Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

I. Thế nào là giáo ngoại biệt truyền?

19 Tháng Tư 201100:00(Xem: 13795)
I. Thế nào là giáo ngoại biệt truyền?

Một Sức Sống Chân Thật Giữa Thế Gian
THIỀN TÔNG ĐỐN NGỘ
Thích Thông Phương
Hội Thiền Học Việt Nam PL. 2547 - DL. 2003

Ý CHỈ GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN


Trỏ tay vô tận hư không nát
Đưa mắt hằng sa cõi biệt tăm


I. THẾ NÀO LÀ GIÁO NGOẠI BIỆT TRUYỀN?

Nói ‘Giáo ngoại biệt truyền’ tức truyền riêng ngoài giáo, vậy có một pháp thật ngòai kinh giáo để truyền không? Đây là điểm cần thấu rõ, không thì dễ đưa đến hiểu lầm.

Rồi trở thành hiểu méo mó lệch lạc rất nguy hiểm. Bởi thiền tông vốn đề cao ‘giáo ngọai biệt truyền’ nên có lúc bị hiểu lầm là quái thai của Phật giáo, là sản phẩm của Trung Hoa, do các thiền sư Trung Hoa mới tạo ra sau này. Song nếu hòan tòan như thế thì đó là pháp tạo tác, là cái mới có, thời Phật không có. Thế là nó thuộc về pháp sinh diệt, có gì đặc biệt?

Hơn nữa, nói truyền riêng ngoài kinh giáo, rồi cho rằng có một cái gì đó đặc biệt để truyền riêng thì chính cái thấy đó đã đi quá xa với Thiền tông. Vì đó là thấy ngòai tâm có pháp, và tưởng là có trao có nhận, tức đã bị lừa gạt. Đồng thời, có cái thấy đó là có tâm lấy bỏ. Bỏ kinh lấy thiền, vẫn y nguyên rơi vào trong đối đãi, đâu thể đạt ý Tổ. Đây chính là ý nghĩa sâu xa, người đứng ngòai cửa Tổ không dễ gì lý luận đến được.

Thực ra, nói ‘ngòai giáo’, nói ‘truyền riêng’ nhưng ý đó đã nằm sẵn trong kinh, không phải là cái mới đặt ra. Chẳng qua vì người dùng tâm suy nghĩ khó nhận thấy, kẻ dùng thức tâm phân biệt khó khám phá.

Dẫn Kinh để chứng minh :

Kinh Kim cang : Phần mở đầu: Tôi nghe như vầy: một thuở nọ, Phật ở vườn Cấp Cô Độc, rừng Kỳ Đà thuộc nước xá Vệ, cùng chung với 1250 Đại Tỳ kheo. Bấy giờ đến giờ ăn, Thế Tôn đắp y, ôm bát đi vào thành xá vệ khất thực. Trong thành đó theo thứ lớp khất thực rồi, ngài trở về chỗ mình, thọ thực xong, thu xếp y bát, rửa chân và trải tòa mà ngồi. Lúc đó Truởng lão Tu Bồ Đề ở trong đại chúng, liền từ chỗ ngồi đứng dậy, trích áo vai phải, chấp tay cung kính bạch Phật: Bạch Thế Tôn! Thật hiếm có, Như Lai khéo hộ niệm các vị Bồ tát, khéo phó chúc các vị Bồ tát.

Qua đọan kinh này, chúng ta thấy có gì lạ? Chính ‘ý giáo ngọai’ đã nằm sẵn trong đó mà mấy ai thấy được. Rõ ràng trong đó, Phật chưa nói câu nào, ngài chỉ đi khất thực về thọ trai rồi xếp y bát … chưa từng mở miệng. Vậy Trưởng lão Tu Bồ Đề tán thán ‘thật hiếm có …’ là hiếm ở chỗ nào? Hộ niệm phó chúc cái gì? Trưởng lão đã thấy gì mà tán thán như thế. Đây là chỗ rất sâu kín, nên trưởng lão nói ‘KHÉO’, tức không thể hời hợt mà thấy được.

Bởi Như Lai là bậc đã chứng Vô thượng chánh đẳng chánh giác, tức lúc nào ngài cũng sống trong ánh sáng chánh giác không gián đoạn, không thiếu vắng. Nếu có gián đọan thiếu vắng thì không thể gọi là Như Lai. Vậy thì ngay nơi chỗ Thế Tôn đi khất thực, thọ trai v.v… hẳn áng sáng Như Lai hay Kim Cang Bát nhã vẫn ngầm hiển lộ trong đó. Nghĩa là trong nhật dụng của Thế Tôn, ánh sáng Như Lai luôn sáng ngời. Chính đây là chỗ Như Lai thầm hộ niệm, thầm phó chúc cho các Bồ tát. Tức Bồ tát phải luôn nhớ trong ánh sáng đó không để cho gián đọan. Phật pháp còn mãi ở thế gian cũng chính từ đó. Sức sống chân thật của Phật đạo, gốc cũng ở chỗ này. Song chỗ này ngôn ngữ làm sao nói hết được, hai tròng mắt này làm sao nhìn thấu đến được. Trưởng lão Tu Bồ Đề thầm nhận được chỗ này nên mới khen là ‘hiếm có’.

Hơn nữa, Phật cũng chưa nói ra lời nào thì nó nằm ở kinh nào? Ở giáo nào? Không phải ý giáo ngoại đã nằm sẵn trong đó hay sao, còn nghi ngờ gì nữa.

Kinh Tạp A Hàm II, bài kinh 404 : Đức Phật khi ở tại nhà Phước Đức, nơi rừng trúc thành Vương Xá, nước Ma kiệt đà, ngài ở đêm tại đây. Rồi thế Tôn bảo các Tỳ kheo :

- Các thầy nên cùng ta đến rừng Thân Thứ.

Thế Tônđại chúng đến rừng Thân Thứ, ngồi dưới gốc cây, lúc đó ngài nắm một nắm lá trong tay, đưa lên hỏi các thầy Tỷ kheo:

- Lá cây trong tay nhiều hay lá cây trong rừng nhiều?

Các thầy Tỳ kheo bạch Phật:

- Bạch Thế Tôn lá cây trong tay rất ít, lá cây trong rừng nhiều gấp trăm ngàn muôn ức lần tính toán thí dụ cũng không thể so sánh.

Phật bảo :

- Này các Tỳ kheo! Ta thành đẳng chánh giác, những pháp do ta tự thấy rồi vì người giảng nói chỉ ít như lá trong nắm tay. Vì sao? Vì pháp ấy có ích lợi về nghĩa, về pháp, về phạm hạnhminh tuệ chánh giác, thẳng đến niết bàn.

Cũng vậy, chánh pháp ta tự tri khi ta thành Đẳng chánh giác mà ta không nói ra, cũng giống như lá trong rừng cây. Vì sao? Vì pháp ấy không có lợi ích về nghĩa, về pháp, về phạm hạnhminh tuệ chánh giác, thẳng đến niết bàn.

Thế nên các Tỳ kheo đối với Tứ thánh đế chưa được hiện quán thì nên siêng năng phương tiện, khởi ý muốn tăng thượng, tu học hiện quán.

Đây là bài kinh thuộc hệ Nguyên thủy. Đọc kỹ, bài kinh cho ta thấy điều gì? Rõ Ràng Phật đã nói: Kinh điền nói ra chỉ như nắm lá trong tay. Tất cả kinh điển ghi chép lại cũng chỉ là nắm lá trong tay. Còn cả rừng lá kia thì không thể ghi chép. Điều đó Phật nói ‘Phật chưa nói’. Vậy chúng ta hài lòng với nắm lá trong tay đó sao? Dù chúng ta có học hết kinh điển thì cũng chỉ là học nắm lá trong tay. Vậy Phật muốn nói điều gì? Phật muôn nhắc chúng ta phải học suốt qua kinh điển giáo nghĩa, phải thực hiện một cái nhảy nhảy qua khuôn khổ chết đó mới có thể hiểu hết ý ngài. Đây chính là ‘ý truyền riêng ngòai giáo’. Nó đã nằm sẵn trong kinh từ buổi đầu. Chính miệng Phật đã xác nhận điều đó.

Kinh Tương Ưng Bộ, bài kinh ‘Có pháp môn nào’ : Ở đây này các tì kheo! Các Tỳ kheo khi mắt thấy sắc hoặc nội tâm ta có tham sân si, biết rõ nội tâm ta có tham sân si. Hoặc nội tâm không có tham sân si, biết rõ nội tâm ta không có tham sân si … (với các căn còn lại cũng như vậy)

Này các tì kheo! Biết rõ chúng có mặt hay không có mặt trong tâm của vị ấy. Có phải chúng là những pháp do lòng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp mà được hiểu biết, hay do kham nhẫn mà được hiểu biết, hay do thích thú biện luận mà được hiểu biết?

- Thưa không, bạch Thế Tôn!

- Có phải các pháp này do thấy chứng với trí tuệ nên được hiểu biết?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn!

- Này các Tì kheo! Đây chính là pháp môn, do pháp môn này, ngoài lòng tin, ngòai ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngòai kham nhẫn thích thú, biện luận, có thể xác chứng với chánh tri, vị ấy biết rõ sanh tử đã tận, việc làm đã xong… Không còn sanh lại đời nào khác nữa.

Như vậy ở đọan kinh này Phật cũng xác định : Cái biết, biết trong tâm mình có tham sân si hay không tham sân si v.v… cái biết đó không thuộc suy tư biện luận v.v… chỉ có thể xác chứng với chánh tri. Vậy cái biết đó nằm trong bộ kinh nào. Sách vỡ nào ghi chéo được cái biết này? Nhưng nó có hay không? Phật đã xác nhận Có thể xác chứng với chánh tri., tức mở sáng mắt đạo liền thấy rõ, chớ không phải là điều mơ hồ hay chỉ có trên lý thuyết.

Giờ đây, nếu sáng tạo một chút thì nói : Có vọng biết có vọng, không vọng biết không vọng. Hoặc, có niệm biết có niệm, không niệm biết không niệm. Cái biết có niệm không niệm đó là gì? Đâu phải cứ khư khư cố định ở cái tên tham sân si. Chủ yếu là ở cái biết. Nếu chấp cứng nơi cái tên tham sân si thì cũng chết trên nắm lá trong tay, làm sao có thể cảm nhận được đám lá trong rừng?

Đến trong nhà thiền: ý này càng được ứng dụng linh diệu tuyệt vời. Chính từ đó, Thiền tông có một nét đặc thù nổi bật, có sức sống vươn lên, không theo dấu mòn lối cũ, không kẹt trong hình thức khuôn mẫu chết.

Tướng Bùi Hưu trở hình vẽ cao tăng trên vách hỏi Hoàng Bá :

- Hình ở đây còn cao tăng ở đâu?

Hoàng bá gọi : - Bùi Hưu!

Bùi Hưu ứng : - Dạ.

Hòang Bá bảo : Ở đâu?

Ngay lúc đó Bùi Hưu liền nhận ra cao tăng sống. Ban đầu, cứ đuổi theo hình vẽ bên ngòai, nên mong muốn tìm thấy chỗ chỉ. Qua tiếng gọi ‘dạ’, Hoàng Bá đánh thẳng vào cái thực tại đang hiện hữu bằng cách nhấn mạnh ‘Ở đâu?’ Liền đó cao tăng lộ bày sờ sờ. Vậy cái BIẾT ‘dạ’ đó nằm ở bộ kinh nào? Máy móc tiếng bộ bao nhiêu cũng chỉ có thể ghi được tiếng dạ, không thể ghi được cái biết. Đó là ‘truyền riêng ngòai giáo’.

Mã Tổ cùng Hoài Hải dạo núi thấy bầy le le bay trên trời. Mã Tổ lấy tay trỏ bầy le le hỏi:

- Là cái gì ?

- Bầy le le

Đợi bầy le le bay qua, Mã Tổ hỏi tiếp:

- Bay đi đâu?

Hoài Hải thưa:

- Bay qua mất rồi

Mã Tổ thuận tay nhéo mạnh lỗ mũi Hoài Hải. Sư đau quá la lên, Mã Tổ nói:

- Sao không nói bay quá mất đi!

Hoài Hải liền đại ngộ ‘vốn chẳng mất đi đâu’. Cái BIẾT KÊU ĐAU đó nằm ở bộ kinh nào? Chính nơi đó, Hoài Hải nhận được: Tánh chân thật vốn sẵn nơi mình từ thưở nào. Truyền ngoài kinh giáo là đó. Chính đó mới là sức sống chân thật, đó là nguồn sáng vĩnh viễn không bao giờ mất. Ở đây, thiền sư không lý luận dài dòng, không giải thích danh từ loanh quanh mà muốn khơi dậy cái thực tại đang sống sáng ngời, nhưng người người tự bỏ quên. Vì bỏ quên cái này mà đi vào sáu trần, trôi trong sanh tử, lang thang khấp nẻo luân hồi, càng đi càng xa. Giờ đây nhớ lại là xong. Chỗ này moi móc trong chữ nghĩa làm gì có ?

Tổ Lâm Tế từng bảo: «Người học thời nay không nhận được, là bởi bám vào chữ nghĩa làm hiểu biết, ghi chép những lời của mấy lão già vào một cuốn sổ to, bọc kỹ lại năm ba lớp không cho người khác thấy, nói đó là huyền chỉ, giữ như làm của quý. Bọn mù! Các ông nhằm trên khúc xương khô tìm sao ra nước?» Đó là tổ Lâm Tế đánh mạnh vào những đầu óc học đạo quen sống trong khuôn khổ chết, hoặc giam mình trong đống chữ nghĩa cũ mòn mà quên mất ‘người đang phóng quang nhìn đây’. Chính người này đang soi sáng cả đống chữ nghĩa kia mà ít ai nhớ đến. Thấy lại chỗ này mới thấy nguồn sống chân thật. Chúng ta học Phật là phải học cái sống đó. Thiền nhấn mạnh «truyền riêng ngoài kinh giáo », là nhằm đánh thức người trở về với sức sống này. Vì vậy nói truyền riêng mà sự thật không có cái gì khác để truyền, chỉ là nhắc người nhớ lạ sức sống sẵn có nơi chính mình, thôi chạy tìm kiếm bên ngoài. Phật Thích Ca thành đạo khi sao mai mọc, là thành đạo trong chỗ này, không phải ở đâu khác. Tam tạng giáo điển cũng từ trong sức sống này mà tuôn ra. Chúng ta hãy lắng nghe đoạn nhân duyên này sẽ thấy rõ :

Một hôm thiền sư Hành Tư hỏi Hy Thiên :

- Có người nói Lãnh Nam có tin tức.

Hy Thiên thưa :

- Có người chẳng nói Lãnh Nam có tin tức.

Thiền sư Hành Tư hỏi :

- Nếu thế ấy thì Đại Tạng, Tiểu Tạng từ đâu mà ra ?

Hy Thiên thưa :

- Thảy từ trong ấy mà ra.

Thiền sư Hành tư gật đầu.

Lãnh Nam là chỗ Lục Tổ. ‘Có tin tức’ là có việc lớn ấy. Đây là gạn xem Hy Thiện còn kẹt vào hiểu bên ngoài không. Sư đã thấy rõ nên đáp: “Có người chẳng nói Lãnh Nam có tin tức”, là ngầm tự nhận nơi mình, chẳng kẹt nơi người. Thiền sư Hạnh Tư lại gạn thêm: “Vậy thì Tam tạng của Đại thừa, Tam Tạng của Tiểu Thừa từ đâu mà ra?” Không nhận tin tức tức từ bên ngoài thì tam tạng kinh điên từ đâu ra, bỏ hết hay sao? Sư đã nhận rõ đâu còn lầm nữa nên đáp ngay: “Thảy từ trong ấy mà ra”, không thể tìm nơi nào khác. Nếu rời trong ấy mà có là thuộc văn tự chữ nghĩa, thuộc suy lý tưởng tượng không phải thật. Người học Phật nên nhớ rõ điểm này.

Đạt ý quên lời : Với ý nghĩa “giáo ngoại biệt truyền” đó, Thiền nhấn mạnh người học phải “Đạt ý quên lời”, không thể bám chết trên ngôn ngữ. Tại sao? Vì ngôn ngữ luôn có giới hạn và dẫn khởi tâm thức đi vào con đường suy nghĩ đối đãi. Nhất là nó lừa con người vào cuộc sống khái niệm, quay lưng với thực tại hiện tiền. Do đó người tham thiền phải thấu qua ngôn ngữ, nghe nói ở đây, phải thấy ý ở kia. Câu chuyện Viên Ngộ tỏ ngộ nói lên ý nghĩa này rất rõ.

tham thiền với hòa thượng Pháp Diễn thời gian lâu mà không tỏ ngộ. Một hôm sư hầu thầy rồi có việc đi ra ngoài, lúc đó quan đề hình đến thăm ngài Pháp Diễn. Hai bên luận đạo, Pháp Diễn hỏi:

- Đề Hình lúc trẻ có đọc thơ Tiểu Diễm chăng?

Trong đó có 2 câu:

Tần hô Tiểu Ngọc nguyên vô sự,

Chỉ yếu đàn lang nhận đắc thinh

Dịch:

Luôn kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc

Chỉ cốt anh chàng nhận được tiếng

Vừa lúctrở về hầu thầy. Chợt nghe chuyện liền hỏi:

- Nghe hòa thượng nhắc lại thơ Tiêu Diễm, Đề Hình có lãnh hội chăng?

Pháp Diễn bảo:

- Ông ấy chỉ nhận được tiếng.

Sư thưa:

- “Chỉ cốt anh chàng nhận được tiếng”, vậy ông đã nhận tiếng, vì sao lại chẳng phải?

Pháp Diễn bảo:

- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang? – Cây bách trước sân ấy!

Viên Ngộ chợt tỉnh ngộ.

Ai thấy Viên Ngộ đã ngộ gì? Giờ tóm lại câu truyện trên :

Cô tiểu thư có tình ý với anh chàng ở gần nhà. Vào một chiều tối, anh chàng lân la tới bên nhà cô tiểu thư, ý muốn dò tìm phòng cô ở chỗ nào mà không biết. Cô tiểu thư ở trên gác nhìn xuống thấy, không biết làm sao cho anh chàng biết phòng mình ở phía này. Chợt cô nghĩ ra một kế, cô gọi đứa hầu gái tên Tiểu Ngọc:

- Tiểu Ngọc! Tiểu Ngọc! Hãy mang bình trà lại phòng này cho cô!

Tức thì anh chàng ở dưới kia nghe thấy liền biết ngay phòng cô ở.

Như vậy, cô gọi Tiểu Ngọc nhưng thật ra không có việc gì, mà cốt là muốn cho anh chàng ở dưới kia nhận ra được tiếng của mình thôi. Nên nói: “Luôn kêu Tiểu Ngọc nguyên không việc. Chỉ cốt anh chàng nhận được tiếng”. Thiền sư dẫn ra để ngầm chỉ nhà thiền cũng như vậy, nói ở đây mà ý ở kia, người nhận phải khéo nhận được cái ý vượt ngoài lời nói đó.

Hỏi: - Thế nào là ý tổ sư từ Ấn độ sang?

Đáp: - Cây bách trước sân.

Tuy nhiên như bám vào cây bách để hiểu là lầm qua mất.

Có một vị tăng hỏi thiền sư Hành Tư ở Thanh Nguyên :

- Thế nào là đại ý Phật pháp?

Sư đáp :

- Gạo ở Lô Lăng giá bao nhiêu?

Hỏi “ Đại ý Phật pháp” thì không trả lời thế nào, lại đi hỏi ngược lại hỏi “giá gạo ở Lô Lăng bao nhiêu thì giống như lạc đề. Người ngoài cuộc nghe đến đây không làm sao hiểu nổi. Bởi thiền không phải nói để hiểu mà nhằm đánh thức cho người sống dậy trong chỗ không hiểu. Nếu cứ theo lời sanh hiểu, lo suy tìm giá gạo là chết trong chỗ mắc rẻ, bị ngôn ngữ lừa một cách đáng thương. Người khéo, là người ngay đó dừng niệm phân biệt hai bên, bặt chỗ nghĩ ngợi đây kia, liền tự rõ đại ý Phật pháp đang hiện tiền sáng rỡ.

Vua Trần Nhân Tộng đã thầm hiểu ý này nên đã nói trong bài phú Cư Trần Lạc Đạo: “Chợ Lư Lăng gạo mắc quá ư? Chẳng cho mặc cả”. Nghĩa là ngay đó nhận thì nhận liền, không nhận thì qua mất, không thể trả giá tới lui. Vì vậy, hỏi giá gạo mà ý không ở giá gạo. Người có con mắt thiền tự nhận ra ngay không qua giải thích.

Có vị tăng hỏi hòa thượng Tào Cơ

- Vật gì là quý nhất trên đời?

Sư đáp:

- Cái đầu con mèo chết.

Tăng hỏi:

- Đầu con mèo chết vì sao lại quý?

Sư Đáp:

- Vì không ai trả giá.

Nếu cứ theo thường tình, chỉ lo suy nghĩ xem cái đầu con mèo chết vì sao lại quý, thì suy nghĩa muôn kiếp cũng không ra. Đâu ngờ ý sư không phải ở cái đầu con mèo chết, mà ở chỗ “ không ai trả giá”. Có trả giá tức có mắc rẻ, là rơi vào ý niệm đối đãi sanh diệt, đó là sự tầm thường của thế gian. Trái lại, chính chỗ “ không ai trả giá”, tức bặt ý niệm đối đãi, tình thức phân biệt không thể biết tới, đó mới là chỗ quý nhất trên đời, là chỗ sáng của thiền. Bởi vậy, nói ở đây mà phải thấy ý ở kia, người học thiền phải bén nhạy thấy suốt qua lời nói.

Có một vị tăng hỏi thiền sư Hiểu Thông ở Động Sơn:

- Nghe nói bậc đại thánh ở Thất Châu gần đây xuất hiệnDương Châu. Đã là bậc đại thánh ở Thất Châu, vì sao lại xuất hiệnDương Châu

Sư đáp:

- Quân tứ mến của lấy đó làm đạo.

Am chủ Liên hoa Phong nghe được, thắp nhan bảo:

- Con cháu Vân Môn vẫn còn.

Tại sao chỉ nghe một câu nói như vậy mà am chủ Liên Hoa Phong cảm biết được chỗ thấy siêu xuất của ngài, nên ngầm khen ngợi như thế. Trong đây nếu cứ theo chữ “của” mà hiểu hay suy nghĩ thì càng nghĩ lại càng rối. Bậc quân tử sao lại quý của cải mà nói lấy của làm đạo? Không ngờ điều quan trọng là, cốt thấy “người quân tử” là xong. Đã thấy người quân tử thì dùng cái gì cũng là người quân tử. Cũng vậy, cốt thấy bậc đại thánh thì xuất hiện ở đâu cũng được, cũng là đại thánh, có gì quan trọng? Cứ lo thắc mắc chỗ nơi mà quên mất bậc “đại thánh” mới là chính yếu. Học thiền phải nhận thấy ý ngoài lời là vậy.

Có vị tăng hỏi ngài Vân Môn:

- Thế nào là Phật?

Vân Môn đáp:

- Que cứt khô.

Có người bàn: Thiền sư nói sao thô tục quá! Nhưng xét lại xem, là Thiền sư nói thô tục hay chính ý mình nghĩ thô tục? Đây gọi là đem phàm tình mà đo ý thánh, ý thánh cũng thành phàm. Đâu biết rằng, ngài Vân Môn ngay lúc đó, hỏi xong là đáp liền, nào có nghĩ là thô là tế. Chính câu đáp rất sáng tỏ: Hỏi Phật là thanh tịnh. Đáp que cứt khô là nhơ nhớp, tức khiến người ngay đó bặt niệm nhơ sạch thì chính là Phật chứ gì? Còn nghe que cứt khô hiểu là que cứt khô, trong đầu liền nghĩ dơ sạch, tức bị ngôn ngữ chuyển, rơi vào tình phàm, thành ra ngay trước mặt mà lầm qua.

Qua đó, cho thấy thiền là phải thể nghiệm ngay chính mình, không thể lý luận, bàn bạc trên ngôn từ, phân tích trên chữ nghĩa. Do đó thiền luôn luôn có một sức sống sáng tạo, không thể bắt chước theo lối mòn.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19905)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33489)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34606)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54596)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37833)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17950)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63767)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17443)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49759)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16425)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14521)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57086)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13892)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29069)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33376)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31286)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13945)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14657)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13856)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12706)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30474)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11877)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30753)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29457)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30670)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31283)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37174)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32324)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23744)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12257)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34028)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27777)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12480)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28701)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29426)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12464)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29287)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28091)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25732)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26089)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22321)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33207)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31853)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39638)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22506)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34541)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant