Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người niệm Phật cần biết

03 Tháng Hai 201620:44(Xem: 34557)
Người niệm Phật cần biết

 

Người niệm Phật cần biết

Sa-môn Ngộ Khai thuật; Thích Nguyên Chơn dịch

Giọng đọc: Diệu Âm

 



Chúng ta thường nghe nói thế gian là biển khổ, bởi thế gian vui ít khổ nhiều. Nhưng trong chỗ vui đó, rốt cuộc cũng không tránh được khổ. Vì vậy, thế gian toàn là khổ, nên mới gọi là biển khổ. Nỗi khổ trong chốn khổ thì ai cũng biết, không cần phải nói thêm, nhưng nỗi khổ trong chỗ vui thì ít ai hay. Cho nên hôm nay tôi xin lược trình bày.

Giàu và sang là điều vui. Nhưng giàu thì có chỗ lo buồn của giàu, sang lại có chỗ lo buồn của sang. Đã có lo buồn thì đều thuộc về khổ. Những lo buồn này mỗi nhà mỗi khác, nghìn mối vạn manh, không thể kể ra cho hết. Huống gì càng giàu sang thì càng gây nhiều nghiệp ác; sự nghiệp càng to lớn thì càng dễ tạo lỗi lầm. Đã gây nghiệp ác, thì trong khoảng chớp mắt ác báo liền đến. Lúc bấy giờ thật là khốn khổ vô cùng. Như vậy há không phải là biển khổ sao?

Đã biết thế gian là biển khổ, tại sao không chịu vĩnh viễn thoát ra để được vô biên an lạc? Nếu muốn có an lạc thì cần phải tu hành. Nếu chịu tu hành, thì cần phải niệm Phật. Nếu chịu niệm Phật, thì chỉ nên niệm “Nam-mô A-di-đà Phật”. Đã niệm thì cần phải phát nguyện không mong cầu được giàu sang đời này, cũng không cầu sanh vào chỗ tốt ở đời sau. Vì sao? Vì thế gian là biển khổ, ta không cầu sanh vào chỗ tốt đẹp trong biển khổ. Chỉ cầu dù còn một hơi thở vẫn cứ niệm một câu “Nam-mô A-di-đà Phật”. Mặc cho bệnh khổ bức ép thân, vẫn cứ nhất tâm niệm Phật. Việc ăn, việc mặc, vật dụng sinh hoạt đều gác bỏ hết. Những người được nhớ nghĩ trong lòng cũng không cần nhớ nghĩ. Cho đến bản thân cũng không cần quan tâm đến, chết sống mặc kệ nó. Chỉ một câu niệm Phật mà thôi. Nếu được như thế, Đức Phật A-di-đà ở Cực Lạc phương tây lập tức phóng ánh sáng rực rỡ chiếu đến thân ông, khiến thân tâm ông mát mẻ, không mảy may ngăn ngại. Thấy ánh sáng Phật trước mắt, giống như cùng ngồi giữa thanh thiên bạch nhật. Lại tiếp tục quên thân niệm Phật đi! Lúc bấy giờ cộng với công phu tu hành chân thật tha thiết lúc bình thường, ông sẽ thấy một đóa sen bảy báu hiện đến bên thân. Lại nhìn thấy nơi xa xa những thân tướng màu vàng ròng. Đó là Đức Phật A-di-đà, bồ-tát Quán Thế Âm, bồ-tát Đại Thế Chí đến tiếp dẫn ông về tây phương.

Tôi nói như vậy, chính là khai thị pháp môn Niệm Phật. Các ông có tin được chăng? Nếu tin được thì cứ như thế mà thực hành đi! Nếu có nghi ngờ, tôi sẽ giảng nói thêm cho các ông được rõ.

Người đời, phần lớn chỉ quan tâm đến bản thân mình. Còn các Đức Phật và bồ-tát đã thành tựu trọn vẹn tự độ, quan tâm đến tất cả chúng sanh, nguyện cứu độ họ. Vì thế các ngài nói rộng đến pháp môn tu hành. Nếu chúng sanh y theo pháp ấy tu hành, nhất định đều được độ. Chúng sanh không tin Phật pháp, không chịu tu hành, tức không có duyên với Phật. Như vậy Phật cũng không thể độ người này. Nếu các ông tin sâu, tu giỏi, thì đời hiện tại có căn lành, có duyên với Phật. Bấy giờ Phật, bồ-tát sẽ giúp đỡ các ông. Đã được Phật lực trợ giúp, các ông cần phải nỗ lực, thiết tha chân thật tu hành. Như thế nhất định thành công.

Các ông tu hành mà không thành công, đều là do không tha thiết, chân thật niệm Phật. Dù niệm Phật, nhưng vẫn có niệm tham cầu thế gian, không thể nhất tâm chuyên ý một bề cầu sanh thế giới Cực Lạc phương tây.

Người niệm Phật cần phải xem việc niệm Phật là thiết thật nhất. Còn tất cả các việc như đối phó chuyện đời, lo liệu gia đình giòng họ đều là việc ngoài lề. Nhưng việc thiết thật không ngại việc ngoài lề, việc ngoài lề không ngại việc thiết thật. Như vậy sẽ đạt được đạo Niệm Phật.

Như mở mắt niệm Phật, tâm dễ loạn động, thì còn có thể nhắm mắt mà niệm. Chứ nếu hai tai nghe âm thanh thì chắc khó bít. Nếu không bít được thì phải nhờ một cách khác để bít? Đó là khi niệm phải để tâm rỗng rang vắng lặng, rồi xướng lên một câu “A-di-đà-Phật”. Miệng vừa niệm, tai liền nghe câu niệm; tai vừa nghe, miệng liền niệm. Miệng niệm, tai nghe liên tục không gián đoạn; cứ xoay vần như thế. Đây là bí quyết nhiệm mầu của pháp Niệm Phật. Cứ thực hành lâu ngày như thế, nhất định có lúc tương ưng.

Niệm sáu chữ (Nam-mô A-di-đà Phật) hay niệm bốn chữ (A-di-đà Phật) đều như nhau. Cần nhất là lúc nào cũng phải niệm, đi cũng niệm, ngồi cũng niệm. Niệm càng nhiều thì càng tốt. Một ngày, từ sáng đến tối, nếu có lúc quên, thì hết quên lại niệm; nếu bận xử lí công việc, thì xử lí xong liền niệm. Hoặc niệm ra tiếng, hoặc niệm thầm cũng như nhau. Chỉ cần chữ chữ đều từ niệm mà thiết thật rõ ràng, câu câu đều từ tâm cầu sanh Tây phương mà phát ra.

Lại có một phương pháp buộc tâm khi không niệm Phật. Đó là đặt niệm vào thân Đức Phật A-di-đà. Tức là mỗi ngày, sáng sớm thức dậy, giữ tâm vắng lặng, không suy nghĩ điều gì, ngồi mãi trên giường quán tưởng thân tướng Ngài đến khi mặt trời xuất hiện. Sau đó bước xuống giường, nhẹ nhàng chuyển ý niệm, chỉ suy nghĩ những việc tu hành. Làm như vậy có thế khai phát trí tuệ. Tâm luôn vắng lặng, không động không lay, đó là chỗ tu hànhcông hiệu nhất.

Một thời khóa của người tu niệm Phật theo thứ tự:

- Tụng một quyển kinh A-di-đà.

- Ba biến thần chú Vãng sanh.

- Niệm danh hiệu Phật A-di-đà (càng nhiều càng tốt).

- Niệm danh hiệu bồ-tát Quan Thế Âm, bồ-tát Đại Thế Chí, chúng bồ-tát trong hải hội Thanh tịnh. Mỗi danh hiệu niệm mười lần.

- Tụng bài văn hồi hướng.

- Lạy Phật A-di-đà, bồ-tát Quan Thế Âm, bồ-tát Đại Thế Chí, các bồ-tát trong hải hội Thanh tịnh. Mỗi danh hiệu ba lạy.

- Ba qui y.

Mỗi ngày hai thời sáng tối thuần nhất như vậy, không xen pháp khác. Ví như muốn tụng các bộ kinh Đại thừa, thì nên định riêng một thời khóa. Tốt nhất là vào buổi trưa, không nên xen vào hai thời chính sáng tối. Vì nếu xen thì không chuyên nhất, không chuyên thì khó thành tựu.

Các kinh Cao vương Quán Thế Âm, kinh Phân châuHương sơn quyểnPhật kệ thì không cần tụng. Vì không có trong Đại tạng, không phải là chân kinh.

Thế gian có tục lệ thắp đèn giấy chiếu sáng đến cõi U minh để soi đường cho người chết, mà không quan tâm đến đạo lí niệm Phật. Tôi khuyên mọi người nên điểm vào đồ hình niệm Phật. Khi điểm đã đầy khắp thì ghi tên, ghi số lần rồi đốt trước tượng Phật. Làm được như thế thì rất tốt, vì có ánh sáng của Phật chiếu soi, đâu cần phải dùng đèn giấy!

Người niệm Phật nên tụng làu thông kinh A-di-đà, siêng năng xem kinh Vô Lượng Thọ và kinh Quán Vô Lượng Thọ. Hằng ngày, ngoài thời khóa chính, người thực hành pháp Niệm Phật cũng nên qui định một thời gian lạy Phật. Đó là trước hình tượng Đức Phật A-di-đà, thân tâm chí thành khẩn thiết, một lòng nương tựa, cầu Phật xót thương phóng ánh sáng từ bi chiếu đến thân mình.

Xin được lược thuật cách thức lễ lạy.

Trước tiên đến trước tôn tượng Phật A-di-đà đốt hương, chí thành chắp tay, mỗi niệm xướng một câu danh hiệu, lạy một lạy. Văn xướng như sau:

Nhất tâm đảnh lễ Đức Phật hiện tại Bổn sư Thích-ca Mâu-ni Đại từ Đại bi, giáo chủ cõi Ta-bà. (9 lạy)

- Nhất tâm đảnh lễ Đức Phật A-di-đà Đại từ Đại bi Đại nguyện Đại lực, bậc Đạo sư tiếp dẫn muôn loài, giáo chủ cõi Cực Lạc phương tây. (48 lạy)

- Nhất tâm đảnh lễ đại bồ-tát Quán Thế Âm thân vàng ròng rực rỡ, trụ tại cõi Cực Lạc phương tây. (3 lạy)

- Nhất tâm đảnh lễ đại bồ-tát Đại Thế Chí thân trí sáng vô biên, trụ tại cõi Cực Lạc phương tây. (3 lạy)

- Nhất tâm đảnh lễ các đại bồ-tát trong hải hội Thanh tịnh, thân đủ phần phước trí, trụ ở cõi Cực Lạc phương tây. (3 lạy)

Lạy xong, hành giả quì gối, chắp tay, chí thành tụng bài sám hối:

Khi xưa con tạo bao nghiệp ác

Đều do ba độc tham, sân, si

Từ thân, miệng ý mà phát sinh

Nay quì trước Phật xin sám hối

Nguyện cho thân này lúc lâm chung

Trừ sạch tất cả bao tội chướng

Tận mắt thấy đức A-di-đà

Liền được vãng sanh cõi An Lạc.

Tụng xong, đứng dậy lễ ba lạy rồi lui ra.

Tôi cho rằng việc tu hành cần phải lấy việc niệm Phậtphát nguyện làm chính yếu, nhưng không thể thiếu các nhân duyên trợ đạo. Nhân duyên trợ đạocung kính Tam bảo, mong cầu ra khỏi biển khổ, nhàm chán thế gian trói buộc, hiểu rõ thiện ác báo ứngkhởi tâm sợ hãi, tâm ngay thẳng, tâm chân thật, tâm từ bi, tâm giải thoát, không sanh tâm tự cho mình là hơn. Những tâm như vậy chính là nhân duyên trợ đạo.

Đã có tâm tốt để trợ đạo, lại cần phải biết tâm xấu ác để phòng ngừa các nhân duyên chướng đạo như tâm không tin Tam bảo, tâm tự cậy mình có tu hành, tâm danh lợi, tâm tham khoái lạc thế gian, tâm sân hận, tâm ngu si, tâm vọng tưởng, tâm cầu phước báo thế gian, tâm xảo trá, tâm dối gạt, tâm tà vạy, tâm biếng trễ chần chừ, tâm không biết hối cải, tâm cho mình là phải. Có tất cả các tâm xấu như trên, thì tuy có tu hành, nhưng cũng khó vào đạo. Vì sao? Vì bị các tâm này ngăn chặn.

Lại người tu hành cần phải gần gũi bậc thầy sáng suốt, bạn đạo hiền thiện. Theo lời dạy của họ mà thực hành. Nếu không gặp thầy bạn như vậy thì một quyển kinh A-di-đà, một bài văn hồi hướng là thầy giỏi bạn tốt. Ở đây kị nhất là chọn thầy bạn sai lầm. Vì thầy bạn có thật có giả. Nên chọn thầy bạn chân thật. Vì chỉ có họ mới có thể dẫn dắt ta vào đạo, mở toang trí tuệ cho ta, giúp ta thành tựu con đường tu hành, giúp ta chấm dứt sanh tử. Vì thế mà ân của thầy giỏi bạn tốt rất lớn, còn hơn cả cha mẹ. Nếu lầm nương thầy bạn giả, họ sẽ dẫn ta đi trên con đường sai lầm, cắt đứt mảnh tâm tu hành chân chánh của ta, khiến cho ta không thành tựu mảy may. Vì thế thật giả, lợi hại cách xa như trời đất, cần phải phân biệt rõ ràng để nương tựa.

Tôi có một cách có thể nhận biết được thầy giỏi bạn tốt. Người này, khi vừa gặp, chưa hẳn đã lộ ra cho ông biết họ có một bản lãnh của một vị thầy giỏi bạn tốt. Họ cũng bình thường như bao người mà thôi. Nhưng khi luận bàn đến việc tu hành, người này nhất định sẽ căn cứ vào pháp tu của ông mà giải thích theo thứ tự, nghĩa lí rõ ràng, không cao siêu, không thấp quá. Ông nghe những lời này, liền cảm nhận được công phu hằng ngày của mình có phần khai phát, lại cũng thầm hợp với kinh điển.

Những thầy bạn giả, khi vừa gặp, ông liền thấy họ tự lộ tư cách của một thầy giỏi bạn tốt. Nhưng khi bàn đến việc tu hành, người này nhất định sẽ phá bỏ pháp tu hành hằng ngày của ông. Vì muốn cho ông thấy họ cao siêu. Ví như hằng ngày ông trì tụng kinh A-di-đà, theo lời Phật dạy niệm danh hiệu, tin sâu, nguyện thiết cầu vãng sanh Cực Lạc. Như vậy có chỗ nào không đúng, mà nhất định họ phải thay đổi, đưa ra pháp Tham thoại đầu! Có lẽ người này cao siêu hơn Phật Thích-ca chăng? Ví như người học thật có chỗ lầm lẫn, thì cũng nên tùy bệnh cho thuốc. Nếu người học thật có chỗ chưa sáng thì nên tùy cơ giảng thuyết.

Công phu niệm Phật đắc dụng lúc lâm chung. Lúc lâm chung dụng được là do lúc bình thường thực hiện thuần thục. Lúc bình thường, khi thân thể khỏe mạnh mà thực hiện công phu, thì đương nhiên sẽ tốt hơn lúc già suy. Vì thế chớ nên dần dà để rồi ngày đến thật xa xôi.

Nếu công phu của mình còn không chân thật, hiểu biết Phật pháp còn chưa rõ ràng, thì không thể dễ duôi dạy người, có ý muốn làm thầy. Tuy nói “độ mình độ người”, nhưng chỉ e mình đã lầm, lại khiến người lầm. Người tu hành tuy không tham tiếc thân thể, nhưng cũng cần phải điều dưỡng. Nhưng đến lúc già suy, chỉ nên một bề công phu nhiếp tâm tán động, không nên lo lắng cho thân. Bấy giờ, nếu bệnh nhẹ thì uống thuốc, bệnh nặng thì chờ chết. Khi bệnh quá trầm trọng, nhất định không được mong chữa lành, mà nên chuẩn bị về quê.

Lúc lâm chung hoặc khi bị bệnh nan y, thân tâm thống khổ vô cùng. Bấy giờ nên quán biết đó là do quả báo của nghiệp ác nhiều đời trước dẫn đến. Hôm nay ta nên quên thân mà niệm Phật, dù nghìn ma, vạn nạn kéo đến tâm ta vẫn không xao động.

Ở đời, không có việc gì khó, chỉ cần có chí khí, chí khí thật vững bền, thì không gì khó cả. Đi thuyền trên biển lớn, nhất định phải nhờ chèo, một ngày đi trăm dặm, tính ra cũng nhanh rồi. Nhưng nếu gặp lúc thuận gió, thì trong khoảnh khắc có thể đi mấy trăm dặm, sao mà vui sướng thế! Đó là nhờ trời trợ sức. Người cầu sanh Tây phương, nếu chỉ nhờ vào sức tự thân, dĩ nhiên là rất khó. Nếu tâm thiết tha chân thật niệm Phật, Đức Phật nhất định nhớ nghĩ bảo vệ, Phật lực nhất định trợ giúp, mà sức này rất mạnh và kì diệu hơn sức trời, nên không khó vãng sanh. Nhưng nếu nghĩ chỉ nhờ vào Phật lựcbản thân tu hành không ra gì, rốt cuộc không thành công, thì quay lại trách Phật. Nên biết hãy tự trách mình đi!

Con người gá sanh vào bào thai mẹ hoàn toàn không khó, cũng chẳng có gì kì lạ. Vì sao? Vì đó việc mọi người thường thấy. Vì thường thấy nên cho đó là thật. Nay người niệm Phật sanh về thế giới Cực Lạc phương tây, hóa thân vào hoa sen. Do chưa từng thấy nên cho là khó, là kì. Họ đâu biết việc này với việc gá sanh vào thai mẹ cũng đồng một đạo lí. Một bên do tình ái mà thành, một bên do tín nguyện mà thành.

Người niệm Phật vãng sanh tây phương, đầu tiên là thoát li biển khổ sanh tử, ra khỏi sáu đường luân hồi. Sau khi vãng sanh, tinh tấn tu hành thẳng đến thành Phật.

Một môn Niệm Phật thẳng tiến lên trên, từ đầu đến cuối không chút quanh co.

Người tu hành, phần nhiều từ chỗ khổ mà thành công. Các vị thấy những người sung sướng đâu thể tu hành. Nhưng khi đến tây phương rồi, mới thấy người khổ đau thuận tiện tu tập, người sung sướng chịu thiệt thòi hơn. Lại thấy những kẻ không tin việc tu tập, một đời khổ đau, tạo vô số nghiệp ác. Sau khi chết, thần thức đến trước Diêm vương chịu vô lượng quả báo, khổ não biết bao! Dẫu có tạo phước, chẳng qua được hưởng chút phước báo. Nếu hưởng phước báo thì không bao lâu cũng phải đến trước Diêm vương chịu tội. Vì sao? Vì những nghiệp ác đã gây tạo từ trước. Dẫu không tạo nghiệp ác đi nữa, thì cũng như thiên tiên, khi phước hết sẽ rơi vào ba đường dữ.

Người niệm Phật thiết tha chân thật, hiện đời nhờ Phật lực vãng sanh tây phương, vĩnh viễn không còn nỗi khổ luân hồi. Biển khổ và Cực Lạc xa cách biết bao! Đây chính là những điều chính đức Thích-ca Mâu-ni đã dạy. Nay tôi cung kính truyền đạt lời Phật đến mọi người. Từng chữ từng câu đều chân thật. Nếu có lời nào không thật, tôi sẽ vĩnh viễn chịu tội nơi địa ngục Kéo lưỡi.

Quyển Người niệm Phật cần biết này, tôi nói cho ưu-bà-di Đường Trinh Nữ nghe. Trong sách, tôi dùng lời văn thô thiển, là muốn cho mọi người dễ hiểu, nhưng xét đến yếu chỉ cùng tột thì không vượt ra ngoài những lời này.

Mong những lời thiển cận này dễ dàng lưu truyền ở đời. Còn chánh pháp ba thừa khó vào thì sách này xin được miễn. Hoàng cư sĩTứ Xuyên rất vui mừng khi xem đọc, vì thế quyên góp tiền tài khắc bản lưu truyền.

Tháng ba năm Kỉ Sửu, niên hiệu Đạo Quang thứ chín (1829)

Ngộ Khai kính ghi

LUẬN VỀ NIỆM PHẬT THEO NGHĨA THIỂN CẬN

Nam-mô, Trung Hoa dịch là qui y. A-di-đà, Trung Hoa dịch là Vô Lượng Thọ. Phật, Trung Hoa dịch là Giác. Vậy “nam-mô A-di-đà Phật” nghĩa là chúng sanh qui y đấng Đại Giác Tôn Vô Lượng Thọ.

Hỏi: Nhưng danh hiệu Phật thì rất nhiều, vì sao chỉ niệm A-di-đà Phật?

Đáp: Bởi đây chính là vị Phật trong tâm của chúng sanh. Thử nhìn xem, khi người đời quá vui, thì liền niệm A-di-đà Phật, khi quá khổ cũng niệm A-di-đà Phật. Một câu danh hiệu Phật này thật là ở trong chỗ bất tri bất giác, chẳng suy chẳng nghĩ, tự nhiên buộc miệng nói ra. Từ bác nông dân chất phác cho đến người đàn bà quê mùa, không ai dạy mà biết, không có học mà hay. Vì thế mới nói Phật trong tâm. Bởi chúng sanh trải qua nhiều kiếp luân hồi, mê mờ bản tánh, chư Phật bèn mở môn phương tiện đặc biệt, dạy người niệm Phật nơi chính mình. Như người nằm mộng, dùng một câu A-di-đà Phật để thức tỉnh, như quên mất một việc thì cũng dùng một câu A-di-đà Phật để nhớ lại. Một câu A-di-đà Phật đưa chúng sanh khổ đau về thế giới Cực Lạc, chuyển đời ác năm trược thành lâu đài bảy báu. Nếu niệm niệm cầu sanh Tịnh Độ, tâm tâm hồi hướng tây phương, đến lúc thuần thục, tự nhiên thành tựu công phu, lãng tử được về cố quốc, trẻ thơ lại sà vào lòng mẹ. Bấy giờ vọt thẳng ra khỏi ba cõi, vĩnh viễn chẳng còn trở lại, sống yên trong chín phẩm hoa sen đã bày biện sẵn. Như thế há chẳng vui sao?

Nhất định không nên cho là mình phước mỏng, không thể vãng sanh. Nên biết, bản nguyện của Đức Phật A-di-đà không dối người. Như ngựa vượt đầm sâu, phóng một cái liền đến bờ kia; như chim tước qua biển rộng, một lần bay liền đến đích. Nếu chần chừ chậm chạp, ắt rơi đầm sâu, biển lớn, đó là lẽ đương nhiên. Như muốn đến nơi xa, trước tiên nên chuẩn bị đầy đủ lương thực và hành trang, kế đó thuê xe cộ, cấp tốc lên đường, đi sớm đến sớm. Nếu thiếu hành trang và tư lương, lại ném bỏ xe cộ, dần dà nơi lữ điếm, người này nhất định sẽ gặp trở ngại trên đường đi. Lại thêm bệnh tật, gió mưa, nắng nóng, rét lạnh, đêm tối sa xuống đầm lầy, cất bước lạc vào rừng gai… Bây giờ có hối hận cũng không kịp.

Hôm nay niệm Phật là hành trang cho việc vãng sanh. Thuyền đại nguyện A-di-đà là thuyền từ vượt qua biển khổ. Nước Cực Lạc phương tây đã được chỉ rõ, chính là kim chỉ nam. Nếu niệm Phật mà không cầu vãng sanh tây phương, thì chỉ trồng căn lành, hưởng phước báo mà thôi. Một khi phước hết, sẽ trở lại luân hồi. Nguy hiểm thay! Đáng sợ thay!

* LUẬN THÊM MỘT BƯỚC CAO HƠN VỀ NIỆM PHẬT

Đoạn trên tôi đã luận theo nghĩa thiển cận về pháp Niệm Phật để phát khởi lòng tin, làm vững nguyện lực cho người. Nay tâm đã phát, nguyện đã bền, mà không mạnh mẽ siêng năng tu hành, thì người này đã không xem việc sanh tử là bức thiết. Sở dĩ như thế là vì chưa biết nỗi khổ luân hồi và niệm Phật giúp thoát luân hồi. Bây giờ tôi xin được bàn thêm một bước nữa.

Có câu “Tức tâm tức Phật”, “Phật tại tâm”, “Duy tâm Tịnh độ”. Hàm ý các câu này tối cao, tối thượng, tối đệ nhất. Đáng tiếc mọi người lại xem thường tùy tiện nói ra, trở thành Khẩu đầu thiền[1]. Người đời cho tâm tức quả tim bằng thịt nằm trong lồng ngực. Nhãn thức nhờ sắc mà có sự phân biệt, nhĩ thức nhờ âm thanh mà có sự phân biệt. Đây đều là thức tâm hư vọng, nếu lìa sáu trần thì không có, bốn đại phân tán thì liền tan hoại. Kinh Pháp bảo đàn ghi: “Tâm là địa, tánh là vương. Vương trụ nơi tâm địa”. Nói về thể, thì thể ấy không hình không tướng, không động không lay, không sanh không diệt. Nói về dụng, thì dụng ấy bao trùm tất cả, xuất sanh tất cả, tròn đầy và cùng khắp, vận dụng không cùng tận, đầy đủ cả chánh tà thiện ác. Hễ khởi một niệm thiện, thì lên cõi trời; động một niệm ác thì rơi địa ngục. Thế thì niệm niệm là A-di-đà, tâm tâm luôn qui hướng, mà không thành tựu hạnh nghiệp Cực Lạc tây phương hay sao?

Hằng ngày thường tích thiện, thì cõi trời cao thêm một tầng; hằng ngày luôn tạo ác thì địa ngục sâu thêm một lớp. Tịnh độ cũng y cứ vào công phu tu chứng của hành giả mà có thứ bậc cao thấp khác nhau. Cho nên đông, tây, nam, bắc đều có cõi An Dưỡng; chùa tháp, núi rừng cũng là Lạc bang. Dẫu đài vàng đến đón, thì cũng từ tự tánh hiện ra. Như trên không trung chỉ một vầng trăng, mà trong biển cả, vô số sông hồ ngòi rạch, thậm chí trong một bát nước, một chung trà cũng có bóng trăng. Có nơi, chỉ vì nước đục nên bóng trăng chẳng hiện, cũng như tâm chúng sanh nhiễm ô thì không thấy Phật vậy. Nếu được vãng sanh, gặp Phật, nghe pháp, thì vĩnh viễn thoát luân hồi.

Hỏi: Khi niệm Phật, có nhiều niệm khác xen vào thì phải làm sao?

Đáp: Các niệm ấy vốn không thật, nhưng cũng không lìa tự tánh. Trong Tâm kinh nói năm uẩn đều không, nhưng rõ ràng đang tồn tại một cái chiếu kiến “giai không”. Cái đó chính là Chủ nhân ông không tạp không loạn. Nếu nhất định cho rằng tạp niệm ngăn ngại niệm Phật, vậy ai “tri” (nhận rõ) tạp niệm ấy? Nếu đã tri niệm tức lìa niệm, lìa niệm tức Phật (giác). Phan duyên chắc chắn là không đúng rồi, nhưng chỉ diệt[2] cũng là bệnh. Mặc cho người khởi niệm của người, riêng ta cứ niệm Phật của ta. Lúc đầu thì nghiệp lực thắng Phật lực, nhưng lâu ngày Phật lực sẽ thắng nghiệp lực. Đến lúc thuần thục, mở miệng hay ngậm miệng cũng chỉ toàn là câu Phật hiệu, cho đến một tiếng sau cùng thì đột ngột dừng lại. Bấy giờ vạn niệm đều tiêu, các âm thanh đều bặt dứt, có bao nhiêu mát mẻ thì thọ dụng bấy nhiêu, chỉ trong một sát-na mà vật đổi sao dời.

Do đó, có thể nói đời người từ lúc sanh ra, lớn lên cho đến già chết, mà không thể thọ dụng được một sát-na mát mẻ an lạc này. Người sống trong cõi trần lao loạn động, chẳng biết đã đánh mất bao nhiêu là thiên chân, chôn vùi biết bao nhiêu là linh tánh, luống bỏ biết bao nhiêu là thời gian để đến nỗi phải chịu sanh tử lưu chuyển vô cùng. Nghĩ đến đây, lòng thật lo sợ, thật kinh hoàng! Muốn ra khỏi sanh tử thì chỉ có con đường này. Niệm lớn tiếng, niệm thầm, sáng niệm, chiều niệm, niệm cho đến lúc muốn buông cũng không được.

Tuy nhiên, những lời này của tôi gần như là lời luận về lìa tướng. Thuyết lìa tướng chính là luận một bước cao hơn về pháp Niệm Phật. Nếu không thể lìa tướng thì trở thành chấp tướng. Nếu nhận chỗ không ngơ đen ngòm kia, chấp thiền định như cây khô bất động kia thì sai lầm lớn.

 BÀN VỀ NIỆM PHẬT KHÔNG SÁT SANH

Người niệm Phật không câu nệ ở việc ăn chay, ăn mặn. Đây vốn là môn phương tiện mà Phật, bồ-tát vì khổ tâm cứu giúp chúng sanh mà lập bày. Nhưng người đời hiều lầm câu nói này, vội cho người niệm Phật không cần ngăn giới sát. Nhưng họ chẳng biết tội nặng nhất trong ba nghiệpsát sanh, đứng đầu trong năm giới. Nếu không ngăn cấm sát sanh, thì nhất định nghiệp quả sẽ nối tiếp, chướng ngại cho việc vãng sanh. Viên Trung lang[3] nói: “Chưa có việc hằng ngày vung đao bén mà được sanh vào cõi Thanh Thái”.

Các loài hàm linh nhỏ bé đều có Phật tánh. Do mê mờ tạo ác nên trôi nổi trong các đường. Đức Thế Tôn dùng nguyện lực từ bi, độ chúng vào Vô dư niết-bàn mà giải thoát. Như vậy chư Phật thì cứu độ chúng, con người thì giết chết chúng, đó là tâm gì? Người tin thờ Phật mà lại sát sanh, thì thật là quá điên đảo, trái nghịch. Có người cho rằng nếu vậy, để cúng tế, cung cấp thức ăn hằng ngày, đãi khách khứa thì phải làm sao? Tôi nghĩ rằng, như một người tôn phụng Phật đạo nhất định cầu mong cho tổ tiên, quyến thuộc đồng sanh vào chín phẩm hoa sen, cùng trụ một nơi với các bậc thượng thiện. Vì vậy nên cảm hóa thân quyến không sát sanh, như thế cũng là tự độ và độ người.

Kinh Lăng-nghiêm ghi: “Giết thân mạng, ăn thịt của nó, nhất định phải chịu cảnh ăn thịt báo oán nhau trải qua số kiếp như hạt bụi, không bao giờ chấm dứt”. Vì thế, loài súc sanhvô số là do quả báo của nghiệp sát quá nhiều. Loài người cũng là một trong mười hai loại chúng sanh, nhưng sao ta thì yêu quí thân mạng mình, sợ khổ đau, muốn sanh cõi Tịnh; còn vật lại phải bị trói buộc, chịu nhốt giam, cuối cùng lại đưa đến lò mổ? Lường tình xét lí, cảm thấy quá bất công. Người xưa có câu: “Trong miệng ngậm đầy mỡ thịt, đầu đao từng giọt máu rơi. Như vậy làm sao nhẫn tâm ăn nuốt, làm sao nhẫn tâm hạ thủ?”.

Xin các bạn đồng tâm chí suy nghĩ kĩ những lời này. Lại nữa, không chỉ không sát sanh mà còn phải phóng sanh, lại phát nguyện cứu độ tất cả các loài. Như vậy mới xứng đáng làm đệ tử Phật. Đến như thân mạng những loài bé nhỏ cũng phải quí tiếc, gia nhân ngu tối cũng nên bảo toàn. Nhất là những người có tâm, lại phải tùy thời quan tâm chiếu cố.

Am Bảo Tạng, núi Linh Nham, sa-môn Ngộ Khai thuật.

Đệ tử là Tịnh Đồng, từ nhiều kiếp lưu chuyển trong sanh tử, không biết bao giờ thoát khổ. Hôm nay được gặp pháp môn Niệm Phật, mới có hi vọng xa lìa.

Kính mong người người đạo tâm dõng mãnh, tín nguyện vững bền, nhất định được sanh về An Dưỡng. Lại cầu cha mẹ hiện đời, cùng tất cả quyến thuộc đồng sanh cõi Liên Hoa, đồng chứng Bồ-đề. Khẩn thiết cầu xin Đức Phật từ bi thỏa mãn nguyện này.

Am Bảo Tạng, núi Linh Nham, sa-môn Ngộ Khai thuật.

Tháng 10 năm Canh Dần (2010) - Chùa Phú Quang, Thích Nguyên Chơn dịch



[1] Khẩu đầu thiềnthiền đầu môi, chỉ nói suông mà không tu, không chứng.

[2] Chỉ diệt: hai trong bốn bệnh: tác, chỉ, nhậm, diệt khi cầu tánh viên giác.

[3] Viên Trung lang: tức Viên Hoành Đạo, tác giả bộ Tây phương hợp luận.

Ý kiến bạn đọc
05 Tháng Mười 201615:21
Khách
Do thời lượng Kinh Vô Lượng Thọ giảng giải của Pháp Sư Tịnh Không rất dài, có nhiều đồng tu không có nhiều thời gian nghe, đệ tử nay phát tâm đánh lại từ mp3 của 276 CD thành 14 quyển (đang tiến hành-chưa hoàn tất hết-sẽ cập nhật nhanh nhất trên mediafire), có 2 bản Doc & PDF cho các đồng tu tùy thích down về xem cho phù hợp cấu hình của các máy. Nếu có gì sơ sót xin các đồng tu bỏ qua cho:

Quyển 1 file document: http://www.mediafire.com/file/xuqxi5tc5hgiqhp/Giang_Giai_Phat_Thuyet_Dai_Thua_Vo_Luong_Tho-HT_Tinh_Khong_Quyen_1.doc

Quyển 1 file pdf: http://www.mediafire.com/file/o2bfqr53ad6vjrc/Giang_Giai_Phat_Thuyet_Dai_Thua_Vo_Luong_Tho-HT_Tinh_Khong_Quyen_1.pdf

Thư mục các file: (sẽ cập nhập trọn bộ khi hoàn thành trong thư mục này):

https://www.mediafire.com/folder/xuqxi5tc5hgiqhp,o2bfqr53ad6vjrc,a3d13gmvvx2eaxd,5nhggpju1rb41zu/shared
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 7245)
Minh Tâm là một yếu pháp trong hết thảy các pháp và Tịnh Tâm là một yếu hạnh trong hết thảy các hạnh. Nhưng cái yếu pháp Minh Tâm không chi bằng niệm Phật.
(Xem: 6770)
Khi tâm mình nhẹ nhàng, thảnh thơihạnh phúc thì ba nẻo đường đen tốiđịa ngục, ngạ quỷsúc sanh không thể xuất hiện.
(Xem: 6180)
Đã mấy chục năm trôi qua, sinh ra làm người giữa cuộc đời này, cho đến hôm nay, hương linh đã chính thức kết thúc cuộc đời con người,
(Xem: 5666)
Nếu bạn có bạn bè hay người thân đang lâm trọng bệnh hoặc sắp qua đời, tôi biết là không có ai bảo bạn hãy cứ thản nhiên với họ.
(Xem: 4939)
Mục đích thứ nhất của chúng ta khi tu học Phật Pháp đương nhiên là để liễu thoát sanh tử luân hồi, ra khỏi tam giới.
(Xem: 5345)
Hành giả tu học pháp môn Tịnh Độ, tất yếu đầy đủ tư lương Tịnh Độ. Những gì gọi là tư lương?
(Xem: 6655)
Bất cứ một ai khi trì tụng thần chú Đại Bi với tất cả tâm thành, chắc chắn sẽ đạt được tất cả những điều mong cầu, ước nguyện bởi vì oai lực của Thần chú là rộng khắp, vô biên...
(Xem: 5965)
Phật Pháp đến nơi nào thời cũng làm lợi ích cho chúng sanh, làm cho chúng sanh được vui vẻ và được an vui...
(Xem: 12008)
Nguyện con sắp đến lúc lâm chung, Trừ hết tất cả các chướng ngại, Tận mặt thấy Phật A Di Đà, Liền được sanh về cõi Cực lạc.
(Xem: 5749)
Tâm thức chánh niệm hay tán loạn của con người khi lâm chungyếu tố quyết định cho sự vãng sanh Tịnh độ hay đọa lạc về các cảnh giới khổ đau.
(Xem: 7053)
Người Nhật khi nghe đến Shinran Shonin (Thân Loan Thánh Nhân) họ liền hiểu ngay gần như là Giáo Tổ của Tịnh Độ Tông Nhật Bản,
(Xem: 5505)
Trong xã hội ngày nay, với nhiều biến loạn và nhiễu nhương, những người phát tâm học Phật chân chính cần phải có một nhận thức sáng suốt.
(Xem: 5890)
Do chúng sinh có nhiều bệnh, nên đức Phật mới lập ra nhiều pháp môn, nhưng tất cả giáo lý đều lấy giác ngộ làm đích đến.
(Xem: 4916)
Tu học pháp môn niệm Phật là có thể mang nghiệp vãng sanh, nhưng chúng ta cũng tận lực, hy vọng có thể mang đi ít một chút.
(Xem: 4458)
Chúng ta học được từ nơi Phật Bồ Tát là ở ngay trong cuộc sống thường ngày, nhất định phải dùng tâm chân thành, chân thì không giả, thành thì không hư vọng...
(Xem: 8247)
Thiền (hay Thiền–na) là âm của tiếng Phạn "Dhyana", là pháp môn "trực chỉ Chơn tâm, kiến tánh thành Phật".
(Xem: 6535)
Một câu A Di Đà Phật làm cho chúng ta tỉnh lại. Sau khi tỉnh rồi mới biết được chính mình vốn dĩ là A Di Đà Phật, chính mình vốn dĩ là Tỳ Lô Giá Na.
(Xem: 7402)
Tất cả chúng ta đang sống trong Ánh sáng Vô lượng (Vô lượng Quang) và Đời sống Vô lượng (Vô lượng Thọ), trong bổn nguyện của Phật A Di Đà,
(Xem: 5822)
Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.
(Xem: 5479)
Ở Trung Hoa, kinh Quán Vô Lượng Thọ đóng một vai trò quan yếu trong giai đoạn đầu tiên của sự truyền bá Tịnh độ tông hơn bất kỳ kinh văn nào khác của tông nầy.
(Xem: 6415)
Niệm Phật là một trong những pháp môn tu hành rất căn bản được Đức Thế Tôn chỉ dạy rất rõ ràng, hiện còn lưu lại trong các bản kinh cổ nhất,
(Xem: 6748)
Tịnh Độphương cách thích hợp nhất để đạt thành tựu trong một kiếp, và là cách tốt nhất để cứu độ chúng sinh.
(Xem: 7550)
Gặp được Phật pháp rất khó! Trên đời này không có pháp nào thoát ly sanh tử, chỉ có giáo pháp của Phật mới ra khỏi sinh tử luân hồi.
(Xem: 4880)
Tâm thường đế trụ, độ thế chi đạo, ư nhất thiết vạn vật, tuỳ ý tự tại, vi thứ giá loại, tác bất thỉnh chi hửu.
(Xem: 4634)
Học Phật trước tiên phải làm người tốt, xử lý tốt mối quan hệ giữa người với người rồi, tiến thêm một bước, chúng ta phải xử lý tốt mối quan hệ với môi trường tự nhiên.
(Xem: 5272)
Trong bộ kinh này, đức Phật dạy chúng ta phương pháp để cái tâm được thanh tịnh.
(Xem: 12642)
Vô Niệm Viên Thông Yếu Quyết nếu cắt nghĩa chung thì ta có thể nói là bí quyết thoát trần, bí quyết thoát vòng tục lụy, bí quyết giải thoát, bí quyết để chứng thẳng chơn tâm hay bí quyết để đi vào minh tâm kiến tánh.
(Xem: 9709)
Chúng ta tu học Phật pháp, mục tiêu đầu tiên tất nhiên phải thoát ly sinh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi.
(Xem: 10471)
xem thường chúng sinh, chính mình luôn có thái độ cống cao ngã mạn khiến cơ hội vãng sinh bất thoái thành Phật.
(Xem: 10338)
Kinh Đại Tập nói rằng: ”Thời đại mạt pháp hàng trăm triệu người tu hành, ít có một người đắc đạo, chỉ nương niệm Phật sẽ qua được biển sinh tử”.
(Xem: 9912)
Phật giáogiáo dục, đích thực là giáo dục chí thiện viên mãn của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với chúng sanh trong chín pháp giới.
(Xem: 12026)
Đức Phật dạy chúng ta niệm A Di Đà Phật, chúng ta nghe theo lời dạy của đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật mà niệm Phật cầu sanh Tịnh Độ.
(Xem: 10150)
Phật giáo Trung Quốc được lần lượt truyền từ Ấn Độ sang đến nay đã hơn hai nghìn năm và được truyền bá rộng rãi đến ngày nay.
(Xem: 10793)
Phật, chính là thực tướng các pháp, chân tướng của tất cả pháp. Nếu bạn trái với chân tướng thì chính là ma,
(Xem: 9904)
Chúng ta may mắn được nghe Phật Pháp, đương nhiên cần phải chiếu cố đến chúng sanh ở tận hư không pháp giới, nhất là những oan gia trái chủ của mình trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 8775)
Phương pháp tiêu trừ nghiệp chướng tốt nhất là đoạn ác tu thiện, tích công bồi đức, một lòng niệm Phật.
(Xem: 9505)
Người niệm Phật tu hành chẳng những được phước rất lớn, mà chính mình cũng được vãng sanh Cực Lạc.
(Xem: 14532)
Yếu chỉ của tam muội trong pháp môn niệm Phật là sự " lắng nghe" chứ không cốt niệm cho nhiều mà tâm chẳng rõ.
(Xem: 8784)
Tại sao công phu niệm Phật của mọi người không được đắc lực? Nguyên nhân là vì không nhìn thấu, không buông xả, và cũng vì chưa hiểu rõ được chân tướng của vũ trụ nhân sanh.
(Xem: 9092)
Một lòng chuyên niệm không có tâm Bồ Đề, cũng không thể vãng sanh, cho nên phát tâm Bồ Đề cùng một lòng chuyên niệm phải kết hợp lại, thì bạn quyết định được sanh Tịnh Độ.
(Xem: 9340)
Niệm Phật là một pháp môn dễ hành nhưng khó tin, nhất là trong thời đại điện toán này, thời đạicon người lo cho vật chất nhiều hơn là lo cho đời sống tâm linh.
(Xem: 8814)
"Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng.
(Xem: 10526)
Kinh Phật nói: “Tất cả sự khổ vui đều do tâm tạo”. Vậy muốn cải thiện con người, tạo hoàn cảnh tốt, phải tìm sửa đổi từ chỗ phát nguyên....
(Xem: 9202)
Chúng sinh tận hư không khắp pháp giới, chúng ta đều phải độ. Vậy chữ “độ” này có ý nghĩa gì? Nếu dùng ngôn ngữ hiện đại, thì “độ” là quan tâm, yêu quí, dốc lòng dốc sức giúp đỡ.
(Xem: 8371)
Cần chân thật phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ, thế giới Cực Lạc trong ao bảy báu liền mọc lên một nụ hoa, chính là hoa sen.
(Xem: 9420)
Chúng ta nên tu theo pháp môn niệm Phật, ai có nhân duyên về Tịnh độ trước thì lo chuẩn bị tiếp rước người đến sau. Nếu chí thành theo con đường niệm Phật Di Đà cầu sanh tịnh độ thì dứt khoát sau nầy cả gia đình, ngay cả dòng họ sẽ gặp nhau cả
(Xem: 8992)
Phật phápchân lý của vũ trụ nhân sanh, chân thật thông đạt tường tận rồi thì hoan hỉbố thí, không chút bỏn xẻn. Bố thí càng nhiều vui sướng càng cao,
(Xem: 9593)
Ta được biết là có nhiều cõi Tịnh Độ, nhiều cõi linh thánh của những Đấng Giác ngộchúng ta gọi là chư Phật. Cõi Tịnh Độ của Đức Phật Vô Lượng Quang A Di Đà thì đúng là một nơi độc nhất vô nhị.
(Xem: 9025)
Vãng sanh nhất định phải đầy đủ tín, nguyện, hạnh. Nếu như tín nguyện của bạn không kiên định, không thiết tha, thì Phật hiệu niệm nhiều bao nhiêu đi nữa cũng không thể vãng sanh.
(Xem: 8357)
Phật cho chúng ta một lợi ích vô cùng lớn vô cùng thù thắng, đó là dạy chúng ta trong một đời này được thành Phật.
(Xem: 8958)
Tâm mình thanh tịnh, tự tại, yên ổn thì đó tức là Tịnh độ. Chư Phật và chư Tổ khai huyền xiển giáo để chúng sanh trong đời này có đường hướng để đi, mà đường hướng nào cuối cùng cũng gặp nhau nơi tự tánh Di Đà, duy tâm Tịnh độ.
(Xem: 8979)
Đức Thích Ca Mâu Ni khai thị pháp môn niệm Phật tức là muốn cho hết thảy chúng sinh thâu nhiếp lục căn, khiến được tịnh niệm tương tục, xưng niệm “Nam Mô A Di Đà Phật”, niệm đến cảnh giới tâm cảnh đều vắng lặng thì Phật tánh sẽ tự hiển hiện.
(Xem: 8747)
Pháp môn Tịnh độ là một pháp môn thích đáng, khế hợp mọi căn cơ, dễ tu, dễ chứng, chư Phật trong mười phương đã dùng pháp môn này để cứu vớt hết thảy chúng sinh xa rời nẻo khổ, chứng đắc Niết bàn ngay trong một đời.
(Xem: 9375)
Pháp môn niệm Phật còn gọi là pháp môn Tịnh độ, lại được gọi là “Liên Tông”, lại được gọi là “Tịnh Tông”. Lòng từ của Đức Thích Ca Mâu Ni thật là vô hạn, Ngài quán xét căn cơ của chúng sinhcõi Ta bàban cho pháp môn tối thắng này.
(Xem: 9046)
Ái hà ngàn thước sóng xao, Muôn trùng biển khổ lấp đầu than ôi! Muốn cho khỏi kiếp luân hồi, Phải mau gấp niệm Nam mô Di Đà.
(Xem: 8786)
Pháp môn niệm Phật để cầu sanh về Tịnh độ (Cực lạc), thì phải hiểu biết lịch sử của đức Phật A Di Đà thế nào, và 48 lời nguyện ra sao.
(Xem: 4091)
Ngày nay, nhiều người niệm Phật A Di Đà để cầu vãng sinh Tây phương Cực Lạc. Điều này phù hợp với đại nguyện của đức Phật A Di Đà cứu độ chúng sinh về cõi Tịnh độ của Ngài để tiếp tục tu hành tới ngày thành Phật.
(Xem: 9053)
Kinh Dược Sư Lưu Ly bổn nguyện công đức dạy rằng: “Cứu thả các sinh mạng được tiêu trừ bệnh tật, thoát khỏi các tai nạn.” Người phóng sinh tu phước, cứu giúp muôn loài thoát khỏi khổ ách thì bản thân không gặp các tai nạn.
(Xem: 9883)
Phật pháp dạy mọi người lìa khổ được vui, điều này ai cũng đều biết. Nếu như Phật pháp dạy mọi người lìa vui được khổ thì có lẽ không có ai học.
(Xem: 8649)
Tinh thần của Phật pháp là nhằm xét đoán chính mình, chứ không xét đoán người khác, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ Tát, những gì người khác làm đều đúng đắn, đều chính xác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant