức lần cũng không bằng. Giả sử vua cõi trời thứ sáu so với bồ-tát, thanh văn ở cõi nước Phật Vô Lượng Thọ dung sắc sáng rỡ trăm vạn ức lần không thể bì kịp.
Đoạn trên nói sắc thân thù thắng vi diệu tức là thuộc các điều nguyện ‘thân sắc vàng ròng’ và ‘thân không có tốt xấu’ đã nói ở văn trước.
20. Khen chung về sự trang nghiêm
Phật bảo A-nan: Vô Lượng Thọ quốc, kỳ chư thiên nhân, y phục ẩm thực, hương hoa anh lạc, tăng cái tràng phan, vi diệu âm thanh, sở cư xá trạch cung điện lâu các, xứng kỳ hình sắc cao hạ đại tiểu. hoặc nhất bảo, nhị bảo nãi chí vô lượng chúng bảo, tùy ý sở dục, ứng niệm tức chí. Hựu dĩ chúng bảo diệu y biến bố kỳ địa, nhất thiết thiên nhân tiễn chi nhi hành. Vô lượng bảo võng di phú Phật độ, giai dĩ kim lũ chân châu, bách thiên tạp bảo, kỳ diệu trân dị, trang nghiêm hiệu sức, châu táp tứ diện, thùy dĩ bảo linh, quang sắc hoảng diệu, cực tận nghiêm lệ, tự nhiên đắc phong từ khởi vi động. Kỳ phong điều hòa bất hàn bất thử, ôn lương nhu nhuyến, bất trì bất tật, xuy chư la võng cập chúng bảo thọ, diễn phát vô lượng vi diệu pháp âm. Lưu bố vạn chủng ôn nhã đức hương, kỳ hữu văn giả, trần lao cấu tập tự nhiên bất khởi. Phong xúc kỳ thân giai đắc khoái lạc ví như tỳ-kheo đắc diệt tận tam-muội. Hựu phong xuy tán hoa biến mãn Phật độ, tùy sắc thứ đệ nhi bất tạp loạn, nhu nhuyến quang trạch, hinh hương phân liệt; túc lý kỳ thượng, thao hạ tứ thốn, tùy cử túc dĩ, hoàn phục như cố. Hoa dụng dĩ ngật, địa triếp khai liệt dĩ thứ hóa một, thanh tịnh vô di, tùy kỳ thời tiết, phong xuy tán hoa, như thị lục phản.
Phật bảo A-nan: Các trời người ở cõi nước Phật Vô Lượng Thọ được y phục, thức uống ăn, hoa, hương, chuỗi anh lạc, lọng lụa, tràng phan, âm thanh vi diệu, nhà cửa, cung điện, lầu gác cao thấp lởn nhỏ xứng với thân của người ở trong đó, hoặc được làm bằng một thứ báu, hoặc hai cho đến vô lượng các thứ báu, tùy theo ý muốn, vừa nghĩ đến liền hiện ra. Lại dùng các thứ y đẹp dệt bằng các báu trải khắp mặt đất, tất cả trời người bước đi trên đó. Vô lượng lọng báu che phủ cõi Phật, chúng đều được làm bằng tơ vàng kết chân châu, trăm nghìn châu báu xen nhau kỳ diệu quý lạ trang sức. Giáp vòng bốn phía treo các chuông báu, ánh sáng rực rỡ vô cùng tráng lệ. Tự nhiên có gió ấm lạnh điều hòa mát mẻ dễ chịu, gió thổi nhẹ nhàng không mau không chậm qua các mành lưới và các cây báu phát ra vô lượng pháp âm vi diệu. Trong gió còn lan tỏa muôn thứ mùi hương công đức dịu dàng thanh nhã, người nào ngửi được mùi hương này thì tập khí phiền não trần lao tự nhiên chẳng khởi. Gió chạm vào thân cảm thấy an lạc như tỳ-kheo đắc tam-muội Diệt tận. Gió còn thổi hoa rải khắp cõi Phật, theo các màu hoa không có tạp loạn, mềm mại sáng mượt, mùi thơm ngào ngạt, chân dẫm đạp trên ấy lún xuống bốn tấc, dỡ bước chân lên thì trở lại như cũ. Hoa đã dùng xong, đất liền nứt ra chôn lấp hoa ấy sạch sẽ không sót. Tùy theo thời tiết, gió thổi rải hoa, sáu thời như vậy.
Đoạn trên nói rộng về y báo và các pháp lạc để đầy đủ ý đã nói ở trước.
21. Ánh sáng hiện Phật
Hựu chúng bảo liên hoa chu mãn thế giới, nhất nhất bảo hoa bách thiên ức diệp. Kỳ hoa quang minh, vô lượng chủng sắc, thanh sắc thanh quang, bạch sắc bạch quang, huyền, hoàng, chu, tử, quang sắc hách nhiên, vĩ diệp hoán lạn, minh diệu nhật nguyệt. Nhất nhất hoa trung, xuất tam thập lục bách thiên ức Phật, sắc thân tử kim, tướng hảo thù đặc. Nhất nhất chư Phật, hựu phóng bách thiên quang minh, phổ vị thập phương thuyết vi diệu pháp. Như thị chư Phật, các các an lập vô lượng chúng sanh ư Phật chánh đạo.
Các hoa sen báu đầy khắp thế giới, mỗi một hoa báu có trăm nghìn ức cánh. Ánh sáng của hoa có vô lượng màu, hoa màu xanh phóng ánh sáng xanh, hoa màu trắng phóng ánh sáng trắng, đen, vàng, đỏ, tía cũng lại như vậy. Màu sắc ánh sáng chói lọi rực rỡ, sáng hơn mặt trời, mặt trăng. Trong mỗi một hoa báu phóng ra ba mươi sáu trăm nghìn ức tia sáng, trong mỗi một tia sáng xuất hiện ba mươi sáu trăm nghìn ức Phật, thân màu vàng tía, tướng hảo đặc biệt tốt đẹp. Mỗi một Đức Phật lại phóng ra trăm nghìn tia sáng thuyết pháp vi diệu ở khắp mười phương. Các Đức Phật như thế đều an lập chúng sanh nơi chánh đạo của Phật.
Đoạn trên nói về thân Phật hiện khắp tất cả mọi nơi, tùy theo chúng sanh hữu duyên mà tiếp dẫn, làm duyên khởi vãng sanh cho văn sau. Các thứ trang nghiêm, các thứ Phật sự như trên đã nói, không từ đâu tới cũng không đi về đâu, như mây trong hư không, như trăng đáy nước, như bóng trong gương, như người huyễn được biến hóa ra, đều do thần lực của Phật, do tùy theo tâm chúng sanh mà xuất hiện. Phải biết thần lực của tất cả chúng sanh vốn cùng với Như Lai không hai, không khác, nhưng vì không có đại nguyện, đại hạnh phát khởi nhân thù thắng nên bất giác bất tri trầm luân nhiều kiếp. Nếu có thể một niệm hồi quang mới biết gia nghiệp vốn sẵn đủ, như người vào trong núi báu, lấy báu vô tận, như người vào trong đất nước hương thì đến đâu cũng được thơm tho. Vậy cần phải đích thân đó đến mới thôi, đừng có nửa đường bỏ dở.
22. Ba bậc vãng sanh
Phật cáo A-nan: Kỳ hữu chúng sanh sanh bỉ quốc giả giai tất trụ ư chánh định chi tụ. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc trung vô chư tà tụ cập bất định tụ. Thập phương Hằng sa chư Phật Như Lai giai cộng tán thán Vô Lượng Thọ Phật oai thần công đức bất khả tư nghị. Chư hữu chúng sanh văn kỳ danh hiệu, tín tâm hoan hỷ, nãi chí nhất niệm chí tâm hồi hướng, nguyện sanh bỉ quốc, tức đắc vãng sanh, trụ bất thoái chuyển, duy trừ ngũ nghịch, phỉ báng chánh pháp.
Phật cáo A-nan: Thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm nguyện sanh bỉ quốc phàm hữu tam bối.
Kỳ thượng bối giả, xả gia khí dục nhi tác sa-môn phát bồ-đề tâm nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, tu chư công đức, nguyện sanh bỉ quốc. Thử đẳng chúng sanh lâm thọ chung thời, Vô Lượng Thọ Phật dữ chư đại chúng hiện kỳ nhân tiền, tức tùy bỉ Phật vãng sanh kỳ quốc, tiện ư thất bảo hoa trung tự nhiên hóa sanh, trụ bất thoái chuyển, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại. Thị cố A-nan! Kỳ hữu chúng sanh dục ư kim thế kiến Vô Lượng Thọ Phật, ưng phát vô thượng bồ-đề chi tâm, tu hành công đức, nguyện sanh bỉ quốc.
Kỳ trung bối giả, thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm dục sanh bỉ quốc, tuy bất năng hành tác sa-môn đại tu công đức, đương phát vô thượng bồ-đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm Vô Lượng Thọ Phật, đa thiểu tu thiện, phụng trì trai giới, khởi lập tháp tượng, phạn thực sa-môn, huyền tăng nhiên đăng, tán hoa thiêu hương, nguyện sanh bỉ quốc. Kỳ nhân lâm chung, Vô Lượng Thọ Phật hóa hiện kỳ thân, quang minh tướng hảo cụ như chân Phật, dữ chư đại chúng hiện kỳ nhân tiền, tức tùy hóa Phật vãng sanh kỳ quốc, trụ bất thoái chuyển, công đức trí huệ thứ như thượng bối giả dã.
Kỳ hạ bối giả, thập phương thế giới chư thiên nhân dân, kỳ hữu chí tâm dục sanh bỉ quốc, giả sử bất năng tác chư công đức, đương phát vô thượng bồ-đề chi tâm, nhất hướng chuyên niệm, nãi chí thập niệm niệm Vô Lượng Thọ Phật, nguyện sanh kỳ quốc, nhược văn thâm pháp, hoan hỷ tín nhạo, bất sanh nghi hoặc, nãi chí nhất niệm niệm ư bỉ Phật, dĩ chí thành tâm nguyện sanh kỳ quốc. Thử nhân lâm chung mộng kiến bỉ Phật diệc đắc vãng sanh, công đức trí huệ thứ như trung bối giả dã.
Phật bảo A-nan: Nếu có chúng sanh được sanh về cõi nước kia thì họ đều được trụ chánh định tụ. Vì sao? Vì trong cõi Phật ấy không có các tà tụ và bất định tụ. Các Đức Phật Như Lai ở khắp mười phương nhiều như số cát sông Hằng đều cùng nhau ngợi khen oai thần công đức chẳng thể nghĩ bàn của Đức Phật Vô Lượng Thọ. Các chúng sanh nào nghe danh hiệu của Ngài, tín tâm hoan hỷ cho đến một niệm chí tâm hồi hướng nguyện sanh về cõi nước kia thì liền được vãng sanh, trụ bậc bất thoái chuyển, chỉ trừ người tạo tội ngũ nghịch và phỉ báng chánh pháp.
Phật bảo A-nan: Chư thiên, nhân dân ở khắp mười phương thế giới, người chí tâm nguyện sanh về cõi nước kia, nói chung có ba bậc:
Người bậc thượng xuất gia ly dục thành bậc sa-môn, phát tâm bồ-đề nhất hướng chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, tu các công đức, nguyện sanh về nước kia. Những chúng sanh này lúc mạng chung được Đức Phật Vô Lương Thọ và các thánh chúng hiện ở trước mặt, người này liền theo Đức Phật ấy mà vãng sanh về cõi nước Phật kia bằng cách tự nhiên hóa sanh trong hoa sen bảy báu, trụ bất thoái chuyển, trí huệ dũng mãnh, thần thông tự tại. Thế nên, nếu có chúng sanh nào muốn ở hiện đời thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ thì phải nên phát tâm Vô thượng bồ-đề, tu hành công đức, nguyện sanh nước kia.
Về người bậc trung, chư thiên, nhân dân ở khắp thế giới mười phương, nếu có người chí tâm nguyện sanh về nước kia tuy chẳng thể xuất gia làm sa-môn tu nhiều công đức thì phải phát tâm Vô thượng bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm Phật Vô Lượng Thọ, ít nhiều tu thiện, phụng trì trai giới, xây tháp tạo tượng, cúng dường sa-môn, treo phan, thắp đèn, rải hoa, đốt hương; đem các công đức này hồi hướng nguyện sanh nước kia. Lúc người này mạng chung, Phật Vô Lượng Thọ hóa thân quang minh tướng hảo đầy đủ như chân thân Phật cùng với đại chúng hiện ra trước người này. Người này liền theo hóa Phật vãng sanh về cõi nước kia, trụ bất thoái chuyển, công đức, trí huệ kém hơn người bậc thượng.
Về người hạ bối, chư thiên, nhân dân ở khắp thế giới mười phương, nếu có người chí tâm muốn sanh về nước kia, giả sử chẳng thể làm các công đức, thì cũng phải phát tâm Vô thượng bồ-đề, nhất hướng chuyên niệm cho đến mười niệm niệm Phật Vô Lượng Thọ, nguyện sanh nước kia. Nếu người này nghe pháp thâm diệu, vui vẻ tin ưa, chẳng sanh nghi ngờ, cho đến một niệm niệm Đức Phật kia, dùng tâm chí thành nguyện sanh về cõi nước kia thì lúc lâm chung, người này mộng thấy Phật Vô Lượng Thọ, cũng được vãng sanh, công đức, trí huệ kém hơn người bậc trung.
Đoạn trên nói về chánh nhân vãng sanh tức là thuộc về nguyện ‘ Chúng sanh trong khắp mười phương tin ưa, phát nguyện, hồi hướng v.v…’ ở đoạn văn trước. Đầu tiên nói một niệm chí tâm hồi hướng thì được vãng sanh. Hành giả thật sự có thể từ trong một niệm này tín nhập thì đâu cần phải luận đến các thứ công huân. Tất cả chúng sanh bị trôi nổi trong biển sanh tử cũng chỉ vì một niệm này, không có niệm thứ hai nào khác, cho đến phát chân quy nguyên, thành Đẳng chánh giác, cũng chỉ một niệm này, không có niệm thứ hai.
Luận Đại trí độ nói: Người hành bát-nhã ba-la-mật trong một niệm có thể nghiền đất đai, núi non của tất cả tam thiên đại thiên thế giới nhiều như số cát sông Hằng ở khắp mười phương thành vi trần”. Sức của một niệm chẳng thể nghĩ bàn. Như vậy, niệm Phật, ngay nơi niệm tức là Phật, ngay nơi Phật tức là tâm, chẳng phải trong, chẳng phải ngoài, chẳng phải triền phược, chẳng phải giải thoát, tận núi sông đất đai, mười phương hư không, không một chỗ nào dù nhỏ như hạt cải mà chẳng phải là chỗ Đức Phật Vô Lượng Thọ hiện thân thuyết pháp, cho đến ly tức ly phi, chóng nhập Như Lai đại quang minh tạng.
Trong kinh này nói sơ lược các đẳng cấp sai khác là vì phương tiện tiếp dẫn:
Người bậc thượng chuyên thuộc sa-môn. Tất cả chúng sanh do vì khát ái nên có huyễn thân, do có huyễn thân nên có quốc độ, xuất gia ly dục vì khát ái tịnh nên huyễn thân tịnh, vì huyễn thân tịnh nên quốc độ cũng tịnh. Kinh Đại Bát-nhã nói: “ Đại bồ-tát thích đi đến các cõi Phật thì phải nên lìa xa cư gia”. Thế nên biết xuất gia là chánh nhân tịnh độ vì có thể lìa xa bất tịnh.
Kế nói phát tâm bồ-đề, trong kinh Đại Bát-nhã, tôn giả Thiện Hiện hỏi: Như Lai thường nói bồ-đề, vậy do nghĩa gì mà gọi là bồ-đề? Phật đáp: Chứng nghĩa pháp không, chứng nghĩa chân như, chứng nghĩa thật tế, chứng nghĩa pháp tánh, chứng nghĩa pháp giới, giả lập danh ngôn, bày ra ngôn thuyết, có thể chân thật giác ngộ pháp tối thượng thắng diệu, cho nên gọi là bồ-đề; chẳng thể phá hoại, chẳng thể phân biệt cho nên gọi là bồ-đề. Thế nên biết bồ-đề là bản nguyên của chư Phật, là huệ mạng của chúng sanh, vừa phát tâm này thì đã thành Phật đạo, vì tuơng ưng với Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Như tôn giả Xá-lợi-phất hỏi Phật: Có khi nào sơ tâm hơn hậu tâm chăng? Phật đáp: Các tâm vô lậu của A-la-hán, Độc giác tuy lìa tất cả phiền não của tự thân nhưng chẳng thể giáo hóa vô lượng hữu tình, đều khiến cho họ phát tâm xả bỏ các phiền não. Bồ-tát sơ phát tâm đại bồ-đề, tuy phiền não của tự thân chưa đoạn nhưng có thể giáo hóa khắp vô lượng hữu tình đều khiền cho họ phát tâm xả bỏ phiền não lần lượt làm lợi ích vô lượng hữu tình. Đây là nghĩa sơ tâm hơn hậu tâm.
Kế đến nói ‘nhất hướng chuyên niệm Đức Phật Vô Lượng Thọ’, niệm Phật có hai:
1.Quán tướng, như Quán kinh nói; “ Chư Phật Như Lai là thân pháp giới vào trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Lúc tâm tưởng Phật thì tâm này tức là ba mươi hai tướng, tám mươi tùy hình hảo, tâm này làm Phật, tâm này là Phật, chư Phật chánh biến tri hải từ tâm tưởng sanh, thế nên cần phải nhất tâm quán kỹ Phật kia”. Tưởng Đức Phật kia thì trước tiên phải quán tượng, nhắm mắt mở mắt đều thấy tượng Phật màu vàng Diêm-phù-đàn ngồi trên tòa sen; thấy Phật ngồi trên tòa sen rồi thì tâm nhãn được mở thấy cõi nước Cực Lạc bảy báu trang nghiêm rõ ràng phân minh như là đất báu, ao báu, cây báu thành hàng có các màn báu của trời che phủ phía trên, các lưới báu đầy trong hư không; đầy đủ như trong kinh nói.
Hỏi: Đã ‘ tâm này là Phật’ thì đâu cần lập thêm ‘tha Phật’, chấp tướng mà cầu trở thành tà đạo?
Đáp: Đây là phương tiện tạm dạy kẻ sơ cơ, nhờ duyên thù thắng này mà thành tựu tịnh độ cho họ. Nhưng tướng tức phi tướng, đồng quy tịch diệt, diệu quán tự tại, hiện lượng vô dư. Vì thế kinh Đại Tập nói: “Nếu muốn thành tựu tam-muội Chư Phật hiện tiền, tùy theo chỗ niệm mà thấy Như Lai, như dùng bốn vật là dầu, nước, thủy tinh, gương sáng để soi mặt thì bóng thiện ác tốt xấu hiện ra rõ ràng mà cái bóng hiện ra đó chẳng từ bốn vật đó sanh ra, cũng chẳng phải từ chỗ khác lại, cũng chẳng phải tự có, cũng chẳng phải do người tạo tác; phải biết cái bóng ấy không từ đâu đến cũng không đi về đâu. Không sanh không diệt, không có nơi chốn. Bồ-tát cũng vậy, ngài tư duy rằng: Nay Đức Phật này từ đâu tới đây, và thân ta đây lại từ đâu ra. Quán Như Lai kia không có chỗ đến chỗ đi, thân ta cũng vậy, vốn không có chỗ đi ra thì đâu có quay lại. Như vậy cùng tận vi tế, tình vong phân biệt, hoát nhiên không dính mắc, liền thấu suốt tánh bản lai. Đây là trung đạo liễu nghĩa quán Phật.
2.Trì danh, tại sao kinh A-di-đà nói: “Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nghe nói đến Phật A-di-đà, rồi chấp trì danh hiệu hoặc một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày nhất tâm bất loạn thì người này lúc sắp mạng chung được Đức Phật A-di-đà và các thánh chúng hiện ra ở trước mắt. Người này lúc mạng chung tâm không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực Lạc của Đức Phật A-di-đà”? Phải biết một pháp trì danh này là giản dị, thiết yếu hơn hết. Lúc hành giả mới phát tâm tốt nhất là cần phải có định khóa, mỗi ngày hoặc niệm nghìn tiếng, hoặc muôn tiếng, hoặc mười muôn tiếng; từ ít đến nhiều, do tán nhập định, tùy theo sức niệm, đều được vãng sanh.
Hỏi: Văn tự tánh không, tại sao chấp trì danh tự mà được vãng sanh?
Đáp: Vì tánh không cho nên được vãng sanh. Nếu có sở đắc thì thành trói buộc, chúng sanh vì tâm có sở đắc nên bị luân chuyển không cùng tận. Nay danh hiệu Phật này chẳng từ tưởng sanh, chẳng phải hòa hợp mà có mà tức là thật tướng các pháp cho nên biết công đức trì danh chẳng thể nghĩ bàn. Nhưng niệm Phật không khó mà nhất tâm mới là khó; vậy cần phải niệm niệm rõ ràng phân minh, tâm tâm dứt bặt đối đãi. Như vậy trong bốn oai nghi cho đến bước lên giường, bước xuống giường, đại tiện, tiểu tiện cũng đều chẳng quên niệm Phật, chỗ của tất cả thị phi, đắc thất, mừng giận, yêu ghét đều chỉ nhớ một danh hiệu Phật tỏ tường siêu việt, lâu ngày thuần thục, kiến tư hoặc tự tiêu tan, tam-muội hiện tiền. Đây là cứu cánh liễu nghĩa của niệm Phật.
Kế đến nói về người tu các công đức nguyện sanh Cực Lạc: Hành giả đã phát tâm bồ-đề, phải tu hạnh bồ-tát, đối với một chút xíu thiện cho đến vô biên công đức của thế gian và xuất thế gian đều dùng thâm tâm, chí thành tâm hồi hướng Cực Lạc thì cũng được gọi là nhất hướng chuyên niệm, chẳng cần phải xả bỏ hữu vi mới là chuyên niệm. Vì Phật tánh hiện hữu ở khắp tất cả mọi nơi, hễ có xả có bỏ thì chẳng được gọi là niệm Phật. Như Quán kinh nói: “Muốn sanh về cõi nước kia thì phải tu ba phước: 1. Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp. 2.Thọ trì tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi. 3. Phát bồ-đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại thừa, khuyến tấn hành giả”. Ba việc này được gọi là tịnh nghiệp. Ba việc này nói chung cho năm chúng. Ba việc này đã gồm đủ công đức tu tập của hai bậc thượng và trung.
Thưở xưa, ông Viên Trung Lang về già chuyên tu tịnh nghiệp, trứ tác Tây Phương hiệp luận. Sau khi ông mất, em trai của ông hiệu là Tiểu Tu chiêm bao thấy đi Tịnh độ gặp Trung Lang ở đó. Trung Lang nói với em: “ Anh tịnh nguyện tuy sâu nhưng tình nhiễm chưa hết nên lúc mới sanh về đây, anh ở biên địa, nay mới được ở Tịnh độ. Rốt cuộc do vì chú trọng nghiên cứu giáo thừa, coi nhẹ nghiêm trì giới luật nên ở địa cư, chẳng được bay lên lâu các ở trên hư không cùng các vị bồ-tát. May mà đời trước anh có trí huệ sắc bén mạnh mẽ, lại từng tạo luận tán thán sức độ sanh chẳng thể nghĩ bàn của Đức Như Lai nên cảm được bay đi tự tại đến các cõi nước nghe Phật thuyết pháp”. Lời này thật quý báu, nhắc nhở chúng ta lúc sống phải nghiêm trì giới luật, chẳng chỉ như thế mà phải chú trọng cả nghiên cứu giáo thừa lẫn nghiêm trì giới luật thì vãng sanh tịnh độ phẩm vị mới cao. Nghiêm trì giới luật là điều thiết yếu hơn hết, nếu có thông hiểu giáo thừa mà không trì giới thì phần nhiều bị nghiệp trói buộc kéo lôi vào thiên long bát bộ, chánh tôi đã từng thấy như thế, có nói đủ trong cuốn Kha Tuyết Trai Ngoại Tập. Vì thế biết tư lương tịnh độ toàn dựa vào công đức. Nền tảng của công đức, không gì hơn trì giới. Vì giới thanh tịnh thì tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh thì cõi nước thanh tịnh.
Kế đến nói phát nguyện: Cần phải sớm tối hướng về phương Tây lễ bái như chầu đế vương, nếu như càng ngày càng thân thiết, phát thệ sâu nặng nguyện thì lúc lâm chung quyết định vãng sanh. Tông chủ Từ Chiếu có làm bài kệ khuyên người phát nguyện rất là tha thiết. Kệ rằng:
Vạn pháp tùng tâm sanh
Vạn pháp tùng tâm diệt
Ngã Phật Đại sa-môn
Thường tác như thị thuyết.
Trì giới vô tín nguyện
Bất đắc sanh tịnh độ
Duy đắc nhân thiên phước
Phước tận thọ luân hồi
Triển chuyển nan thoát ly.
Khán kinh vô huệ nhãn
Bất thức Phật thâm ý
Hậu thế đắc thông minh
Loạn tâm nan xuất ly.
Bất như niệm Phật hảo
Hiện thế vô danh lợi
Hành tọa bất đa la
Tắc thị A-di-đà.
Phát nguyện trì giới lực
Hồi hướng sanh Lạc quốc
Như thị danh hành trì
Thiên trung bất thất nhất.
Thích-ca kim khẩu thuyết
Di-đà thân nhiếp thọ
Chư Phật giai hộ niệm
Chư thiên thiện hộ trì.
Kiến thử niệm Phật nhân
Dữ Phật bất tương viễn
Ưng đương tọa đạo tràng
Chuyển ư đại pháp luân
Phổ độ vô biên chúng.
Thí như bần gia nữ
Phúc dựng Chuyển luân vương
Chư thiên thường ái hộ,
Bần nữ tự bất tri
Phúc trung hữu quý tử.
Kim thử niệm Phật nhân
Kỳ ý diệc như thị.
Ức Phật thường niệm Phật
Bất cữu đương thành Phật,
Chư Phật thiện hộ trì
Kỳ nhân bất tự tri.
Ngã đương sanh tịnh độ
Khước yếu lai hậu thế
Tái đắc sanh nhân trung.
Thí như bần nhân gia
Địa nội hữu phục tạng
Tạng thần thường thủ hộ
Bất linh kỳ hữu thất.
Bần nhân tự bất tri
Gia nội hữu bảo tạng
Trục nhật sấn khách tác
Cầu y thực tự tế.
Kim thử niệm Phật nhân
Kỳ ý diệc như thị.
Bất tri niệm Phật nhân
Cụ túc Như Lai tạng,
Tự thuyết ngã vô phần
Phản yếu sanh nhân trung.
Thí như bệnh nhân gia
Tự hữu chân diệu dược
Bất tri diệu dược tánh
Bất năng tự trị bệnh
Mỗi nhật sàng chẩm biên
Bệnh khổ thọ vô lượng.
Kim thử niệm Phật nhân
Kỳ ý diệc như thị
Bất tri niệm Phật tâm
Năng diệt tham sân si
Năng vi đại y vương
Năng vi đại bảo tạng
Lợi tế nhất thiết nhân,
Năng vi đại pháp vương
Phú hộ nhất thiết chúng.
Tương vi thị phàm phu
Bất đắc sanh tịnh độ,
Thả tự trì trai giới
Hậu thế nguyện vi nhân
Triển chuyển cánh tu hành
Phương khả sanh bỉ quốc.
Đa kiến tu hành nhân
Thường tác như thị thuyết,
Bất xứng Di-đà nguyện
Bất hợp Tịnh độ kinh.
Tà kiến chướng phú tâm
Tất cánh nan xuất ly
Phi thị tha nhân chướng
Giai thị tự chướng tâm.
Kim thế bất đắc sanh
Nhất tha thị bách tha.
Khuyến nhữ tu hành nhân
Tín ngã Như Lai thuyết,
Phật vô bất thật ngữ
Khởi thị hư cuống ngôn.
Đản đương tự tinh cần
Nhất tâm cầu tịnh độ,
Nhân phong xuy ư hỏa
Dụng lực bất tiêu đa.
Hạnh hữu niệm Phật tâm,
Hồi nguyện siêu tam giới.
Phùng bảo bất thủ bảo,
Ngộ thực khổ trường cơ.
Đốt tai! Đại trượng phu
Bất kiến chân thật ý.
Ngã kim lược khuyến tán
Triển chuyển truyền dữ nhân
Phục ngã quảng lưu thông,
Tác ư Như Lai sứ.
Chân thị chư Phật tử
Chân danh báo Phật ân
Phổ nguyện như thuyết hành
Đồng sanh Cực Lạc quốc.
Vạn pháp từ tâm sanh,
Vạn pháp từ tâm diệt
Đức Phật đại sa-môn
Thường dạy như thế đó.
Trì giới không tín nguyện
Chẳng được sanh tịnh độ,
Chỉ được phước nhân thiên
Phước hết bị luân hồi
Xoay vần khó xuất ly.
Xem kinh không huệ nhãn
Chẳng biết thâm ý Phật,
Đời sau được thông minh
Loạn tâm khó xuất ly.
Chẳng bằng niệm Phật tốt
Hiện đời không danh lợi,
Cử chỉ không khinh suất
Tức là A-di-đà.
Nguyện đem sức trì giới
Hồi hướng sanh Cực Lạc,
Nếu hành trì như thế
Nghìn người không sót một.
Lời vàng Thích-ca nói,
Chánh Di-đà nhiếp thọ,
Chư Phật đều hộ niệm,
Chư thiên khéo hộ trì.
Thấy người niệm Phật này
Cùng Phật chẳng cách xa
Phải nên ngồi đạo tràng
Chuyển đại chánh pháp luân
Độ khắp vô biên chúng.
Ví như cô gái nghèo
Mang thai Chuyển luân vương
Chư thiên thường ái hộ.
Bần nữ tự chẳng biết
Trong bụng có quý tử.
Nay đây, người niệm Phật
Ý ấy cũng như vậy.
Nhớ Phật thường niệm Phật
Không lâu sẽ thành Phật
Chư Phật khéo hộ trì,
Người này tự chẳng biết,
Lại muốn vào đời sau
Tái sanh vào loài người.
Ví như nhà người nghèo
Dưới đất có kho báu
Tạng thần thường gìn giữ
Chẳng để bị mất mát.
Người nghèo tự chẳng biết
Trong nhà có kho báu
Bỏ nhà đi tha phương
Cầu cơm áo tự sống.
Nay đây, người niệm Phật
Ý ấy cũng như thế,
Chẳng biết người niệm Phật
Đầy đủ kho Như Lai,
Tự nói tôi vô phần,
Lại cầu sanh trong người.
Ví như nhà người bệnh
Tự có thuốc thật hay
Mà chẳng tự chữa bệnh,
Mỗi ngày nằm trên giường
Chịu vô lượng bệnh khổ.
Nay đây, người niệm Phật
Ý ấy cũng như thế,
Chẳng biết tâm niệm Phật
Diệt được tham sân si
Hay làm Đại y vương
Hay làm Đại bảo tạng
Làm lợi cứu mọi người,
Hay làm Đại pháp vương
Che chở các chúng sanh.
Nếu cho rằng phàm phu
Chẳng được sanh tịnh độ
Rồi tự trì trai giới
Đời sau nguyện làm người
Lần lượt lại tu hành
Mới được sanh tịnh độ.
Thấy nhiều người tu hành
Thường nói như thế đó
Chẳng xứng nguyện Di-đà
Chẳng hợp kinh Tịnh độ.
Tà kiến ngăn che tâm
Rốt cuộc khó xuất ly,
Chẳng phải người làm chướng
Đều là tự tâm chướng,
Đời này chẳng được sanh
Một lầm thì trăm lầm.
Xin khuyên người tu hành
Tin lời Như Lai nói
Phật nói lời chân thật
Đâu phải lời dối gạt.
Chỉ cần tự chuyên cần
Nhất tâm cầu tịnh độ,
Như gió thổi lửa bùng
Dụng sức không hao phí.
Mong có tâm niệm Phật
Phát nguyện vượt ba cõi.
Gặp báu chẳng lấy báu
Gặp đồ ăn vẫn đói.
Buồn thay! Đại trượng phu
Chẳng thấy ý chân thật.
Tôi nay khuyên mọi người
Lần lượt truyền bá rộng,
Tôi kính lưu thông rộng
Làm sứ giả Như Lai
Thật là các Phật tử
Thật là báo ân Phật
Vâng làm lời Phật dạy
Đồng sanh nước Cực Lạc.
Lời thành thật này có thể nói là thổ lộ hết tâm can, các người tu hành đều phải nên tin nhận. Công đức hai hạng trung hạ tuy có khác nhau nhưng đồng phát tâm bồ-đề, đồng một hạnh niệm Phật, đồng nguyện vãng sanh, cho nên lâm chung thấy Phật vãng sanh đồng như nhau, không có sai biệt.
Duy-ma-cật nói với trưởng giả tử: “Các ông phát tâm A-nậu-đa-la tam-miệu tam-bồ đề tức là xuất gia, đây là giới cụ túc”. Phải biết người niệm Phật cũng lại như vậy. Thế nên, chẳng phát tâm bồ-đề thì tất cả nguyện hạnh không làm sao phát khởi. Có nguyện không hạnh như trồng cây trên đất xấu thì không thể nào sum suê. Có hạnh không nguyện như ngựa què kéo xe chẳng thể về đến nhà. Hạnh nguyện trợ nhau, được dẫn dắt bằng nguyện lực như cây cỏ tốt tươi lại gặp mưa xuân, như ngựa hay lại gặp chủ tốt thì mau đến bồ-đề, bước lên Cực Lạc.
Hỏi: Lâm chung thấy Phật là tự Phật hay tha Phật. Nếu tha Phật thì ngoài tâm chấp Phật tức thành nghiệp ma, nếu tự Phật thì do sức tưởng mà thành nên hư vọng chẳng thật, làm sao vãng sanh?
Đáp: Tự Phật tha Phật đều thành hý luận, quên tướng nhân ngã thì tự tha chẳng khác. Pháp thân chư Phật trạm nhiên thường tịch, do vì bản nguyện nên cảm ứng đạo giao, tức tự tức tha, không hư không thật, chỉ một chân như trùm khắp pháp giới. Chúng sanh y vào nghiệp duyên mà huyễn có thân phần đoạn, như ở trong nhà thì chẳng thấy mặt trời ở trên bầu trời. Niệm lực nếu thật sự kiên cố thì huyễn duyên liền tịnh như dỡ bỏ mái nhà thì thấy mặt trời ở trên bầu trời lồng lộng, nhậm vận vãng sanh, trở lại đắc cái vốn sẵn có.
Kinh Thủ-lăng-nghiêm nói: “ Sự sanh tử tương tục của tất cả thế gian, sanh là từ sự thuận theo tập khí, tử là từ sự biến lưu, thuần tưởng thì bay lên ắt sanh lên trời. Nếu trên đường đi lên mà có cả phước huệ và tịnh nguyện thì tự nhiên tâm khai thấy mười phương Phật, tất cả tịnh độ, tùy nguyện vãng sanh. Thế nên biết sức tưởng của chúng sanh không thể nghĩ bàn”.
Hỏi: Lời phát nguyện của Phật A-di-đà trước kia nói chỉ cần nghe danh hiệu thì được lợi ích. Điều này đâu chỉ riêng nói về vãng sanh?
Đáp: Nghe danh hiệu tuy được lợi ích nhưng chưa được vãng sanh, rốt cuộc chẳng phải là cứu cánh, vì sanh tử chưa đoạn, đâu bằng một niệm vãng sanh, trực siêu tam giới, sự lợi ích ấy, có gì sánh bằng!
Hỏi: “Quán kinh nói người hạ phẩm đều là người lúc sống tạo nhiều tội ác, cuối cùng hồi tâm, còn kinh Vô Lượng Thọ này nói chỉ trừ người tạo tội ngũ nghịch phỉ báng chánh pháp, vì sao bất đồng?
Đáp: Thật sự hồi tâm, một niệm niệm Phật đều được vãng sanh vì nhờ sức bản nguyện của Phật. Chỉ e chướng sâu tội nặng, khó gặp thiện hữu, khó phát tín nguyện như ánh sáng mặt trời rạng rỡ nhưng kẻ mù bẩm sanh không thấy, như nước sông Hằng cuộn cuộn mà ngạ quỷ không uống được. Thật đáng sợ thay!
23. Mười phương khen ngợi
Phật cáo A-nan: Vô Lượng Thọ Phật oai thần vô cực, thập phương thế giới vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai mạc bất xưng thán. Ư bỉ đông phương Hằng hà sa Phật quốc, vô lượng vô số chư bồ-tát chúng giai tất vãng nghệ Vô Lượng Thọ Phật sở cung kính cúng dường cập chư bồ-tát, thanh văn chi chúng thính thọ kinh pháp, tuyên bố đạo hóa. Nam, tây, bắc phương, tứ duy, thượng hạ diệc phục như thị. Nhĩ thời Thế Tôn nhi thuyết tụng viết:
Đông phương chư Phật quốc
Kỳ số như Hằng sa
Bỉ độ bồ-tát chúng
Vãng cận Vô Lượng Giác.
Nam, tây, bắc, tứ duy
Thượng, hạ diệc phục nhiên,
Bỉ độ bồ-tát chúng
Vãng cận Vô Lượng Giác.
Nhất thiết chư bồ-tát
Các tê thiên diệu hoa
Bảo hương, vô giá y
Cúng dường Vô Lượng Giác.
Hàm nhiên tấu thiên nhạc
Sướng phát hòa nhã âm
Ca thán Tối Thắng Tôn
Cúng dường Vô Lượng Giác.
Cứu đạt thần thông huệ
Du nhập thâm pháp môn
Cụ túc công đức tạng
Diệu trí vô đẳng luân.
Huệ nhật lãng thế gian
Tiêu trừ sanh tử vân
Cung kính nhiễu tam táp
Khể thủ Tối Thắng Tôn.
Kiến bỉ nghiêm tịnh độ
Vi diệu nan tư nghị
Nhân phát vô lượng tâm
Nguyện ngã quốc diệc nhiên.
Ứng thời Vô Lượng Tôn
Động dung phát hân tiếu
Khẩu xuất vô số quang
Biến chiếu thập phương quốc.
Hồi quang vi nhiễu thân
Tam táp tùng đảnh nhập
Nhất thiết thiên nhân chúng
Dũng dước giai hoan hỷ.
Đại sĩ Quán Thế Âm
Chỉnh phục khể thủ vấn
Bạch Phật hà duyên tiếu
Duy nhiên nguyện thuyết ý.
Phạm thanh du lôi chấn
Bát âm sướng diệu hưởng
Đương thọ bồ-tát ký
Kim thuyết nhân đế thính.
Thập phương lai chánh sĩ
Ngô tất tri bỉ nguyện
Chí cầu nghiêm tịnh độ
Thọ quyết đương tác Phật.
Giác liễu nhất thiết pháp
Du như mộng, huyễn, hưởng
Mãn túc chư diệu nguyện
Tất thành như thị sát.
Tri pháp như điện, ảnh
Cứu cánh bồ-đề đạo
Cụ chư công đức bản
Thọ quyết đương tác Phật.
Đạo đạt chư pháp tánh
Nhất thiết không, vô ngã
Chuyên cầu tịnh Phật độ
Tất thành như thị sát.
Chư Phật cáo bồ-tát
Linh cận An Dưỡng Phật
Văn pháp, nhạo thọ hành
Tật đắc thanh tịnh xứ.
Chí bỉ nghiêm tịnh quốc
Tiện tốc đắc thần thông
Tất ư Vô Lượng Tôn
Thọ ký thành Đẳng giác.
Kỳ Phật bản nguyện lực
Văn danh dục vãng sanh
Giai tất đáo bỉ quốc
Tự trí bất thoái chuyển.
Bồ-tát hưng chí nguyện
Nguyện kỷ quốc vô dị,
Phổ niệm độ nhất thiết
Danh hiển mãn thập phương.
Phụng sự ức Như Lai
Phi hóa biến chư sát
Cung kính hoan hỷ khứ
Hoàn đáo An Dưỡng quốc.
Nhược nhân vô thiện tâm
Bất đắc văn thử kinh
Thanh tịnh hữu giới giả
Nãi hoạch văn chánh pháp.
Tằng cánh kiến Thế Tôn
Tắc năng tín thử sự
Khiêm kính văn phụng hành
Dũng dước đại hoan hỷ.
Thanh văn hoặc Bồ-tát
Mạc năng cứu thánh tâm
Như Lai trí huệ hải
Thâm quảng nhai vô để.
Giả sử nhất thiết nhân
Cụ túc giai đắc đạo
Tịnh huệ tri bản không
Ức kiếp tư Phật trí.
Cùng lực cực giảng thuyết
Tận thọ du bất tri
Phật huệ vô biên tế
Thọ mạng thậm nan đắc.
Phật thế diệc nan trị
Nhân hữu tín huệ nan
Nhược văn tinh tấn cầu
Văn pháp năng bất vong
Tắc ngã thiện thân hữu
Thị cố đương phát ý.
Thiết mãn tam giới hỏa
Tất quá yếu văn pháp
Hội đương thành Phật đạo
Quảng độ sanh tử lưu.
Phật bảo A-nan: Oai thần của Phật Vô Lượng Thọ vô cực, vô lượng vô biên bất khả tư nghị chư Phật Như Lai ở khắp mười phương, không một vị nào chẳng ngợi khen. Vô lượng vô số các chúng bồ-tát trong Hằng hà sa cõi nước Phật ở phương đông đều qua đến chỗ của Phật Vô Lượng Thọ để cung kính cúng dường Phật và các chúng bồ-tát, thanh văn, nghe nhận kinh pháp rồi truyền bá chánh pháp. Các phương nam, tây, bắc, bốn phương cạnh và thượng hạ cũng đều như vậy. Bấy giờ Thế Tôn nói kệ tụng:
Các cõi Phật phương đông
Số như cát sông Hằng
Bồ-tát các cõi ấy
Qua chỗ Vô Lượng Giác.
Tây, nam, bắc, bốn góc
Trên, dưới cũng như thế
Bồ-tát các cõi ấy
Qua chỗ Vô Lượng Giác.
Tất cả các bồ-tát
Đều mang hoa trời đẹp
Hương quý, y vô giá
Cúng dường Vô Lượng Giác.
Họ đều tấu thiên nhạc
Vang lên tiếng hòa nhã
Ca tụng đấng Tối Thắng
Cúng dường Vô Lượng Giác.
Đắc thần thông, trí huệ
Vào pháp môn sâu mầu
Đầy đủ tạng công đức
Diệu trí không ai bằng.
Huệ nhật chiếu thế gian
Tiêu tan mây sanh tử
Cung kính nhiễu ba vòng
Đảnh lễ đấng Vô Thượng.
Thấy tịnh độ nghiêm tịnh
Vi diệu khó nghĩ bàn
Rồi phát tâm vô lượng
Nguyện cõi con cũng vậy.
Lúc đó, đấng Vô Lượng
Vui vẻ nở nụ cười
Miệng phóng vô số quang
Chiếu khắp mười phương cõi.
Quang quay về nhiễu thân
Ba vòng rồi vào đảnh,
Tất cả chúng trời người
Đều vô cùng hoan hỷ.
Đại sĩ Quan Thế Âm
Chỉnh y, đảnh lễ hỏi:
Vì sao mà Ngài cười
Xin Phật nói lý do.
Tiếng Phạm âm như sấm
Tiếng bát âm vi diệu
Sẽ thọ ký bồ-tát
Nay ông hãy lắng nghe.
Bồ-tát mười phương đến
Ta biết nguyện của họ
Chí cầu cõi nghiêm tịnh
Thọ ký sẽ thành Phật.
Giác ngộ tất cả pháp
Như mộng, huyễn, âm vang
Viên mãn các đại nguyện
Ắt thành cõi nghiêm tịnh.
Biết pháp như ánh chớp
Thành tựu đạo bồ-tát
Đủ các cội công đức
Thọ ký sẽ thành Phật.
Thông đạt tánh các pháp
Tất cả không, vô ngã
Chuyên cầu cõi Phật tịnh
Ắt thành cõi nghiêm tịnh.
Chư Phật bảo Bồ-tát:
Hãy gần Phật Vô Lượng
Nghe pháp rồi vâng làm
Mau được cõi thanh tịnh.
Đến cõi nghiêm tịnh kia
Mau chóng đắc thần thông
Ắt được đấng Vô Lượng
Thọ ký thành Đẳng giác.
Sức bản nguyện Phật ấy
Nghe danh muốn vãng sanh
Đều được vế cõi ấy
Tự đến bất thoái chuyển.
Bồ-tát khởi chí nguyện
Nguyện cõi mình không khác
Muốn độ khắp chúng sanh
Danh vang khắp mười phương.
Phụng sự ức Như Lai
Bay đến các cõi nước
Cung kính cúng dường rồi
Trở về nước An Dưỡng.
Nếu người không thiện tâm
Chẳng được nghe kinh này,
Người trì giới thanh tịnh
Mới được nghe chánh pháp.
Người từng gặp Thế Tôn
Thì tin được việc này
Cung kính nghe, vâng làm
Tâm vô cùng hoan hỷ.
Thanh văn hoặc bồ-tát
Không biết được tâm Phật
Biển trí huệ Như Lai
Sâu rộng không bờ đáy.
Giả sử khắp mọi người
Tất cả đều đắc đạo
Tịnh huệ biết bản không
Ức kiếp nghĩ Phật trí,
Đem hết sức giảng nói
Suốt đời cũng chẳng biết
Phật trí không bờ mé.
Được thân người rất khó,
Gặp Phật ra đời khó
Người có tín huệ khó.
Nếu nghe, tinh tấn cầu
Nghe pháp không hề quên
Là bạn lành của ta,
Thế nên phải phát tâm.
Dù thế giới đầy lửa
Phải qua để nghe pháp
Thì sẽ thành Phật đạo
Vượt qua dòng sanh tử.
Đoạn trên nói chư Phật khen ngợi, bồ-tát mười phương đến cúng dường và được thọ ký thành Phật, tức là thuộc vế các nguyện ‘các Đức Phật nghe danh hiệu ta đều khen ngợi’ và ‘các bồ-tát ở phương khác nghe danh hiệu ta đều đắc ba pháp nhẫn’ ở đoạn văn trước. Mười hai câu từ giác ngộ tất cả pháp trở xuống là con đường chánh tu hành tịnh độ. Trước tiên phải thông đạt pháp tánh, xưa nay vô ngã thì tất cả rỗng lặng nên không sanh chướng ngại với cõi nước Phật. Kế đến kiến lập diệu nguyện, đủ các công đức thì thành tựu viên mãn tất cả, chẳng sanh hạn lượng đối với tự tâm. Người có chí cầu về tịnh độ cần phải từ đây mà chứng nhập. Thế gian có người chấp tâm là tịnh độ, chẳng tin có tịnh độ, họ chẳng biết do tâm nhơ uế nên hiện uế độ, do tâm thanh tịnh nên hiện tịnh độ. Nếu không có tịnh độ thì lẽ ra không có tâm thanh tịnh. Đã chẳng nghi tâm, sao lại còn nghi tịnh độ. Cũng có người chấp tâm là Phật mà chẳng chịu niệm Phật; họ chẳng biết rằng tâm chưa liễu ngộ thì chẳng thành Phật, Phật chưa thành thì do đâu liễu ngộ tâm; chỉ có người liễu ngộ tâm mới thành Phật. Người niệm Phật mới có thể liễu ngộ tâm. Các vị bồ-tát này hoặc đã được thọ ký, đang được thọ ký, sẽ được thọ ký còn phải từ một cõi nước Phật đến một cõi nước Phật thừa sự Như Lai, nghiêm tịnh cõi nước. Ông là ai mà dám vượt ra ngoài! Lại nữa, có người tuy nghe kinh pháp nhưng tự sanh tâm hạ liệt không dám cầu vãng sanh, họ chẳng biết một câu danh hiệu Phật trừ tám mươi ức kiếp tội trong sanh tử, đầy đủ vô lượng công đức. Lời thành thật của Phật, chúng ta đâu thể không tin! Phải nên biết: Gốc nghi chưa đoạn tức là gốc tội, lúc sức tin đầy đủ thì hoàn toàn trở thành sức phước. Vì thế nói: “Nến ngưới không có tâm lành thì chẳng được nghe kinh này”. Lại nói: “ Người đã từng thấy Thế Tôn mới có thể tin việc này”. Mọi người phải nên trân trọng, đừng phụ lời khuyến tấn!
24. Bồ-tát Bổ xứ
Phật cáo A-nan: Bỉ quốc bồ-tát giai đương cứu cánh Nhất sanh bổ xứ, trừ kỳ bản nguyện vị chúng sanh cố, dĩ hoằng thệ công đức nhi tự trang nghiêm, phổ dục độ thoát nhất thiết chúng sanh. A-nan! Bỉ Phật quốc trung chư thanh văn chúng thân quang nhất tầm, bồ-tát quang minh chiếu bách do-tuần. Hữu nhị bồ-tát tối tôn đệ nhất, oai thần quang minh phồ chiếu tam thiên đại thiên thế giới.
A-nan bạch Phật: Bỉ nhị bồ-tát, kỳ hiệu vân hà?
Phật ngôn: Nhất danh Quan Thế Âm, nhị danh Đại Thế Chí. Thử nhị bồ-tát ư thị quốc độ tu bồ-tát hạnh, mạng chung sanh bỉ Phật quốc. A-nan! Kỳ hữu chúng sanh sanh bỉ quốc giả giai tất cụ túc tam thập nhị tướng, trí huệ thành mãn, thâm nhập chư pháp, cứu sướng yếu diệu, thần thông vô ngại, chư căn minh lợi. Kỳ độn căn giả thành tựu nhị nhẫn; kỳ lợi căn giả đắc bất khả kế vô sanh pháp nhẫn. Hựu bỉ bồ-tát nãi chí thành Phật bất thọ ác thú, thần thông tự tại, thường thức túc mạng, trừ sanh tha phương ngũ trược ác thế, thị hiện đồng bỉ, như ngã quốc dã.
Phật bảo A-nan: Các bồ-tát ở cõi nước ấy đều sẽ thành tựu Nhất sanh bổ xứ, trừ người có bản nguyện riêng nên dùng công đức hoằng thệ mà tự trang nghiêm, muốn độ thoát tất cả chúng sanh. A-nan! Ánh sáng nơi thân của các chúng thanh văn trong cõi nước Phật ấy chiếu xa một tầm, còn ánh sáng của bồ-tát thì chiếu xa một trăm do-tuần. Cõi nước ấy có hai vị bồ-tát tối tôn bậc nhất, ánh sáng oai thần chiếu khắp tam thiên đại thiên thế giới.
A-nan bạch Phật: Hai vị bồ-tát ấy, danh hiệu là gì?
Phật đáp: Một là Quan Thế Âm, hai là Đại Thế Chí. Hai vị bồ-tát này ở cõi Ta-bà tu hành, mạng chung chuyển hóa sanh vào cõi nước của Đức Phật kia. A-nan! Nếu có chúng sanh sanh vào cõi nước kia thì họ đều đầy đủ ba mươi hai tướng, thành tựu viên mãn trí huệ, thâm nhập các pháp, thông đạt diệu lý, thần thông vô ngại, các căn bén nhạy. Nếu người độn căn thì thành tựu hai nhẫn (Âm hưởng nhẫn và Nhu thuận nhẫn), còn người lợi căn thì đắc Vô sanh pháp nhẫn không thể tánh lường. Các vị bồ-tát ấy cho đến thành Phật chẳng còn thọ sanh vào ba đường ác, thần thông tự tại, thường biết túc mạng, trừ khi thị hiện sanh vào cõi ác có năm trược ở phương khác như cõi nước Ta đây.
Đoạn trên nói bồ-tát, thanh văn rốt cuộc thành Phật, tức là thuộc các điều nguyện ‘ Các thứ thù thắng của các bồ-tát, thiên nhân’ và ‘chẳng còn bị đọa vào ba đường ác’ ở đoạn văn trước.
Hai vị bồ-tát Quan Âm, Thế Chí thường hầu bên cạnh Đức Phật Vô Lượng Thọ, cũng theo bổn sư Thích-ca Mâu-ni chuyển pháp luân, cho nên biết hai cõi nước đông tây qua lại giáo hóa, Ta-bà là hoa, Cực Lạc là quả; quả ắt lấy hoa làm nhân nên hoa chẳng khác quả. Vì sao? Chư Phật bồ-tát dựa vào chúng sanh mà phát khởi bồ-đề, dựa vào bồ-đề mà thành tịnh độ. Nếu không có uế thì tịnh cũng chẳng thành, vì tâm bồ-đề chẳng tự phát khởi, thế thì chẳng rời chúng sanh mà có tịnh độ, chẳng rời tịnh độ mà có chúng sanh. Tịnh độ là chúng sanh thì tâm tâm làm Phật. Chúng sanh là tịnh độ thì niệm niệm vãng sanh. Thế nên bồ-tát Quan Âm nói: “Người tụng trì thần chú đại bi, nếu chẳng sanh về cõi nước chư Phật thì tôi thệ chẳng thành Chánh giác”; bồ-tát Đại Thế Chí nói: “Đón người niệm Phật đưa về tịnh độ”. Cả hai ngài đều đồng một nguyện với Đức Phật Vô Lượng Thọ.
25. Bồ-tát cúng dường
Phật ngứ A-nan: Bỉ quốc bồ-tát thừa Phật oai thần, nhất thực chi khoảnh vãng nghệ thập phương vô lượng thế giới cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, tùy tâm sở niệm, hương, hoa, kỹ nhạc, y, cái, tràng phan, vô số vô lượng cúng dường chi cụ tự nhiên hóa sanh, ứng niệm tức chí, trân diệu thù đặc, phi thế sở hữu, triếp dĩ phụng tán chư Phật cập chư bồ-tát thanh văn chi chúng. Tại hư không trung hóa thành hoa cái, quang sắc dục thước, hương khí phổ huân. Kỳ hoa chu viên tứ bách lý giả, như thị chuyển bội nãi phú tam thiên đại thiên thế giới, tùy kỳ tiền hậu dĩ thứ hóa một. Kỳ chư bồ-tát thiêm nhiên hân duyệt, ư hư không trung cộng tấu thiên nhạc, dĩ vi diệu âm ca thán Phật đức, thính thọ kinh pháp, hoan hỷ vô lượng. Cúng dường Phật dĩ, vị thực chi tiền, hốt nhiên khinh cử hoàn kỳ bản quốc.
Phật bảo A-nan: Bồ-tát ở cõi nước ấy nương oai thần của Phật, trong khoảnh khắc một bữa ăn qua đến vô lượng thế giới khắp mười phương cung kính cúng dường chư Phật Thế Tôn, vô số các đồ cúng dường như hương, hoa, kỹ nhạc, y phục, dù lọng, cờ phướn đều tùy theo tâm niệm mà tự nhiên hiện ra thật đặc biệt quý báu, chẳng phải là vật ở thế gian có được, đem dâng và rải trên các Đức Phật và các chúng bồ-tát, thanh văn. Các thứ đồ cúng dường ấy ở trong hư không hóa thành lọng hoa màu sắc sáng chói, mùi hương tỏa khắp. Lọng hoa ấy chu vi bốn trăm dặm, như vậy cứ tăng lên gấp bội cho đến trùm cả tam thiên đại thiên thế giới, cái trước nối tiếp cái sau, theo thứ tự biến mất. Các vị bồ-tát đều hân hoan, ở trong hư không tấu thiên nhạc cúng dường, dùng âm thanh vi diệu ca tụng công đức của Phật. Các bồ-tát ấy lắng nghe và thọ nhận kinh pháp trong niềm vui vô hạn. Các bồ-tát ấy cúng dường xong, trong khoảng thời gian chưa đầy một bữa ăn, các ngài nhẹ nhàng bay đi trở về cõi nước của mình.
Đoạn trên nói bồ-tát đem đồ cúng đi cúng dường khắp các Đức Phật, tức là thuộc về các nguyện ‘cúng dường chư Phật’ và ‘các vật cúng dường đều hiện ra như ý muốn’ của đoạn văn trước.
26. Vô lượng thuyết pháp
Phật ngứ A-nan: Vô Lượng Thọ Phật vị chư thanh văn, bồ-tát, thiên nhân ban tuyên pháp thời, đô tất tập hội thất bảo giảng đường, quảng tuyên đạo giáo, diễn sướng diệu pháp, mạc bất hoan hỷ, tâm giải đắc đạo. Tức thời tứ phương tự nhiên phong khởi xuy thất bảo thọ xuất ngũ âm thanh, vô lượng diệu hoa tùy phong tứ tán, tự nhiên cúng dường, như thị bất tuyệt. Nhất thiết chư thiên giai tê thiên thượng bách thiên hoa hương, vạn chủng kỹ nhạc cúng dường kỳ Phật cập chư bồ-tát, thanh văn chi chúng. Phổ tán hoa hương, tấu chư âm nhạc, tiền hậu lai vãng, cánh tương khai tịch, đương tư chi thời, hy di khoái lạc, bất khả thăng ngôn.
Phật bảo A-nan: Lúc Phật Vô Lượng Thọ thuyết pháp, các thanh văn, bồ-tát, thiên nhân, đại chúng đều tập hội tại giảng đường thất bảo, nghe Phật tuyên thuyết giáo pháp, nghĩa lý vi diệu, ai nấy đều hoan hỷ, tâm hiểu, đắc đạo. Tức thời bốn phương tự nhiên nổi gió thổi qua các hàng cây thất bảo phát ra tiếng ngũ âm, vô lượng hoa đẹp theo gió bay tứ tán, tự nhiên cúng dường, như vậy bất tuyệt. Tất cả chư thiên đều mang trăm nghìn hoa hương, vạn thứ kỹ nhạc cõi trời cúng dường Đức Phật ấy và các chúng bồ-tát, thanh văn. Chư thiên trước sau qua lại rải hương hoa, tấu các âm nhạc, lúc đó họ vui vẻ sung sướng chẳng thể kể xiết.
Đoạn trên nói Phật Vô Lượng Thọ thuyết pháp cho đại chúng, tức là thuộc về các nguyện ‘tùy nguyện nghe pháp’ của đoạn văn trên.
Hỏi: Đức Phật Vô Lượng Thọ thuyết pháp là chỉ thuần nói pháp nhất thửa hay nói cả pháp tam thừa. Nếu thuần nói pháp nhất thừa thì tại sao còn có chúng thanh văn? Nếu nói cả pháp tam thừa thì tại sao nói nhị thừa không sanh về cõi nước ấy?
Đáp: Thuần là nhất thừa, đặc biệt không có tam thừa, đâu riêng Phật tại giảng đường thất bảo. Thuần là nhất thừa cho đến trong mỗi đóa hoa, trong mỗi tia sáng, tiếng gió thổi, tiếng nước chảy, tiếng các âm nhạc cũng thuần nói nhất thừa, không còn tam thừa. Như kinh Diệu pháp liên hoa nói: “Trong mười phương thế giới còn không có hai thừa, hà huống là ba. Nhưng vì căn trí chúng sanh có sai biệt nên nghe nhận khác nhau, chứng đắc bất đồng”. Vì thế văn trước nói: “Hoặc nghe tiếng Phật, hoặc nghe tiếng pháp, hoặc nghe tiếng tăng, hoặc nghe tiếng tịch tĩnh, hoặc nghe tiếng không, vô ngã, cho đến nghe tiếng cam lộ quán đảnh v.v…Nếu người nào được nghe thì hoặc chứng quả tu-đà-hoàn, quả tư-đà-hàm, quả a-na-hàm, quả a-la-hán cho đến bồ-tát bất thoái địa” .Đầy đủ như các bản dịch khác nói, tức là vì thuận theo các cõi nước Phật khác nên có danh từ tứ quả, thực ra thì người ở cõi Cực Lạc quyết định thành Phật, không thủ chứng hữu dư niết-bàn, vì có thể hồi tiểu hướng đại, vì bản nguyện Phật.
27. Công đức của bồ-tát
Phật cáo A-nan: Sanh bỉ Phật quốc chư bồ-tát đẳng sở khả giảng thuyết, thường tuyên chánh pháp, tùy thuận trí tuệ, vô vi vô thất. Ư kỳ quốc độ, sở hữu vạn vật, vô ngã sở tâm, vô nhiễm trước tâm, khứ lai tấn chỉ, tình sở bất hệ, tùy ý tự tại, vô sở thích mạc, vô bỉ vô ngã, vô cạnh vô tụng. Ư chư chúng sanh, đắc đại từ bi, nhiêu ích chi tâm, nhu nhuận điều phục, vô phẩn hận tâm, ly cái thanh tịnh, vô yếm đãi tâm, đẳng tâm, thắng tâm, thâm tâm, định tâm, ái pháp, nhạo pháp, hỷ pháp chi tâm, diệt chư phiền não, ly ác thú tâm, cứu cánh nhất thiết bồ-tát sở hành, cụ túc thành tựu vô lượng công đức, đắc thâm thiền định, chư thông minh huệ, du chí thất giác, tu tâm Phật pháp, nhục nhãn thanh triệt mỹ bất phân liễu, thiên nhãn thông đạt vô lượng vô hạn, pháp nhãn quan sát cứu cánh chư đạo, huệ nhãn kiến chân năng độ bỉ ngạn, Phật nhãn cụ túc giác liễu pháp tánh, dĩ vô ngại trí vị nhân diễn thuyết, đẳng quán tam giới không, vô sở hữu, chí cầu Phật pháp, cụ chư biện tài, trừ diệt chúng sanh phiền não chi hoạn. Tùng Như Lai sanh, giải pháp như như, thiện tri tập diệt âm thanh phương tiện, bất hân thế ngữ, nhạo tại chánh luận, tu chư thiện bản, chí sùng Phật đạo. Tri nhất thiết pháp giai tất tịch diệt, sanh thân phiền não, nhị dư câu tận, văn thậm thâm pháp, tâm bất nghi cụ, thường năng tu hành.
Kỳ đại bi giả thâm viễn vi diệu mỹ bất phú tải, cứu cánh nhất thừa chí ư bỉ ngạn, quyết đoạn nghi võng, huệ do tâm xuất. Ư Phật giáo pháp, cai la vô ngại, trí huệ như đại hải, tam-muội như sơn vương, huệ quang minh tịnh siêu du nhật nguyệt. Thanh bạch chi pháp cụ túc viên mãn, du như Tuyết sơn chiếu chư công đức đẳng nhất tịnh cố, du như đại địa tịnh uế hảo ác vô dị tâm cố, du như tịnh thủy tẩy trừ trần lao chư cấu nhiễm cố, du như hỏa vương thiêu diệt nhất thiết phiền não tân cố, du như đại phong hành chư thế giới vô chướng ngại cố, du như hư không ư nhất thiết hữu vô sở trước cố, du như liên hoa ư chư thế gian vô nhiễm ô cố, du như đại thừa vận tải quần manh xuất sanh tử cố, du như trùng vân chấn đại pháp lôi giác vị giác cố, du như đại vũ vũ cam lộ pháp nhuận chúng sanh cố, như kim cang sơn chúng ma ngoại đạo bất năng động cố, như Phạm thiên vương ư chư thiện pháp tối thượng thủ cố, như ni-câu-loại thọ phổ phú nhất thiết cố, như ưu-đàm-bát hoa hy hữu nan ngộ cố, như kim sí điểu oai phục ngoại đạo cố, như chúng du cầm vô sở tàng tích cố, du như ngưu vương vô năng thắng cố, du như tượng vương thiện điều phục cố, như sư tử vương vô sở úy cố, khoáng nhược hư không đại từ đẳng cố, tồi diệt tật tâm bất kỵ thắng cố. Chuyên nhạo cầu pháp tâm vô yếm túc, thường dục quảng thuyết chí vô bì quyện, kích pháp cổ, kiến pháp tràng, diệu huệ nhật, trừ si ám, tu lục hòa kính, thường hành bố thí, chí dũng tinh tấn, tâm bất thoái nhược, vị thế đăng minh, tối thắng phước điền, thường vi đạo sư đẳng vô tắng ái, duy nhạo chánh đạo vô dư hân thích, bạt chư dục thích dĩ an quần sanh, công đức thù thắng, mạc bất tôn kính. Diệt tam cấu chướng, du chư thần thông, nhân lực, duyên lực, ý lực, nguyện lực, phương tiện chi lực, thường lực, thiện lực, định lực, huệ lực, đa văn chi lực, thí, giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ chi lực, chánh niệm chỉ quán, chư thông minh lực, như pháp điều phục chư chúng sanh lực. Như thị đẳng lực nhất thiết cụ túc, sắc thân tướng hảo, công đức biện tài, cụ túc trang nghiêm vô dữ đẳng giả. Cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường vị chư Phật sở cộng xưng thán, cứu cánh bồ-tát chư ba-la-mật, tu không, vô tướng, vô nguyện tam-muội, bất sanh bất diệt chư tam-muội môn, viễn ly thanh văn, duyên giác chi địa.
A-nan! Bỉ chư bồ-tát thành tựu như thị vô lượng công đức, ngã đản vị nhữ lược ngôn chi nhĩ. Nhược quảng thuyết giả, bách thiên vạn kiếp bất năng cùng tận.
Phật bào A-nan: Các bồ-tát sanh vào cõi nước Phật kia có khả năng giảng nói chánh pháp, tùy thuận trí huệ, chẳng bao giờ sai trái. Các bồ-tát ấy đối với vạn vật của cõi nước ấy không có tâm ngã sở, không có tâm đắm nhiễm; trong mọi sanh hoạt chẳng bị tình chấp buộc ràng, tùy ý tự tại, không có điều trái ý, không người, không ta, không tranh, không cãi. Đối với các chúng sanh, các bồ-tát ấy có tâm đại từ bi làm nhiều lợi ích, tâm hiền hòa điều phục, không có giận dữ, tâm thanh tịnh lìa phiền não không biết chán, tâm bình đẳng, tâm thù thắng, thâm tâm, tâm định, tâm ưa thích pháp, tâm diệt các phiền não, lìa các đường ác, thành tựu tất cả các việc làm của bồ-tát, thành tựu đầy đủ vô lượng công đức, đắc thiền định sâu, lục thông, tam minh, trí huệ, đặt chí nơi thất giác, tu tâm nơi Phật pháp. Nhục nhãn sáng suốt phân biệt tất cả, thiên nhãn vô lượng vô hạn, pháp nhãn quan sát rốt ráo các đạo, huệ nhãn thấy chân lý có thể qua đến bờ kia, Phật nhãn giác ngộ đầy đủ pháp tánh. Các ngài dùng trí vô ngại diễn nói cho mọi người nghe, bình đẳng quan sát ba cõi là không, vô sở hữu, chí cầu Phật pháp, đủ các biện tài, diệt trừ các bệnh phiền não của chúng sanh. Các ngài sanh từ Như Lai, hiểu pháp như như, khéo biết phương tiện diễn nói tập diệt, chẳng thích lời nói của thế gian, ưa thích chánh pháp, tu các thiện căn, tôn sùng Phật đạo, biết tất cả pháp thảy đều tịch diệt, đã trừ diệt hết hai thứ sanh thân phiền não, nghe pháp thâm diệu, tâm chẳng nghi ngờ, sợ hãi mà thường hay tu hành.
Tâm đại bi của các ngài sâu xa vi diệu che chở tất cả chúng sanh. Các ngài thành tựu nhất thừa, đạt dến bờ kia, chặt đứt hẳn lưới nghi, trí huệ do tâm lưu xuất, thông suốt hết giáo pháp của Phật, trí huệ như biển, tam-muội như núi chúa, ánh sáng trí tuệ minh tịnh vượt hơn ánh sáng mặt trời mặt trăng, đầy đủ viên mãn các pháp thánh thiện, giống như núi Tuyết vì chiếu các công đức đồng một thanh tịnh, giống như đất đai vì không có tâm phân biệt đối với sạch, nhơ, tốt, xấu, giống như nước trong vì rửa sạch các cấu nhiễm trần lao, giống như ngọn lửa hung hản vì đốt cháy hết tất cả củi phiền não, giống như trận gió lớn đi khắp thế giới không chướng ngại, giống như hư không vì không dính mắc tất cả cõi, giống như hoa sen vì không nhiễm ô các thế gian, giống như đại thừa vì chuyên chở chúng sanh ra khỏi sanh tử, giống như mây dày vì nổi sấm đại pháp giác ngộ người chưa giác, giống như trận mưa to vì tuôn pháp cam lộ thấm nhuần chúng sanh, như núi kim cang vì các ma, ngoại đạo không thể làm động, như Phạm thiên vương vì thượng thủ hơn hết đối với các thiện pháp, như cây ni-câu-loại vì che khắp tất cả, như hoa ưu-đàm-bát vì hiếm có khó gặp, như chim cánh vàng vì có oai đức hàng phục ngoại đạo, như các loài chim thiên di vì không hề có cất chứa, như trâu chúa vì không ai có thể thắng, giống như voi chúa vì khéo điều phục, như sư tử chúa vì không hề sợ hãi, bao la như hư không vì đại từ bình đẳng, diệt tâm tật đố vì không ghét người hơn mình.
Các bồ-tát ấy chuyên cầu Phật pháp, tâm không biết chán; thường muốn giảng rộng, chí không mỏi mệt; đánh trống pháp, dựng cờ pháp, chiếu soi mặt trời trí huệ phá tan bóng tối ngu si, tu sáu pháp hòa kính, thường hành pháp thí, ý chí dũng mãnh tinh tấn , tâm không khiếp nhược thoái lui, làm ngọn đèn sáng cho thế gian, làm phước điền tối thắng, thường làm vị đạo sư có tâm bình đẳng không thương ghét.
Các bồ-tát ấy chỉ thích chánh đạo, không thích điều gì khác, nhổ gai ngũ dục để làm an ổn quần sanh, công đức, trí huệ thù thắng, ai nấy đều tôn kính. Các bồ-tát ấy diệt ba cấu chướng, đắc các thần thông, đầy đủ các sức như: sức nhân, sức duyên, sức ý, sức nguyện, sức phương tiện, sức thường, sức thiện, sức định, sức huệ, sức đa văn, sức bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí huệ, sức chánh niệm, chỉ quán, lục thông, tam minh, sức điều phục các chúng sanh đúng như pháp. Các bồ-tát ấy được sắc thân tướng hảo, công đức biện tài đầy đủ trang nghiêm, không ai sánh bằng. Các bồ-tát ấy cung kính cúng dường vô lượng chư Phật, thường được chư Phật khen ngợi, thành tựu các ba-la-mật của bồ-tát, tu các tam-muội không, vô tướng, vô nguyện, các môn tam-muội bất sanh bất diệt, xa lìa địa vị thanh văn, duyên giác.
Này A-nan! Các bồ-tát ấy thành tựu vô lượng công đức như thế, Ta chỉ nói sơ lược cho ông nghe mà thôi, nếu nói đầy đủ thì dù trải qua trăm nghìn vạn kiếp cũng không nói hết được!
Đoạn trên nói hạnh nghiệp bồ-tát để trình bày hết ý của đoạn văn trước.
Công đức như thế, nguyện lực như thế, trí huệ như thế, thần thông như thế, chẳng rời chư Phật mà độ khắp chúng sanh, vì muốn nghiêm tịnh cõi nước của tất cả chư Phật, vì muốn thành tựu đại nguyện Phổ Hiền. Các bồ-tát này đều là bậc Nhất sanh bổ xứ trên giai vị thập địa, chúng sanh ở thế giới ngũ trược còn chẳng được nghe tên huống là được gặp. Nay nhờ nhân duyên niệm Phật, sanh về Cực Lạc rồi thì được tham học khắp các thiện tri thức, thân cận đấng Pháp vương, chẳng cần phải trải qua a-tăng-kỳ kiếp mà liền bước lên ngôi vị bất thoái. Phương tiện như thế, hy hữu khó gặp, dù cho thịt nát xương tan cũng không đền đáp được thâm ân to tát vô cùng ấy!
Hỏi: Chư Phật đều có bốn độ, đó là: Phàm thánh đồng cư độ, Phương tiện hữu dư độ, Thật báo trang nghiêm độ, Thường tịch quang độ, nay người vãng sanh về độ nảo?
Đáp: Pháp sư Ngẫu Ích nói: “Nếu chấp trì danh hiệu chưa đoạn kiến tư hoặc, tùy theo tán thiện hoặc định thiện mà sanh Phàm thánh đồng cư tịnh độ, chia làm ba bậc chín phẩm. Nếu trì đến sự nhất tâm bất loạn, kiến tư hoặc nhậm vận tiêu tan thì sanh Phương tiện hữu dư tịnh độ. Nếu đến lý nhất tâm bất loạn hoát nhiên phá một phẩm vô minh cho đến bốn mươi mốt phẩm vô minh thì sanh Thật báo trang nghiêm tịnh độ. Nếu dứt hết vô minh thì thượng thượng thật báo, cứu cánh Tịch quang.” Căn cứ vào hiện quả mà luận, đã sanh vào Cực Lạc tức Đồng cư tịnh độ cũng đủ ba tịnh độ trên, vì được nguyện thù thắng của Phật Vô Lượng Thọ nhiếp thọ, vì Đức Phật Vô Lượng Thọ nguyện quốc độ trang nghiêm thanh tịnh. Vì thế Đồng cư của Cực Lạc vượt hơn Đồng cư của các cõi nước Phật ở khắp mười phương, trăm phần chẳng bằng một, nghìn phần chẳng bằng một, cho đến ưu-ba-ni-sa-đà phần chẳng bằng một.
28. Khuyến tấn vãng sanh
Phật cáo Di-lặc bồ-tát: Chư thiên nhân đẳng, Vô Lượng Thọ quốc thanh văn, bồ-tát công đức trí huệ bất khả xưng thuyết. Hựu kỳ quốc vi diệu an lạc thanh tịnh như thử, hà bất lực vi thiện. niệm đạo chi tự nhiên, trước ư vô thượng hạ, đỗng đạt vô biên tế. Nghi các cần tinh tấn nỗ lực tự cầu chi, tất đắc siêu tuyệt khứ. Vãng sanh An Lạc quốc, hoành tiệt ngũ ác đạo, ác đạo tự nhiên bế, thăng đạo vô cùng cực, dị vãng vô nhân. Hà bất khí thế sự, cần hành cầu đạo đức, khả đắc cực trường sanh, thọ lạc vô hữu cực. Nhiên thế nhân bạc tục, cộng tranh bất cấp chi sự, ư thử kịch ác cực khổ chi trung cần thân doanh vụ dĩ tự cấp tế, vô tôn, vô ty, vô bần, vô phú, thiếu trưởng, nam nữ cộng ưu tiền tài, vô hữu đồng nhiên, ưu tư thích đẳng, bình doanh sầu khổ, lũy niệm tích lự, vị tâm tẩu sử vô hữu an thời. Hữu điền ưu điền, hữu trạch ưu trạch, ngưu mã lục súc, nô tỳ, tiền tài, y thực, thập vật, phục cộng ưu chi. Trọng tư lụy tức, ưu niệm sầu bố, hoạnh vị phi thường thủy hỏa, đạo tặc, oan gia, trái chủ phần phiêu kiếp đoạt, tiêu tán ma diệt. Ưu độc chung chung, vô hữu giải thời, kết phẩn tâm trung, bất ly ưu não, tâm kiên ý cố, thích vô túng xả. Hoặc tọa tồi toái, thân vong mạng chung, khí quyên chi khứ, mạc thùy tùy giả. Thế gian nhân dân, phụ tử huynh đệ, phu phụ gia thất, trung ngoại thân thuộc, đương tương ái kính, vô tương tắng tật, hữu vô tương thông, vô đắc tham tích, ngôn sắc thường hòa, mạc tương vi lệ. Hoặc thời tâm tránh, hữu sở khuể nộ, kim thế hận ý, vi tương tắng tật, hậu thế chuyển kịch chí thành đại oán, giai đương đối sanh, cánh tương báo phục. Nhân tại thế gian ái dục chi trung độc sanh độc tử, độc khứ độc lai, khổ lạc chi địa, thân tự đương chi, vô hữu đại giả. Thiện ác biến hóa, ương phước dị xứ, sanh tử thường đạo chuyển tương tự lập. Hoặc phụ khốc tử, hoặc tử khốc phụ, huynh đệ, phu phụ cánh tương khốc khấp, điên đảo thượng hạ, vô thường căn bản giai đương quá khứ, bất khả thường bảo. Như thử chi nhân mông minh để đột, bất tín kinh pháp, tâm vô viễn lự, các dục khoái ý, si hoặc ái dục, bất đạt ư đạo đức, mê một ư sân nộ, tham lang ư tài sắc, tọa chi bất đắc đạo, đương cánh ác thú khổ, sanh tử vô cùng dĩ. Ai tai! Thậm khả thương!
Phật cáo Di-lặc bồ-tát: Chư thiên nhân đẳng, ngã kim ngứ nhữ, thế gian chi sự, nhân dụng thị cố, tọa bất đắc đạo, đương thục tư kế viễn ly chúng ác, trạch kỳ thiện giả, cần nhi hành chi. Ái dục vinh hoa bất khả thường bảo, giai đương biệt ly, vô khả lạc giả. Ngộ Phật tại thế, đương cần tinh tấn, kỳ hữu chí nguyện sanh An Lạc quốc giả khả đắc trí huệ minh đạt, công đức thù thắng, vật đắc tùy tâm sở dục, khuy phụ kinh giới, tại nhân hậu dã. Thảng hữu nghi ý, bất giải kinh giả khả cụ vấn Phật, đương vị thuyết chi.
Di-lặc bồ-tát trường quỵ bạch ngôn: Phật oai thần tôn trọng, sở thuyết khoái thiện, thính Phật kinh ngữ, quán tâm tư chi. Thế nhân thật nhĩ, kim Phật từ mẫn hiển thị đại đạo. Chư thiên nhân dân, nhu động chi loại giai mông từ ân giải thoát ưu khổ. Phật ngữ giáo giới thậm thâm thậm thiện, trí huệ minh kiến bát phương thượng hạ, khứ lai kim sự, mạc bất cứu sướng. Phật vi pháp vương, tôn siêu chúng thánh, phổ vi nhất thiết thiên nhân chi sư, tùy tâm sở nguyện giai linh đắc đạo. Kim đắc trị Phật, phục văn Vô Lượng Thọ thanh, mỹ bất hoan hỷ, tâm đắc khai minh.
Phật cáo Di-lặc: Nhữ ngôn thị dã. Nhược hữu từ kính ư Phật giả thật vi đại thiện. Thiên hạ cửu cửu nãi phục hữu Phật. Kim ngã ư thử thế tác Phật diễn thuyết kinh pháp, tuyên bố đạo giáo, đoạn chư nghi võng, bạt ái dục chi bản, đổ chúng ác chi nguyên, du bộ tam giới vô sở quái ngại. Điển lãm trí huệ, chúng đạo chi yếu, chấp trì cương duy, chiêu nhiên minh bạch, khai thị ngũ thú, độ vị độ giả, quyết chánh sanh tử nê-hoàn chi đạo.
Di-lặc đương tri, nhữ tùng vô số kiếp lai, tu bồ-tát hạnh, dục độ chúng sanh, kỳ dĩ cửu viễn, tùng nhữ đắc đạo chí ư nê-hoàn, bất khả xưng sổ. Nhữ cập thập phương chư thiên nhân dân, nhất thiết tứ chúng vĩnh kiếp dĩ lai triển chuyển ngũ đạo, ưu úy cần khổ bất khả cụ ngôn, nãi chí kim thế sanh tử bất tuyệt, dữ Phật tương trị thính thọ kinh pháp, hựu phục đắc văn Vô Lượng Thọ Phật. Khoái tai thậm thiện! Ngô trợ nhĩ hỷ. Nhữ kim diệc khả tự yếm sanh tử, lão bệnh thống khổ, ác lộ bất tịnh, vô khả lạc giả nghi tự quyết đoán. Đoan thân chánh hạnh, ích tác chư thiện, tu dĩ khiết tịnh, tẩy trừ tâm cấu, ngôn hạnh trung tín, biểu lý tương ưng. Nhân năng tự độ chuyển tương chửng tế, tinh minh cầu nguyện, tích lũy thiện bản, tuy nhất thế cần khổ, diệc tu du chi gian, hậu sanh Vô Lượng Thọ quốc khoái lạc vô cực, trường dữ đạo đức hợp minh, vĩnh bạt sanh tử căn bản, vô phục tham khuể ngu si khổ não chi hoạn, dục thọ nhất kiếp, bách kiếp, thiên ức vạn kiếp, tự tại tùy ý giai khả đắc chi, vô vi tự nhiên, thứ ư nê-hoàn chi đạo. Nhữ đẳng nghi các tinh tấn, cầu tâm sở nguyện, vô đắc nghi hoặc trung hối tự vi quá cửu, sanh bỉ biên địa thất bảo cung điện, ngũ bách tuế trung thọ chư ách dã.
Di-lặc bạch ngôn: Thọ Phật trọng hối, chuyên tinh tu học, như giáo phụng hành, bất cảm hữu nghi.
Phật bảo bồ-tát Di-lặc: Công đức, trí huệ của chư thiên, nhân dân, thanh văn, bồ-tát ở cõi nước Vô Lượng Thọ chẳng thể nói hết, lại nữa cõi nước ấy vi diệu an lạc thanh tịnh như thế, sao không nỗ lực làm lành, tự nhiên niệm đạo, rõ ràng không có cao thấp, rỗng suốt không giới hạn, mỗi người đều phải siêng năng tinh tấn, nỗ lực tự cầu thì chắc chắn được siêu tuyệt vãng sanh về nước An Lạc, cắt ngang năm đường ác, đường ác tự nhiên đóng, tiến đạo vô cùng cực. Dễ vãng sanh mà không có người, sao chẳng bỏ việc thế gian, siêng tu đạo đức để có thể được sống rất lâu, tuổi thọ và phước lạc vô cùng. Nhưng người ở thế gian tranh giành với nhau việc không cần kíp, thân nhọc nhằn khổ sở để tự nuôi sống trong chốn cực ác khốn khổ này. Bất luận tôn ty, nghèo giàu, lớn nhỏ, nam nữ cùng lo tiền của, dù có hay không cũng lo âu như nhau, sợ hãi sầu khổ, tích lũy niệm lự, bị tâm sai khiến không có lúc nào yên. Có ruộng lo ruộng, có nhà lo nhà, lại cùng lo trâu, ngựa, lục súc, tôi tớ, tiền của, cơm áo, các vật linh tinh. Càng nghĩ càng thở than, lo rầu sợ hãi bị nước lũ nhận chìm, hỏa hoạn, giặc cướp oan gia, trái chủ cướp đoạt tiêu tan, mất mát. Nỗi lo âu khiếp đảm không lúc nào ngơi, nội kết trong lòng, chẳng lìa buồn khổ, tâm ý kết chặt phiền não, không thể buông bỏ, hoặc đau buồn quá độ mà mất mạng, bỏ lại tất cả tài sản mà ra đi, chẳng có ai theo cùng!
Nhân dân ở thế gian như là cha con, anh em, vợ chồng, gia đình, bà con nội ngoại nên kính yêu nhau, đừng ganh ghét nhau, có của cải nên giúp đỡ nhau, đừng có tham tiếc, lời nói và sắc mặt thường hòa nhã, đừng chống đối nhau. Hoặc lúc nổi tâm tranh cãi, sanh ra tức giận, hiện đời có ý sân giận, ganh ghét nhau thì đời sau càng nặng đến nổi trở thành đại oán, đều sẽ tìm đến với nhau để báo thù. Người ở trong nhân gian đầy ái dục, một mình sanh tử, một mình đến đi, bản thân phải tự gánh lấy khổ vui, không ai thay thế. Thiện ác đổi thay, họa phước khác nhau, con đường sanh tử qua lại nối tiếp, hoặc cha khóc con, hoặc con khóc cha, anh em, vợ chồng khóc thương lẫn nhau, trên dưới điên đảo, vô thường là cội gốc, rồi phải qua đi, không thể giữ mãi. Những người như thế tối tăm ương ngạnh, chẳng tin kinh pháp, chẳng biết lo xa, chỉ làm theo ý thích si mê ái dục, chẳng hiểu đạo đức, chìm trong sân hận, tham lam tiền của, sắc đẹp thì tự nhiên chẳng đắc đạo, sẽ sa vào các đường thống khổ, sanh tử không có lúc dừng. Thật đáng thương thay!
Phật bảo bồ-tát Di-lặc: Hôm nay Ta nói với trời người các ông rằng: người theo đuổi các việc thế gian thì tự nhiên chẳng đắc đạo. Các ông phải nên suy nghĩ cho kỹ mà lìa xa các điều ác, chọn điều thiện mà siêng năng thực hành; ái dục vinh hoa chẳng thể giữ mãi, đều phải rời bỏ, không gì đáng vui. Gặp Phật ra đời, các ông phải siêng năng tinh tấn, nếu người có chí nguyện sanh về cõi nước An Lạc thì có thể được trí huệ sáng suốt, công đức thù thắng, đừng nên theo vật dục mà bỏ mất kinh giới, thành kẻ không ra gì! Nếu trong lòng các ông có nghi, không hiểu kinh pháp thì hãy đến hỏi Phật, Phật sẽ giải đáp cho.
Bồ-tát Di-lặc quỳ xuống bạch rằng: Đức Phật oai thần thật đáng tôn trọng, lời Ngài dạy chí thiện. Nghe lời Phật dạy lắng lòng suy tư mới biết con người thật là như vậy! Nay Phật xót thương chỉ bày đại đạo, chư thiên, nhân dân cho đến các loài sâu bọ đều nhờ từ ân mà thoát khỏi lo âu đau khổ. Lời răn dạy của Phật rất sâu rất thiện, trí huệ thấy rõ hết các việc quá khứ, vị lai, hiện tại ở khắp mười phương. Phật là đấng Pháp vương, tôn quý hơn các bậc Thánh khác, làm thầy của khắp trời người, tùy theo tâm nguyện của họ mà làm cho họ đắc đạo. Nay các ông được gặp Phật, còn được nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ, nếu ai nấy đều hoan hỷ thì tâm được mở sáng.
Phật bảo Di-lặc: Ông nói đúng đấy! Nếu người nào yêu kính Đức Phật thì thật là đại thiện, thiên hạ lâu lắm mới có Phật. Hôm nay Ta ở thế giới này làm Phật, diễn nói kinh pháp, tuyên bố đạo giáo, cắt đứt lưới nghi, nhổ gốc ái dục, lấp bít nguồn ác, đi khắp ba cõi không có chướng ngại, trí huệ khéo giải nghĩa kinh, toát yếu các đạo, nắm giữ giềng mối rõ ràng phân minh, khai thị cho chúng sanh trong năm đường, độ người chưa độ, giải quyết đúng đắn con đương sanh tử niết-bàn.
Di-lặc nên biết, ông từ vô số kiếp đến nay tu hạnh bồ-tát vì muốn độ chúng sanh; việc ấy đã từ lâu xa, từ lúc ông đắc đạo cho đến niết-bàn, chẳng thể tánh kể. Ông và chư thiên nhân dân, tất cả bốn chúng ở khắp mười phương từ nhiều kiếp đến nay xoay vần trong năm đường, lo âu khốn khổ không thể nói hết, cho đến ngày nay sanh tử cũng không dứt, may gặp được Phật, nghe nhận kinh pháp, lại còn được nghe danh hiệu Phật Vô Lượng Thọ. Thích thay! Rất tốt! Ta tùy hỷ ông! Nay ông cũng có thể tự chán sanh tử, già bệnh đau khổ, thân chảy ra đồ bất tịnh, không có gì đáng vui cả! Ông phải tự quyết đoán, đoan thân chánh hạnh làm nhiều việc thiện, tu đã khiết tịnh, rửa sạch tâm nhơ, lời nói việc làm trung thực, uy tín, trong ngoài tương ưng. Người tự độ được mình thì mới có thể cứu độ người khác, sáng suốt chuyên cầu tích lũy công đức. Tuy một đời chịu khổ tu hành cũng như trong chốc lát mà thôi, nhưng sau đó sanh về cõi nước Phật Vô Lượng Thọ an vui vô cùng, thường hợp với đạo đức rạng ngời, nhổ hẳn gốc rễ sanh tử, không còn tai họa khổ não của tham sân si, muốn thọ một kiếp, trăm kiếp, nghìn ức vạn kiếp, tự tại tùy ý, đều có thể được, vô vi tự nhiên, chỉ đứng sau đạo nê-hoàn. Các ông mỗi người tinh tấn thì được như sở nguyện, không nên nghi ngờ, nửa chừng hối hận, tự mang tội lỗi mà bị sanh vào cung điện thất bảo ở biên địa của cõi nước kia, trong năm trăm năm không được thấy Phật.
Di-lặc bạch Phật: Vâng lời Phật dạy, chúng con chuyên tinh tu học, thực hành theo lời Phật dạy, không dám nghi ngờ.
Đoạn trên nói người đời do nhân duyên vật dục nên bị khổ vô lượng, vì muốn cho hành giả sanh tâm chán ghét xa lìa để mau mau cầu thoát khổ, như kinh Đại Niết-bàn nói: “Đại bồ-tát quán các chúng sanh do vì sắc thanh hương vị xúc mà từ vô thỉ vô số kiếp đến nay thường chịu khổ não. Mỗi một chúng sanh ở trong một kiếp gom xương của mình lại thì chất cao bằng núi Tỳ-phú-la ở thành Vương Xá, sữa mẹ mà mình đã uống nhiều như nước bốn biển, máu trong thân chảy ra nhiều hơn nước bốn biển, nước mắt khóc tiển đưa cha mẹ, anh em, vợ con, quyến thuộc qua đời nhiều hơn nước bốn biển, chặt hết tất cả cỏ cây trên quả đất này làm thành thẻ dài chỉ bốn tấc Tàu (12cm) dùng để đếm số cha mẹ cũng không đủ, từ vô lượng kiếp hoặc chịu khổ trong các đường địa ngục, ngạ qủy, súc sanh cũng không thể kể xiết, vò quả đất này lại bằng quả táo còn dễ có thể cùng tận, chứ sanh tử thì khó cùng tận!”. Lý do là vì không chịu nhất tâm niệm Phật cầu sanh về cõi nước Vô dục, đến nỗi từ mê vào mê, càng ngày càng đi xuống. Đức Như Lai xót thương nói cho chúng ta nghe kinh Vô Lượng Thọ này, dạy mọi người đoạn nhân duyên vật dục, nhất tâm niệm Phật, đi thẳng đến Tây phương, cắt ngang ba đường ác. Tất cả người đời lấy vật dục làm vui mà chẳng biết đó là khổ. Người trí xét thấy đó chỉ là khổ, không có vui. Vì sao? Vì cho ‘có’ là vui, ‘không’ tức là khổ mà chẳng biết rằng ‘có’ là sở nhân của ‘không’; cho ‘được’ là vui, ‘mất’ tức là khổ mà chẳng biết rằng ‘được’ là sở nhân của ‘mất’; cho ‘tụ’ là vui, ‘tán’ tức là khổ mà chẳng biết rằng ‘tụ’ là sở nhân của ‘tán’; cho ‘sanh’ là vui, ‘diệt’ tức là khổ mà chẳng biết rằng ‘sanh’ là sở nhân của ‘diệt’. Thế nên biết không ‘có’ tức không ‘không’, không ‘được’ tức không ‘mất’, không ‘tụ’ tức không ‘tán’, không ‘sanh’ tức không ‘diệt’. đây gọi là Cực Lạc, đây gọi là Tịnh độ. Hai pháp này, pháp nào là chân, pháp nào là vọng, bỏ pháp nào, theo pháp nào, hành giả phải tự quyết định, đừng để lần lữa qua ngày, một phen mất thân người thì muôn kiếp phải bị trầm luân!
29. Năm ác năm thiện
Phật cáo Di-lặc: Nhữ đẳng năng ư thử thế đoan tâm chánh ý bất tác chúng ác, thậm vi chí đức, thập phương thế giới tối vô luân thất. Sở dĩ giả hà? Chư Phật quốc độ thiên nhân chi loại tự nhiên tác thiện, bất đại vi ác, dị khả khai hóa. Kim ngã ư thử thế gian tác Phật, xử ư ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu chi trung vi tối kịch khổ, giáo hóa quần sanh linh xả ngũ ác, linh khử ngũ thống, linh ly ngũ thiêu, hàng hóa kỳ ý, linh trì ngũ thiện, hoạch kỳ phước đức, độ thế trường thọ nê-hoàn chi đạo. Hà đẳng ngũ ác? Hà đẳng ngũ thống? Hà đẳng ngũ thiêu? Hà đẳng tiêu hóa ngũ ác linh trì ngũ thiện, hoạch kỳ phước đức, độ thế trường thọ nê-hoàn chi đạo?
Kỳ nhất ác giả, chư thiên nhân dân nhu động chi loại dục vi chúng ác mạc giai bất nhiên. Cường giả phục nhược, chuyển tương khắc tặc, tàn hại sát lục, điệt tương thôn phệ, bất tri tu thiện, ác nghịch vô đạo, hậu thọ ương phạt, tự nhiên thú hướng. Thần minh ký chí, phạm giả bất xá, cố hữu bần cùng hạ tiện, khất cái cô độc, lung manh ám á, ngu si tệ ác, chí hữu uông cuồng bất đãi chi thuộc. Thế hữu thường đạo, vương pháp lao ngục, bất khẳng úy thận, vi ác nhập tội, thọ kỳ ương phạt, cầu vọng giải thoát, nan đắc miễn xuất. Thọ chung hậu thế, vưu thâm vưu kịch, nhập kỳ u minh chuyển sanh thọ thân, cố hữu tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não, chuyển mậu kỳ thân, cải hình dịch đạo, sở thụ thọ mạng hoặc trường hoặc đoản, đương độc trực hướng, tương cộng tùng sanh, cánh tương báo phục, vô hữu chỉ dĩ. Ương ác vị tận, bất đắc tương ly, triển chuyển kỳ trung, vô hữu xuất kỳ, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thị vi nhất đại ác, nhất thống, nhất thiêu, cần khổ như thị. Thí như đại hỏa phần thiêu nhân thân, nhân năng ư trung, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác giả, thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, độ thế thướng thiên nê-hoàn chi đạo. Thị vi nhất đại thiện dã.
Kỳ nhị ác giả, thế gian nhân dân, phụ mẫu, huynh đệ, thất gia, phu phụ đô vô nghĩa lý, bất thuận pháp độ, xa dâm kiêu túng, các dục khoái ý, nhậm tâm tự tứ, cánh tương khi hoặc, nịnh siểm bất trung, xảo ngôn du mị, tật hiền báng thiện, hãm nhập oan uổng. Chúa thượng bất minh, nhiệm dụng thần hạ, thần hạ tự tại cơ ngụy đa đoan. Thần khi kỳ quân, tử khi kỳ phụ, huynh đệ phu phụ, trung ngoại tri thức, cánh tương khi cuống, các hoài tham dục, sân khuể, ngu si. Dục tự hậu kỷ, dục tham đa hữu, tôn ty thượng hạ, tâm câu đồng nhiên. Phá gia vong thân, bất cố tiền hậu, thiên thần khắc chí, biệt kỳ danh tịch. Thọ chung thần thệ, hạ nhập ác đạo, cố hữu tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, thế thế lũy kiếp vô hữu xuất kỳ, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thị vi nhị đại ác, nhị thống, nhị thiêu cần khổ như thị. Thí như đại hỏa phần thiêu nhân thân, nhân năng ư trung, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác giả, thân đắc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, độ thế thướng thiên nê-hoàn chi đạo. Thị vi nhị đại thiện dã.
Kỳ tam ác giả, thế gian nhân dân tương nhân ký sanh, xử niên thọ mạng vô năng kỷ hà. Bất thiện chi nhân thường hoài tà ác, đản niệm dâm dật, phiền mãn hung trung, ái dục giao loạn, tọa khởi bất an, phán lai tế sắc, tà thái ngoại dật, tự thê yếm tắng, tư vọng xuất nhập, phí tổn gia tài, sự vi phi pháp, tứ tâm khoái ý, cực thân tác lạc. Hoặc ư thân thuộc bất tỵ tôn ty, gia thất trung ngoại hoạn nhi khổ chi, diệc phục bất úy vương pháp cấm lệnh. Như thị chi ác trước ư nhân quỷ, nhật nguyệt chiếu kiến, thần minh ký chí, cố hữu tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, thế thế lũy kiếp vô hữu xuất kỳ, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thị vi tam đại ác, tam thống, tam thiêu cần khổ như thị. Thí như đại hỏa phần thiêu nhân thân, nhân năng ư trung, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác giả, thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, độ thế thướng thiên nê-hoàn chi đạo. Thị vi tam đại thiện dã.
Kỳ tứ ác giả, thế gian nhân dân bất niệm tu thiện, chuyển tương giáo lệnh cộng vi chúng ác, lưỡng thiệt, ác khẩu, vọng ngữ, ỷ ngữ, sàm tặc, đấu loạn, tắng tật thiện nhân, bất hiếu nhị thân, khinh mạn sư trưởng, bằng hữu vô tín, nan đắc thành thật. Tôn quý tự đại vi kỷ hữu đạo, bất úy thiên địa, thần minh, nhật nguyệt, tự dụng yển kiển vị khả thường nhĩ. Như thị chúng ác, thiên thần ký chí, thọ mạng chung tận, chư ác sở quy, tự nhiên bách xúc, cộng thú đoạt chi. Hựu kỳ danh tịch, ký tại thần minh, ương cữu khiên dẫn, vô tùng xả ly, đản đắc tiền hành nhập ư hỏa hoạch, thân tâm tồi toái, tinh thần thống khổ. Đương tư chi thời, hối phục hà cập, cố hữu tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não triển chuyển kỳ trung, thế thế lũy kiếp vô hữu xuất kỳ, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thị vi tứ đại ác, tứ thống, tứ thiêu. Thí như đại hỏa phần thiêu nhân thân, nhân năng ư trung, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác giả, thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, độ thế thướng thiên nê-hoàn chi đạo. Thị vi tứ đại thiện dã.
Kỳ ngũ ác giả, thế gian nhân dân tỉ ỷ giải nọa, bất khẳng tác thiện, trị thân tu nghiệp, gia thất quyến thuộc cơ hàn khốn khổ, phụ mẫu giáo hối, sân mục nộ ứng, ngôn linh bất hòa, vi lệ phản nghịch, thí như oan gia, bất như vô tử. Đam tửu thị mỹ, ẩm thực vô độ, từ tâm đãng dật, lỗ hỗ để đột, bất thức nhân tình, cuỡng dục ức chế, kiến nhân hữu thiện, đố tật ố chi. Vô nghĩa vô lễ, vô sở cố nạn, tâm thường niệm ác, khẩu thường ngôn ác, thân thường hành ác, tằng vô nhất thiện. Bất tín tiên thánh chư Phật kinh pháp, bất tín hành đạo khả đắc độ thế, bất tín tử hậu thần minh cánh sanh, bất tín tác thiện đắc thiện, vi ác đắc ác, dục sát chân nhân, đấu loạn chúng tăng, dục hại phụ mẫu, huynh đệ, quyến thuộc, lục thân tắng ố, nguyện linh kỳ tử, đại mạng tương chung, hối cụ giao chí, bất dự tu thiện, lâm cùng phương hối, hối chi ư hậu, tương hà cập hồ! Thiên địa chi gian, ngũ đạo phân minh, khôi khuếch yểu minh, hạo hạo mang mang, thiện ác báo ứng, họa phước tương thừa, thân tự đương chi, vô thùy đại giả, độc Phật tri nhĩ. Giáo ngữ khai thị, tín dụng giả thiểu, sanh tử bất hưu, ác đạo bất tuyệt. Như thị thế nhân nan khả cụ tận, cố hữu tự nhiên tam đồ vô lượng khổ não, triển chuyển kỳ trung, thế thế lũy kiếp vô hữu xuất kỳ, nan đắc giải thoát, thống bất khả ngôn. Thị vi ngũ đại ác, ngũ thống, ngũ thiêu cần khổ như thị. Thí như đại hỏa phần thiêu nhân thân, nhân năng ư trung, nhất tâm chế ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hành tương phó, sở tác chí thành, sở ngứ như ngữ, tâm khẩu bất chuyển, độc tác chư thiện, bất vi chúng ác giả, thân độc độ thoát, hoạch kỳ phước đức, độ thế thướng thiên nê-hoàn chi đạo. Thị vi ngũ đại thiện dã.
Phật bảo Di-lặc: Các ông ở thế gian này, đoan thân chánh ý chẳng làm các điều ác thì thật là chí đức, mười phương thế giới không ai bì kịp. Vì sao? Hàng trời người ở trong cõi nước của các Đức Phật khác tự nhiên làm điều thiện, chẳng bao giờ làm ác, rất dễ giáo hóa. Nay Ta ở thế gian này làm Phật ở trong ngũ ác, ngũ thống, ngũ thiêu vô cùng khổ sở giáo hóa chúng sanh khiến họ bỏ ngũ ác, rời ngũ thống, lìa ngũ thiêu. Giáo hóa hàng phục tâm họ, khiến họ giữ ngũ thiện, được phước đức vượt thoát thế gian, đắc đạo nê-hoàn trường thọ.
Những gì là ngũ ác? Những gì là ngũ thống? Những gì là ngũ thiêu? Những gì làm tiêu ngũ ác khiến họ giữ ngũ thiện, được phước đức vượt thoát thế gian, đắc đạo nê-hoàn trường thọ?
Loại ác thứ nhất, chư thiên, nhân dân và các loài sâu bọ, loài nào cũng muốn làm ác, ỷ mạnh hiếp yếu, cướp đoạt lẫn nhau, tàn sát giết chóc, ăn nuốt lẫn nhau, chẳng biết tu thiện, ác nghịch vô đạo. Về sau tự nhiên hướng đến chỗ hình phạt để chịu tai ương. Thần minh ghi chép, kẻ phạm tội chẳng được tha, cho nên có nghèo nàn, hạ tiện, ăn xin, cô độc, điếc đui câm ngọng, ngu si tệ ác, cho đến có kẻ thuộc hạng què thọt đi đứng khó khăn. Thế gian có đạo ngũ thường, phép vua thì có lao ngục, chẳng biết sợ hãi, thận trọng, làm ác bị tội thì phải chịu hình phạt, mong được giải thoát cũng khó được thoát ra; chết rồi, đời sau lại càng khổ hơn, vào chốn u minh chuyển sanh thụ thân cho nên tự nhiên có ba đường ác vô lượng khổ não, thay hình đổi dạng, thay đổi cả đường thụ sanh có thọ mạng hoặc dài hoặc ngắn, phải đi một mình trong đường sanh tử để chịu nghiệp báo, không có lúc dừng. Nghiệp ác chưa hết thì không thể thoát ly, xoay vần trong đó, không có lúc ra, khó được giải thoát, đau đớn không kể xiết! Đây là loại đại ác, đại thống, đại thiêu thứ nhất khổ sở như thế! Ví như lửa lớn thiêu đốt thân người, người ở trong lửa nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, chỉ làm điều thiện, chẳng làm điều ác thì thân được độ thoát, được phước đức, vượt thoát thế gian, đắc đạo nê-hoàn sanh lên cõi trời. Đây là đại thiện thứ nhất.
Loại ác thứ hai, nhân dân, cha mẹ, anh em, gia đình, chồng vợ đều không có nghĩa, chẳng thuận với phép tắc, dâm dật, kiêu mạn, phóng túng, mọi người tự tung tự tác làm theo ý thích của mình, lại còn lừa dối nhau, nịnh bợ bất trung, dùng lời xảo trá tâng bốc, ganh ghét người hiền, phỉ báng người thiện, khiến người tốt phải bị oan uổng. Chúa thượng bất minh tùy tiện bổ dụng bề tôi, tôi thần tự do dối trá trăm chiều. Tôi thần coi thường nhà vua, con cái khinh khi cha mẹ, anh em, chồng vợ, kẻ quen biết trong ngoài dối gạt lẫn nhau. Người nào cũng ôm lòng tham dục, sân giận, ngu si, tự tư tự lợi, muốn mình được nhiều; người lớn kẻ nhỏ, tâm đều như vậy. Tan nhà mất mạng, chẳng nhìn trước sau, thiên thần ghi chép vào bộ sổ riêng, mạng chung thần thức sa vào đường ác, cho nên tự nhiên có ba đường ác vô lượng khổ não, xoay vần trong đó đời đời kiếp kiếp không hẹn ngày ra, khó được giải thoát, đau đớn không thể kể xiết. Đây là đại ác, đại thống, đại thiêu thứ hai khổ sở như thế! Ví như lửa lớn thiêu đốt thân người, người ở trong lửa nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, chỉ làm điều thiện, chẳng làm điều ác thì thân được độ thoát, được phước đức, vượt thoát thế gian, đắc đạo nê-hoàn sanh lên cõi trời. Đây là đại thiện thứ hai.
Loại ác thứ ba, nhân dân ở thế gian sống nhờ vào nhau, có bao nhiêu người sống hết được thọ mạng. Kẻ bất thiện thường ôm lòng tà ác, chỉ nghĩ tưởng đến dâm dật, phiền não đầy ắp trong lòng, ái dục rộn ràng khiến cho ngồi đứng không yên, mắt nhìn thấy sắc đẹp khiêu gợi bên ngoài thì chán ghét vợ nhà, tà dâm tư tình khiến cho hao tốn gia tài, tâm ý phóng túng làm việc phi pháp, đam mê dục lạc. Hoặc không kiêng nể tôn ty đối với thân thuộc, bà con nội ngoại nên gây họa mà làm khổ họ, cũng chẳng sợ luật pháp của nhà vua. Kẻ làm ác như thế thường bị quỷ nhập, nhật nguyệt soi thấy, thần minh ghi chép cho nên tự nhiên có ba đường ác vô lượng khổ não, xoay vần trong đó, đời đời kiếp kiếp không hẹn ngày ra, khó được giải thoát, đau đớn không thể kể xiết! Đây là đại ác, đại thống, đại thiêu thứ ba khổ sở như thế! Ví như lửa lớn thiêu đốt thân người, người ở trong lửa nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, chỉ làm điều thiện, chẳng làm điều ác thì thân được độ thoát, được phước đức, vượt thoát thế gian, đắc đạo nê-hoàn sanh lên cõi trời. Đây là đại thiện thứ ba.
Loại ác thứ tư, nhân dân ở thế gian chẳng nghĩ đến tu thiện, cò dạy cho nhau cùng làm việc ác, nói lời gây chia rẽ, nói lời thô ác, nói dối, nói lời thêu dệt, nói xấu người khác, nói lời gây hiềm khích, ganh ghét người thiện, bất hiếu cha mẹ, khinh mạn sư trưởng, không có uy tín với bạn bè, khó dược thành thật. Tự tôn tự đại cho là mình có đạo, chẳng sợ trời đất, thần minh, nhật nguyệt ngạo mạn tự làm theo ý mình cho đó là lẽ thường. Kẻ làm những điều ác như thế, thiên thần ghi chép, lúc thọ mạng hết, các nghiệp ác quay về tự nhiên bức bách đoạt quyền làm chủ. Lại trong danh sách, thần minh ghi chép dẫn vào chỗ chịu tội, không sao thoát được, chỉ có tiến vào lò lửa vạc sôi, thân thể tan nát, tinh thần thống khổ; lúc đó hối hận cũng đâu kịp, cho nên tự nhiên có ba đường ác vô lượng khổ não, xoay vần trong đó đời đời kiếp kiếp không hẹn ngày ra, khó được giải thoát, đau đớn không thể kể xiết! Đây là đại ác, đại thống, đại thiêu thứ tư khổ sở như thế! Ví như lửa lớn thiêu đốt thân người, người ở trong lửa nhất tâm chế ý, đoan thân chánh hạnh, chỉ làm điều thiện, chẳng làm điều ác thì thân được độ thoát, được phước đức, vượt thoát thế gian, đắc đạo nê-hoàn sanh lên cõi trời. Đây là đại thiện thứ tư.
Loại ác thứ năm, nhân dân ở thế gian ỷ lại biếng nhác chẳng chịu làm thiện, tu thân lập hạnh. Gia đình, quyến thuộc đói rét khốn khổ, cha mẹ dạy bảo, trợn mắt giân hờn, lời nói hỗn hào chống đối phản kháng ví như oan gia, chi bằng không có con. Say đắm tửu sắc, ăn uống vô độ, tâm ý phóng túng, tự cao tự đại, chẳng biết nhân tình, ép buộc người khác làm theo ý muốn của mình. Thấy người làm thiện thì ganh ghét, không có lễ nghĩa, không hề nghĩ đến điều nguy hại nên tâm thường nghĩ ác, miệng thường nói ác, thân thường làm ác, chưa từng làm một điều thiện. Chẳng tin kinh pháp của chư Phật và các bậc thánh hiền, chẳng tin hành đạo có thể vượt thoát thế gian, chẳng tin sau khi chết thần thức tái sanh, chẳng tin làm thiện được thiện báo, làm ác bị ác báo. Muốn giết bậc chân nhân, gây chia rẽ chúng tăng, muốn hại cha mẹ, anh em, quyến thuộc, oán ghét bà con, muốn cho họ chết. Kẻ ác này đến lúc sắp chết vừa hối hận vừa sợ hãi, trước chẳng lo tu thiện, đến lúc chết mới hối hận thì làm sao kịp!
Trong khoảng trời đất, năm đường rõ ràng, sừng sững mêng mang, thiện ác báo ứng, họa phước nối nhau, thân tự nhận lấy, không ai thay được. Người hiền làm lành thì từ vui đến vui, từ sáng vào sáng. Người dữ làm ác thì từ khổ vào khổ, từ tối vào tối. Điều này ai mà biết được, chỉ có Phật biết mà thôi. Lời Phật chỉ dạy, kẻ tin theo rồi vâng làm thì ít, sanh tử không dừng, ác đạo không dứt, người đời như thế, khó thể nói hết, cho nên tự nhiên có ba đường ác với vô lượng khổ não, trôi lăn trong đó không hẹn ngày ra, khó được giải thoát, đau đớn không thể nói hết! Đây là năm đại ác, năm thống, năm thiêu, khổ sở như thế!
Ví như lửa dữ đốt thân, người ở trong lửa mà nhất tâm chế ý, đoan thân chánh niệm, ngôn hạnh tương ưng, việc làm chí thành, nói lời chân thật, ý nghĩ miệng nói không khác, chỉ làm các điều thiện, chẳng làm các điều ác thì bản thân được độ thoát, đầy đủ phước đức, vượt thoát thế gian, đắc đạo nê-hoàn, Đây là đại thiện thứ năm.
Đoạn trên nói về thiện ác báo ứng như bóng theo hình, tức là ý của kinh Quán Vô Lượng Thọ dạy người tin sâu nhân quả, có nhiều kẻ ngu không tin nhân quả. Ngạn ngữ nói: “Trồng lúa thì được cơm ăn, trồng hoa lan thì được hương thơm”. Mọi việc đều như vậy, huống chi thiện ác, cho đến niệm thiên thì được thành thiên, niệm Phật thì được thành Phật, tức là lấy một niệm làm nhân rồi trở lại lấy một niệm là quả. Vì sao? Vì thập thế cổ kim chẳng lìa đương niệm.
Nghĩa của năm ác đặc biệt theo kinh này phối hợp vời mười ác: Điều ác thứ nhất thuộc nghiệp sát sanh, diều ác thứ hai thuộc nghiệp trộm cướp, diều ác thứ ba thuộc nghiệp tà dâm, diều ác thứ tư thuộc nghiệp nói dối, lưỡng thiệt, ác khẩu, ỷ ngữ, diều ác thứ năm thuộc nghiệp tham, sân, tà kiến. Trái lại là năm thiện, cũng gọi là mười thiện. Như bản dịch khác nói: “Người muốn sanh về cõi nước của Phật A-di-đà tuy chẳng thể tinh tấn, thiền định, trì kinh giới, nhưng cần phải làm thiện: Một là chẳng được sát sanh, hai là chẳng được trộm cướp, ba là chẳng được dâm dật, bốn là chẳng được dối trá,
năm là chẳng được uống rượu, sáu là chẳng được lưỡng thiệt, bảy là chẳng được ác khẩu, tám là chẳng được nói dối, chín là chẳng được ganh ghét, mười là chẳng được tham ăn, chẳng được bỏ xẻn, chẳng được sân oán, chẳng được ngu si, chẳng được tham dục, chẳng được giữa chừng hối hận, chẳng được hồ nghi, mà phải nên hiếu thuận, chí thành trung tín, tin nhận kinh Phật, phải tin làm thiện thì về sau được phước. Người vâng làm các pháp kể trên không có sơ sót thì tùy tâm sở nguyện có thể được sanh về cõi nước của Đức Phật A-di-đà. Mười thiện vốn là thiên nghiệp. nay dùng nhân duyên niệm Phật hồi hướng Cực Lạc tức là chuyển thiên nghiệp thành tịnh nghiệp. Vì sao? Người niệm Phật có thể chuyển ác nghiệp, huống gì thiên nghiệp mà chẳng thể chuyển?
30. Nhiều lần khuyên bảo
Phật cáo Di-lặc: Ngô ngứ nhữ đẳng, thị thế ngũ ác cần khổ nhược thử, ngũ thống ngũ thiêu triển chuyển tương sanh. Đản tác chúng ác, bất tu thiện bản, giai tất tự nhiên nhập chư ác thú. Hoặc kỳ hiện thế tiên bị ương bệnh, cầu tử bất đắc, cầu sanh bất đắc, tội ác sở chiêu, thị chúng kiến chi. Thân tử tùy hành nhập tam ác đạo, khổ độc vô lượng tự nhiên tiêu nhiên, giai do tham trước tài sắc, bất năng huệ thí. Si dục sở bách, tùy tâm tư tưởng. phiền não kết phược, vô hữu giải dĩ. Hậu kỷ tranh lợi, vô sở tỉnh lục. Phú quý vinh hoa đương thời khoái ý, bất năng nhẫn nhục, bất vụ tu thiện, uy thế vô kỷ tùy dĩ ma diệt, thân tọa lao khổ, cửu hậu đại kịch. Thiên đạo thi trương, tự nhiên củ cử, cương duy la võng, thượng hạ tương ưng, quỳnh quỳnh cung chung, đương nhập kỳ trung. Cổ kim hữu thị, thống tai khà thương!
Thế gian như thị, Phật giai ai chi, dĩ oai thần lực tồi diệt chúng ác, tất linh tựu thiện, khí quyên sở tư, phụng trì kinh giới, thọ hành đạo pháp, vô sở vi thất, chung đắc độ thế nê-hoàn chi đạo.
Phật ngôn: Nhữ kim chư thiên nhân dân cập hậu thế nhân đắc kinh Phật ngữ, đương thục tư chi, năng ư kỳ trung đoan tâm chánh hạnh. Chúa thượng vi thiện, suất hóa kỳ hạ, chuyển tương sắc lệnh, các tự đoan thủ, tôn thánh kính thiện, nhân từ bác ái, Phật ngữ giáo hối vô cảm khuy phụ, đương cầu độ thế, bạt đoạn sanh tử chúng ác chi bản, đương ly tam đồ vô lương ưu bố khổ thống chi đạo.
Nhữ đẳng ư thị quảng thực đức bản, bố ân thí đức, vật phạm đạo cấm, nhẫn nhục, tinh tấn, nhất tâm, trí huệ, chuyển tương giáo hóa, vi đức lập thiện, chánh tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh, nhất nhật nhất dạ thắng tại Vô Lượng Thọ quốc vi thiện bách niên. Sở dĩ giả hà? Bỉ Phật quốc độ vô vi tự nhiên giai tích chúng thiện, vô hào phát chi ác. Ư thử tu thiện thập nhật thập dạ thắng ư tha phương chư Phật quốc trung vi thiện thiên tuế. Sở dĩ giả hà? Tha phương Phật quốc vi thiện giả đa, vi ác giả thiểu, phước đức tự nhiên, vô tạo ác chi địa. Duy thử gian đa ác, vô hữu tự nhiên, cần khổ cầu dục, chuyển tương khi đãi, tâm lao hình khốn, ẩm khổ thực độc. Như thị ác vụ, vị thường ninh tức. Ngô ai nhữ đẳng thiên nhân chi loại, khổ tâm hối dụ, giáo linh tu thiện, tùy nghi khai đạo, thụ dữ kinh pháp, mạc bất thừa dụng, tại ý sở nguyện, giai linh đắc đạo. Phật sở du lý, quốc ấp khâu tụ, mỹ bất mông hóa, thiên hạ hòa thuận, nhật nguyệt thanh minh, phong vũ dĩ thời, tai lệ bất khởi, quốc phong dân an, binh qua vô dụng, sùng đức hưng nhân, vụ tu lễ nhượng.
Ngã ai mẫn nhữ đẳng chư thiên nhân dân thậm ư phụ mẫu niệm tử. Kim ngã ư thử thế tác Phật, hàng hóa ngũ ác, tiêu trừ ngũ thống, tuyệt diệt ngũ thiêu, dĩ thiện công ác, bạt sanh tử chi khổ linh hoạch ngũ đức, thăng vô vi chi an. Ngô khứ thế hậu, kinh đạo tiệm diệt, nhân dân siểm ngụy, phục vi chúng ác, ngũ thiêu ngũ thống hoàn như tiền pháp, cửu hậu chuyển kịch, bất khả tất thuyết. Ngã đãn vị nhữ lược ngôn chi nhĩ. Nhữ đẳng các thiện tư chi, chuyển tương giáo giới như Phật kinh pháp, vô đắc phạm dã.
Ư thị Di-lặc bồ-tát hợp chưởng bạch ngôn: Phật sở thuyết thậm thiện. Thế nhân thật nhĩ. Như Lai phổ từ ai mẫn tất linh độ thoát, thọ Phật trọng hối, bất cảm vi thất.
Phật bảo Di-lặc: Ta nói với các ông năm ác của thế gian này khổ sở như thế, năm thống năm thiêu xoay vần sanh nhau, chỉ làm điều ác, chẳng tu điều thiện thì đều tự nhiên đi vào các đường ác. Hoặc hiện đời bị tai nạn, bệnh nặng cầu chết chẳng được, cầu sống chẳng được, chiêu cảm tội ác cho mọi người thấy, thân chết đi theo nghiệp đọa vào ba đường ác khổ sở vô lượng tự thiêu đốt mình, đều do tham đắm tiền của, sắc đẹp, chẳng thể bố thí, bị tham dục bức bách, lòng nghĩ không nguôi nên bị phiền não trói buộc, không có lúc cởi mở. Tranh giành nhiều lợi lộc cho mình không hề biết đủ. Phú quý vinh hoa đương thời đắc ý, chẳng thể nhẫn nhục, chẳng lo tu thiện, uy thế chẳng bao lâu cũng tiêu tan, thân chịu khổ nhọc, càng về sau càng kịch liệt. Quy luật tự nhiên của đạo trời mở ra lồng lộng trên dưới tương ưng, mọi người đều khiếp đảm đi một mình vào trong đó, xưa nay đều như thế. Đau đớn thay! Đáng thương thay!
Thế gian như thế, Phật thương xót họ, ngài dùng sức oai thần dẹp bỏ các ác, dạy họ làm thiện, bỏ hết ưu tư, phụng trì kinh giới, vâng làm đạo pháp, không hề trái phạm, cuối cùng đắc đạo nê-hoàn vượt thoát thế gian.
Phật dạy: Chư thiên, nhân dân hôm nay và người thế gian mai sau được nghe kinh Phật, phải nên suy nghĩ thật kỹ, có thể ở trong đó đoan tâm chánh hạnh. Chúa thượng làm lành giáo hóa kẻ dưới vâng theo sắc lệnh, mỗi người tự giữ bổn phận. Tôn trọng bậc thánh, cung kính người hiền. nhân từ bác ái, không dám làm trái lời Phật dạy, phải cầu vượt thoát thế gian, phải nhổ sạch gốc các ác sanh tử, phải rời ba đường ác có vô lượng đau khổ, lo sợ.
Các ông ngay bây giờ hãy trồng nhiều gốc đức, thi ân bố thí, đừng phạm những điều đạo cấm. nhẫn nhục, tinh tấn. nhất tâm, trí huệ, giáo hóa lẫn nhau, tu đức làm thiện, chánh tâm chánh ý, trai giới thanh tịnh một ngày một đêm hơn làm thiện trăm năm ở tại cõi nước Vô Lượng Thọ. Vì sao? Cõi nước Phật ấy vô vi tự nhiên, chứa nhóm các thiện, không có chút ác, còn ở Ta-bà này tu thiện mười ngày mười đêm hơn làm thiện nghìn năm trong các cõi nước Phật ở phương khác. Vì sao? Các cõi nước Phật ở phương khác, người làm thiện nhiều, người làm ác it, phước đức tự nhiên, không có cơ hội tạo ác, còn ở cõi Ta-bà này thì nhiều tội ác, không có thiện tự nhiên, cực khổ tìm cầu vật dục đến nỗi lừa dối lẫn nhau, thân tâm lao nhọc, ngậm đắng nuốt cay, những việc làm ác, chưa từng dừng nghỉ.
Ta thương trời người các ông, khổ tâm dạy bảo các ông tu thiện, tùy theo trình độ các ông mà hương dẫn bằng cách truyền dạy kinh pháp, ai chịu vâng làm thì được toại nguyện là được đắc đạo. Thành ấp, xóm làng, chỗ nào Phật đến, chúng sanh nơi đó đều được giáo hóa, thiên hạ hòa thuận, mặt trời, mặt trăng sáng sủa, mưa gió phải thời, thiên tai, dịch bệnh không khởi, nước giàu, dân an, không có chiến tranh. Nhân dân tôn sùng đức độ, khởi lòng nhân từ, lo tu lễ nghĩa, kính nhường.
Ta thương chư thiên nhân dân các ông còn hơn cha mẹ thương con. Nay Ta ở thế giới Ta-bà này làm Phật chuyển hóa năm ác, tiêu trừ năm thống, diệt sạch năm thiêu, đem thiện dẹp ác, nhổ gốc khổ sanh tử, khiến cho các ông được năm đức, bước lên chỗ an lạc vô vi. Sau khi Ta diệt độ, kinh đạo cũng dần dần diệt, nhân dân dối trá, lại làm các ác, năm thiêu, năm thống trở lại như trước, càng về sau thì càng kịch liệt, chẳng thể nói hết, Ta chỉ nói sơ lược cho các ông nghe mà thôi. Mỗi người các ông hãy khéo suy nghĩ rồi truyền dạy cho nhau đúng như kinh pháp của Phật, không được trái phạm.
Bấy giờ bồ-tát Di-lặc chắp tay bạch rằng: Phật nói rất đúng! Người thế gian thật là như vậy, Như Lai xót thương đều khiến cho tất cả mọi người đều được độ thoát. Chúng con xin vâng lời Phật dạy, không dám chống trái.
Đoạn trên dẫn lại ý của đoạn trước, dạy người làm thiện bỏ ác, chuyên tâm cầu giải thoát. Các pháp thế gian và xuất thế gian tuy bất đồng nhưng đều lấy làm thiện bỏ ác làm cơ bản. Tịnh độ là chỗ chí thiện, cầu sanh tịnh độ là công phu trụ nơi chí thiện, nếu chẳng vào cửa tịnh độ thì thiện chẳng thể được đầy đủ, ác chẳng thể được sạch hết. Vì sao? Tập khí phiền não của chúng sanh từ vô thỉ đến nay chứa nhóm huân nhiễm trong ruộng thức kết thành năm trược như chiếc bình bất tịnh đựng đầy phẩn uế, dù có chùi rửa rồi đem đựng thức ăn ngon, nhưng mùi hôi thối vẫn như cũ. Người sanh tịnh độ thấy Phật nghe pháp, chứng vô sanh nhẫn, đã lấp bít nguồn ác, ở đây được gốc thiện, sau đó trở vào trần lao tuyên dương chánh pháp, tiếp độ chúng sanh vãng sanh Cực Lạc. Người này khéo đồng với mọi người, đây gọi là minh minh đức trong thiên hạ.
Hỏi: Thiền giả thường nói ‘vô thiện’, nhà Nho thì nói ‘chí thiện’ , vì sao bất đồng?
Đáp: Thiện của hữu thiện là danh từ đối đãi với ác, ác đã chẳng lập thì thiện cũng chẳng tồn tại . Chỉ một chân tâm trùm khắp pháp giới, muôn đức nhiều như số cát sông Hằng tịch nhiên tròn đủ, Thánh chẳng thể biết, người đến thì giáo hóa. Thiện của vô thiện, đây là chí thiện. Nếu như người miệng chỉ nói không, hành vi ở tại trong có, nghiệp ác lẫy lừng, tự nói vô thiện. Người này là thây chết biết đi, là cặn bả địa ngục. Tôi không biết phải làm sao, Phật cũng chẳng độ được!
31. Lễ Phật hiện quang
Phật cáo A-nan: Nhữ khởi cánh chỉnh y phục, hợp chưởng cung kinh lễ Vô Lượng Thọ Phật.
Ư thị A-nan khởi chỉnh y phục, chánh thân tây diện, cung kinh hợp chưởng ngũ thể đầu địa lễ Vô Lượng Thọ Phật, bạch ngôn: Thế Tôn! Nguyện kiến bỉ Phật An Lạc quốc độ cập chư bồ-tát, thanh văn đại chúng.
Thuyết thị ngữ dĩ, tức thời Vô Lượng Thọ Phật phóng đại quang minh phổ chiếu nhất thiết chư Phật thế giới, Kim Cang Vi sơn, Tu-di sơn vương, đại tiểu chư sơn, nhất thiết sở hữu giai đồng nhất sắc. Thí như kiếp thủy di mãn thế giới, kỳ trung vạn vật trầm một bất hiện, hoảng dưỡng hạo hàn, duy kiến đại thủy; bỉ Phật quang minh diệc phục như thị, thanh văn, bồ-tát nhất thiết quang minh giai tất ẩn tế, duy kiến Phật quang minh diệu hiển hách. Nhĩ thời A-nan tức kiến Vô Lượng Thọ Phật oai đức nguy nguy như Tu-di sơn vương, cao xuất nhất thiết chư thế giới thượng, tướng hảo quang minh mỹ bất chiếu diệu. Thử hội tứ chúng nhất thời tất kiến; bỉ kiến thử độ diệc phục như thị.
Nhĩ thời Phật cáo A-nan cập Từ Thị bồ-tát: Nhữ kiến bỉ quốc tùng địa dĩ thượng chí Tịnh Cư thiên. Kỳ trung sở hữu vi diệu nghiêm tịnh tự nhiên chi vật vi tất kiến phủ?
A-nan đối viết: Dụy nhiên! Dĩ kiến.
- Nhữ ninh phục văn Vô Lượng Thọ Phật đại âm tuyên bố nhất thiết thế giới, hóa chúng sanh phủ?
A-nan đối viết: Dụy nhiên! Dĩ văn.
- Bỉ quốc nhân dân thừa bách thiên do-tuần thất bảo cung điện vô sở chướng ngại biến chí thập phương cúng dường chư Phật, nhữ phục kiến phủ?
Đối viết: Dĩ kiến.
- Bỉ quốc nhân dân hữu thai sanh giả, nhữ phục kiến phủ?
- Đối viết: Dĩ kiến. Kỳ thai sanh giả sở xử cung điện hoặc bách do-tuần, hoặc ngũ bách do-tuần, các ư kỳ trung thọ chư khoái lạc như Đao-lợi thiên thượng diệc giai tự nhiên.
Phật bảo A-nan: Ông hãy đứng dậy chỉnh lại y phục, chắp tay cung kính lễ Phật Vô Lượng Thọ.
Bấy giờ A-nan đứng dậy chỉnh y phục hướng về phương tây cung kính hợp chưởng năm vóc gieo xuống đất lễ Phật Vô Lượng Thọ, bạch rằng: Thế Tôn! Xin cho con được thấy Đức Phật, cõi nước An Lạc và các đại chúng bồ-tát, thanh văn.
A-nan vừa nói xong, Đức Phật Vô Lượng Thọ tức thời phóng ánh sáng lớn chiếu khắp tất cả thế giới chư Phật, núi Kim Cang Vi, núi chúa Tu-di, các núi lớn nhỏ, tất cả mọi vật đều đồng một màu. Ví như kiếp thủy nước tràn đầy thế giới, vạn vật ở trong đó bị nhận chìm mất dấu, ngập tràn mênh mông, chỉ thấy có nước. Ánh sáng của Đức Phật Vô Lượng Thọ cũng giống như vậy, tất cả ánh sáng của thanh văn, bồ-tát đều bị che mất, chỉ thấy ánh sáng của Phật chói chang rực rỡ. Lúc ấy A-nan thấy Đức Phật Vô Lượng Thọ oai đức vòi vọi như núi chúa Tu-di cao vượt hơn tất cả thế giới, tướng hảo quang minh chiếu khắp tất cả. Bốn chúng trong hội này nhất thời đều thấy cõi kia, các bồ-tát ở cõi nước kia cũng thấy cõi này.
Bấy giờ Phật bảo A-nan và bồ-tát Di-lặc: Ông thấy cõi nước kia từ mặt đất lên đến trời Tịnh Cư, trong đó có các vật tự nhiên thanh tịnh trang nghiêm vi diệu, ông có thấy chăng?
A-nan đáp: Dạ thưa, đã thấy!
- Ông có nghe tiếng thuyết pháp của Đức Phật Vô Lượng Thọ vang khắp tất cả thế giới giáo hóa chúng sanh hay không?
A-nan đáp: Dạ thưa, đã nghe!
- Nhân dân trong cõi nước kia bước lên cung điện thất bảo trăn nghìn do-tuần không bị chướng ngại, đi khắp mười phương cúng dương chư Phật, ông có thấy chăng?
A-nan đáp: Đã thấy!
- Nhân dân ở cõi nước kia có người thai sanh, ông có thấy chăng?
A-nan đáp: Đã thấy! Cung điện của người thai sanh ở, hoặc một trăm do-tuần, hoặc năm trăm do-tuần, người ở trong đó tự nhiên được hưởng thụ các niềm vui như chư thiên ở cõi trời Đao-lợi.
Đoạn trên nói vô lượng ánh sáng chiếu khắp tất cả, Cực Lạc, Ta-bà dồng một pháp giới, vốn không có đây kia thì đâu có đông tây. Núi sông đất đai đều do con mắt nhặm của chúng sanh mà thành. Nếu người nào có thể một niệm nhập cảnh giới Phật thì vô lượng ánh sáng chiếu khắp các cõi nước nhiều như số bụi nhỏ, tam đồ lục đạo đồng thời giải thoát, chứ chẳng riêng một ngài A-nan nhờ Phật gia bị được thấy thân Phật và các thứ y báo chánh báo, mà ngay cả chúng sanh thời mạt pháp hiện nay hễ vào được pháp môn này thì chẳng lìa đương niệm, mau được thấy Phật. Kinh Hoa nghiêm nói: “Chư Phật như tấm gương tròn lớn, thân ta như châu ma-ni, pháp thân chư Phật vào trong thân ta, thân ta thường vào trong thân chư Phật”. Thế nên biết chư Phật và chúng sanh xưa nay không hai, gọi là thấy Phật, thật ra không có thấy. Vì sao? Vì chẳng thể ở trong một thân mà thấy lẫn nhau. Thai sanh nghĩa là sanh trong hoa sen một thời gian dài hoa mới nở, chẳng giống như hóa sanh liền được thấy Phật nghe pháp.
32. Nghi hoặc thai sanh
Nhĩ thời Từ Thị bồ-tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Hà nhân hà duyên bỉ quốc nhân dân thai sanh, hóa sanh?
Phật cáo Từ Thị: Nhược hữu chúng sanh dĩ nghi hoặc tâm tu chư công đức dục sanh bỉ quốc, bất liễu Phật trí, bất tư nghị trí, bất khả xưng trí, đại thừa quảng trí, vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Ư thử chư trí nghi hoặc bất tín, nhiên du tín tội phước, tu tập thiện bản, nguyện sanh kỳ quốc. Thử chư chúng sanh sanh bỉ cung điện, thọ ngũ bách tuế, thường bất kiến Phật, bất văn kinh pháp, bất kiến bồ-tát, thanh văn thánh chúng, thị cố ư bỉ quốc độ vị chi thai sanh. Nhược hữu chúng sanh minh tín Phật trí nãi chí thắng trí, tác chư công đức, tín tâm hồi hướng. Thử chư chúng sanh ư thất bảo hoa trung tự nhiên hóa sanh, già phu nhi tọa; tu du chi khoảnh, thân tướng quang minh, trí huệ công đức như chư bồ-tát cụ túc thành tựu.
Phục thứ Từ Thị! Tha phương chư đại bồ-tát phát tâm dục kiến Vô Lượng Thọ Phật, cung kính cúng dường, cập chư bồ-tát, thanh văn thánh chúng. Bỉ bồ-tát đẳng mạng chung đắc sanh Vô Lượng Thọ quốc, ư thất bảo hoa trung tự nhiên hóa sanh.
Di-lặc đương tri, bỉ hóa sanh giả trí huệ thắng cố, kỳ thai sanh giả giai vô trí huệ, ư ngũ bách tuế trung thường bất kiến Phật, bất văn kinh pháp, bất kiến bồ-tát, chư thanh văn chúng, vô do cúng dường ư Phật, bất tri bồ-tát pháp thức, bất đắc tu tập công đức, đương tri thử nhân túc thế chi thời vô hữu trí huệ, nghi hoặc sở trí.
Phật cáo Di-lặc: Thí như Chuyển luân thánh vương hữu thất bảo lao ngục, chủng chủng trang nghiêm, trương thiết sàng trướng, huyền chư tăng cái. Nhược hữu chư tiểu vương tử đắc tội ư vương, triếp nội bỉ ngục trung, hệ dĩ kim tỏa, cúng dường phạn thực, y phục sàng nhục, hoa hương kỹ nhạc như Chuyển luân vương vô sở phạp thiếu. Ư ý vân hà? Thử chư vương tử ninh nhạo bỉ xứ phủ?
Đối viết: Phất dã! Đãn chủng chủng phương tiện cầu chư đại lực, dục tự miễn xuất.
Phật cáo Di-lặc: Thử chư chúng sanh diệc phục như thị, dĩ nghi hoặc Phật trí cố, sanh bỉ thất bảo cung điện, vô hữu hình phạt nãi chí nhất niệm ác sự, đãn ư ngũ bách tuế trung bất kiến tam bảo, bất đắc cúng dường, tu chư thiện bản, dĩ thử vi khổ, tuy hữu dư lạc, du bất nhạo bỉ xứ. Nhược thử chúng sanh thức kỳ bản tội, thâm tự hối trách, cầu ly bỉ xứ, tức đắc như ý, vãng nghệ Vô Lượng Thọ sở, cung kính cúng dường, diệc đắc biến chí vô số vô lượng chư dư Phật sở, tu chư công đức.
Di-lặc đương tri, kỳ hữu bồ-tát sanh nghi hoặc giả vi thất đại lợi. thị cố ưng đương minh tín chư Phật vô thượng trí huệ.
Bấy giờ bồ-tát Từ Thị bạch Phật: Thế Tôn! Do nhân duyên gì mà nhân dân ở cõi nước kia có thai sanh và hóa sanh?
Phật bảo Từ Thị: Nếu có chúng sanh dùng tâm nghi hoặc tu các công đức nguyện sanh về cõi nước kia, chẳng hiểu rõ Phật trí, Bất tư nghị trí, Bất khả xưng trí, Đại thừa quảng trí, Vô đẳng vô luân tối thượng thắng trí. Tuy nghi hoặc chẳng tin các trí này, nhưng vẫn tin tội phước, tu tập thiện căn, nguyện sanh về cõi nước kia, các chúng sanh này sanh vào cung điện của cõi nước kia, thọ năm trăm tuổi, thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe pháp, chẳng thấy thánh chúng bồ-tát, thanh văn, thế nên ở cõi nước kia gọi đó là thai sanh.
Nếu có chúng sanh hiểu rõ và tin sâu Phật trí cho đến Thắng trí, làm các công đức, tín tâm hồi hướng. các chúng sanh này tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu, ngồi kiết già trong khoảng chốc lát thành tựu đầy đủ thân tướng, quang minh, trí huệ, công đức như các bồ-tát.
Lại nữa Từ Thị! Các bồ-tát ở phương khác phát tâm muốn thấy Phật Vô Lượng Thọ, cung kính cúng dường Đức Phật và các thánh chúng bồ-tát, thanh văn thì các bồ-tát này mạng chung được sanh về cõi nước của Phật Vô Lượng Thọ, tự nhiên hóa sanh trong hoa bảy báu. Di-lặc nên biết, người hóa sanh là do trí huệ thù thắng, kẻ thai sanh là vì không có trí huệ ở trong năm trăm năm thường chẳng thấy Phật, chẳng nghe kinh pháp, chẳng thấy các chúng bồ-tát, thanh văn, không thể cúng dường Phật, chẳng biết pháp thức bồ-tát, chẳng được tu tập công đức; nên biết người này do đời trước không có trí huệ, nghi hoặc mà ra.
Phật bảo Di-lặc: Thí như Chuyển luân thánh vương có ngục thất được trang nghiêm bằng bảy thứ báu, bày biện giường màn, treo các lọng lụa. Nếu có tiểu vương tử đắc tội với vua, bị giam vào lao ngục ấy, xích bằng khóa vàng, được cung cấp thức uống ăn, y phục, giường nệm, hương hoa, kỹ nhạc không có thiếu thốn như Chuyển luân vương. Ý ông nghĩ sao? Các vương tử này có thích ở đó chăng?
Đáp rằng: Dạ không! Họ chỉ muốn tìm mọi thế lực lớn cứu họ thoát khỏi nơi giam cầm ấy.
Phật bảo Di-lặc: Các chúng sanh này cũng giống như thế, vì nghi hoặc Phật trí nên họ sanh vào cung điện bảy báu, tuy không có hinh phạt cho đến không có một niệm ác sự nhưng trong năm trăm năm, họ chăng thấy tam bảo, chẳng được cúng dường, tu các thiện căn, cho đó là khổ. Dù có nhiều điều vui khác, song vẫn chẳng thích chỗ ấy. Nếu chúng sanh này biết tội của mình, thống thiết tự trách, cầu thoát ly nơi đó thì liền được như ý, qua đến chỗ của Phật Vô Lượng Thọ, cung kính cúng dường, cũng được đến khắp vô số vô lượng các cõi Phật khác, tu các công đức. Di-lặc nên biết, nếu có bồ-tát sanh tâm nghi hoặc thì mất lợi lớn, thế nên phải hiểu rõ và tin sâu trí huệ vô thượng của chư Phật.
Đoạn trên nói phát nguyện cầu sanh cần phải hiểu rõ Phật trí cho đến Thắng trí mới được gọi là chân tín, mới được thấy Phật. Vì Nhất thiết trí chẳng rời tự tâm, vô ngã, vô ngã sở, phàm thánh nhất như cùng đồng trí này. Hoàn toàn tin tâm mình đủ Nhất thiết trí, xưa nay thành Phật, chẳng ở ngoài tâm, riêng có tâm tin Phật. Hồi hướng như vậy thì gọi là duy tâm tịnh độ, mau được thấy Phật. Nếu các trí ở tâm mình còn còn kẹt trong sự nghi ngờ thì chẳng khỏi thấy Phật ngoài tâm, tuy tu các thiện, theo nguyện vãng sanh nhưng chẳng được thấy Phật, vì chẳng khế hợp với Phật trí. Thế nên kinh Như Lai bất tư nghị cảnh giới nói: “ Tất cả chư Phật trong ba thời đều không thật có, chỉ nương tự tâm. Các bồ-tát nếu biết rõ được chư Phật và tất cả pháp đều duy tâm lượng, đắc Tùy thuận nhẫn, hoặc nhập Sơ địa xả bỏ báo thân liền sanh về thế giới Diệu Hỷ, hoặc sanh trong tịnh độ Cực Lạc”. Vậy thì, biết rõ tâm lượng, chẳng trải qua các giai vị mà thành tựu tất cả công đức.
Lại như kinh Đại bảo tích nói; Phật bảo vua Tịnh Phạn: Tất cả các pháp đều là Phật pháp, tâm không dao động, không thủ xả đối với tất cả pháp thì gọi đây là môn đà-la-ni. Vì sao? Vì tự tánh tất cả pháp ly. Đại vương! Nay Đại vương nên để tâm ngài trong pháp này, đừng tin pháp nào khác. Lúc ấy vua Tịnh Phạn và bảy nghìn người dòng họ Thich đắc Vô sanh pháp nhẫn. Thế Tôn mỉm cười nói kệ:
Trí Thích chủng quyết đinh
Thế nên tâm quyết định
An trụ nơi Phật pháp
Y vào vô sở đắc
Đắc Vô thượng bồ-đề
Biết rõ tất cả pháp
Ở cõi người mạng chung
Được sanh nước An Lạc
Gặp Phật Vô Lượng Thọ
Vô úy, thành Bồ-đề.”
Thế nên biết có trí quyết định thì mới có thể tin quyết định, có tin quyết định thì mới có thể chắc chắn vãng sanh. Đừng vì tâm nghi hoặc mà mất lợi lớn.
33. Bồ-tát vãng sanh
Di-lặc bồ-tát bạch Phật ngôn: Thế Tôn! Ư thử thế giới hữu kỷ sở bất thoái bồ-tát sanh bỉ Phật quốc?
Phật cáo Di-lặc: Ư thử thế giới lục thập thất ức bất thoái bồ-tát vãng sanh bỉ quốc. Nhất nhất bồ-tát dĩ tằng cúng dường vô số chư Phật, thứ như Di-lặc giả dã. Chư tiểu hạnh bồ-tát cập tu tập thiểu công đức giả bất khả xưng kế giai đương vãng sanh. Bất đãn ngã sát chư bồ-tát đẳng vãng sanh bỉ quốc, tha phương quốc độ diệc phục như thị.
Kỳ đệ nhất Phật danh viết Viễn Chiếu, bỉ hữu bách bát thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ nhị Phật danh viết Bảo Tạng, bỉ hữu cửu thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ tam Phật danh viết Vô Lượng Âm, bỉ hữu nhị bách nhị thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ tứ Phật danh viết Cam Lộ Vị, bỉ hữu nhị bách ngũ thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ ngũ Phật danh viết Long Thắng, bỉ hữu thập tứ ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ lục Phật danh viết Thắng Lực, bỉ hữu vạn tứ thiên bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ thất Phật danh viết Sư Tử, bỉ hữu ngũ bách bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ bát Phật danh viết Ly Cấu Quang, bỉ hữu bát thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ cửu Phật danh viết Đức Thủ, bỉ hữu lục thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ thập Phật danh viết Diệu Đức Sơn, bỉ hữu lục thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ thập nhất Phật danh viết Nhân Vương, bỉ hữu thập ức bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ thập nhị Phật danh viết Vô Thượng Hoa, bỉ hữu vô số bất khả xưng kế chư bồ-tát chúng giai bất thoái chuyển, trí huệ dũng mãnh, dĩ tằng cúng dường vô lượng chư Phật, ư thất nhật trung, tức năng nhiếp thủ bách thiên ức kiếp đại sĩ sở tu kiên cố chi pháp, tư đẳng bồ-tát giai đương vãng sanh.
Kỳ đệ thập tam Phật danh viết Vô Úy, bỉ hữu thất bách cửu thập ức đại bồ-tát chúng, chư tiểu bồ-tát cập tỳ-kheo đẳng bất khả xưng kế giai đương vãng sanh.
Bất đãn thử thập tứ Phật quốc trung chư bồ-tát đẳng đương vãng sanh dã, thập phương thế giới vô lượng Phật quốc, kỳ vãng sanh giả diệc phục như thị, thậm đa vô số, ngã đãn thuyết thập phương chư Phật danh hiệu cập bồ-tát, tỳ-kheo sanh bỉ quốc giả, trú dạ nhất kiếp thượng vị năng tận. Ngã kim vị nhữ lược thuyết chi nhĩ.
Bồ-tát Di-lặc bạch Phật: Thế Tôn! Có bao nhiêu bồ-tát bất thoái ở thế giới này sanh về cõi nước của Đức Phật Vô Lượng Thọ?
Phật bảo Di-lặc: Có sáu mươi bảy ức bồ-tát bất thoái ở thế giới này sanh về cõi nước kia. Mỗi vị bồ-tát này như bồ-tát Di-lặc đã từng cúng dường vô số chư Phật, các bồ-tát tiểu hạnh và người tu tập ít công đức không thể kể xiết đều sẽ vãng sanh. Chẳng những các bồ-tát ở cõi nước ta sanh về cõi nước kia, các bồ-tát ở cõi Phật khác cũng như vậy.
Cõi thứ nhất, Phật hiệu Viễn Chiếu, có một trăm tám mươi ức bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
Cõi thứ hai, Phật hiệu Bảo Tạng, có chín mươi ức bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
Cõi thứ ba, Phật hiệu Vô Lượng Âm, có hai trăm hai mươi ức bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
Cõi thứ tư, Phật hiệu Cam Lộ Vị, có hai trăm năm mươi ức bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
Cõi thứ năm, Phật hiệu Long Thắng, có mười bốn ức bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
Cõi thứ sáu, Phật hiệu Thắng Lực, có một vạn bốn nghìn bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
Cõi thứ bảy, Phật hiệu Sư Tử, có năm trăm bồ-tát đều sẽ vãng sanh.
Cõi thứ tám, Phật hiệu Ly Cấu Quang, có tám mươi ức bồ-tát đều sẽ vãn