THIỀN
TRONG ÐỜI THƯỜNG
Thích
Thông Huệ
Chương
6
KHỐI NGHI VÀ
THUẬT KHAI TÂM
II-
Ý NGHĨA VÀ MỤC ÐÍCH:
1-Từ
đa niệm đưa về nhất niệm:
Trạng
thái của tâm thức như một dòng thác, như vượn chuyền cành,
không lúc nào dừng nghỉ; lại còn bị kích thích bởi trí
nhớ, sự tưởng tượng và hoạt động một cách thầm kín,
nên con người luôn bị quay cuồng trong đa niệm. Cả những
khi lạy Phật tụng kinh, tuy miệng đọc thân lạy mà nhiều
lúc ta vẫn nghĩ lan man chuyện nầy chuyện khác. Chính do tâm
lăng xăng suy nghĩ mà tạo nghiệp thiện ác, động cơ của
guồng máy luân hồi.
Tuy
nhiên, con người cũng có khả năng tập trung vào một vấn
đề, một nghi vấn. Khi ấy, những việc khác bị gác qua một
bên. Các nhà nghiên cứu, khi toàn tâm toàn ý suy nghĩ về một
đề tài khoa học, thường quên hết chuyện xung quanh. Ðây
là nguyên nhân của sự đãng trí, tạo ra nhiều giai thoại.
Chính nhờ sự tập trung nên trí óc sáng ra, con người có
thể tự mình giải quyết vấn đề, như ánh sáng mặt trời
đi qua thấu kính hội tụ có thể đốt cháy mảnh giấy để
dưới thấu kính. Có điều, vì do tập khí và vì không có
công phu tập luyện, nên con người chỉ chuyên chú trong một
thời gian nào đó, rồi vọng niệm cũng trở lại lẫy lừng.
Nhà
Phật có nhiều phương pháp giúp tâm hành giả từ đa niệm
trở về nhất niệm. Người tu Tịnh Ðộ niệm Lục tự Di-Ðà,
Mật tông dạy trì chú, Thiền Nguyên thuỷ có Tứ Niệm Xứ,
Thiền Phát triển có Lục diệu pháp môn... Những phương tiện
ấy đều nhằm đưa hành giả đạt định. Pháp tham công án
của Thiền tông cũng vậy. Có thể vị thầy cho ta một công
án, hoặc ta tự chọn một vấn đề khó hiểu trong kinh sách,
thường là những nghi vấn trọng đại, như công án “Vô”
của Ngài Triệu Châu hay “Tiếng vỗ một bàn tay” của Ngài
Bạch Ẩn, hoặc các câu hỏi “Thế nào là ý Tổ sư từ
Ấn Ðộ sang ?”, “Ðại ý Phật pháp là gì?”... Khi đến
tham vấn, thường vị thầy không giải thích mà còn dùng nhiều
thủ thuật vun bồi mối nghi thêm lớn mạnh, khiến ý thức
không còn chỗ bám víu, bặt đường lý luận suy tư. Một
Thiền sư dạy: “Vọng tưởng khởi lên, làm nó lặng đi;
vọmg tưởng lặng, làm nó không khởi lên nữa. Ðược vậy
thì chẳng nhọc công mười năm hành khước”. Ở đây, hành
giả không loại trừ vọng tưởng bằng cách đè nén, vì muốn
trừ dẹp vọng, sẽ có niệm hướng đến chỗ không vọng
tức sa vào sở đắc, lại là một loại vọng tưởng vi tế.
Hơn nữa, nếu sợ động và ưa thích trạng thái bất động,
hành giả vẫn còn ý niệm phân biệt hai bên. Hành giả phải
ôm mối nghi trong thao thức triền miên, một bề chuyên tâm
vào mối nghi thì vọng tưởng tự nhiên lặng. Nhờ kề cận
bên thầy, vị thầy có cách giúp môn đệ công phu một cách
dũng mãnh và vững chãi. Mối nghi dần dần ung đúc thành khối,
nghi niệm trở thành nghi tình, nghi đoàn, tức từ đa niệm
trở về nhất niệm.
Một
điều quan trọng khi tham công án, hành giả không phải để
tâm suy luận lý giải, tìm hiểu ý nghĩa của công án, vì
đó là hành vi của ý thức. Ví như đối với công án Vô,
hành giả không suy nghĩ “Vô là không, không là Tánh Không
chứ chẳng phải không ngơ”..., vì như thế một lúc sau sẽ
sa vào mớ bòng bong của ý niệm. Hành giả phải đề khởi
“Vô” như thế nào để nó gắn chặt, đóng chặt vào tâm,
không một phút giây ngừng nghỉ, không một kẻ hở cho niệm
khác len vào. Một Thiền sư đã ví người tham công án giống
như rơi xuống giếng sâu, chỉ nghĩ một việc duy nhất là
làm cách nào ra khỏi giếng. Thiền sư Viên Ngộ trước tác
Bích Nham Lục với văn chương siêu xuất, biện biệt tuyệt
luân; nhưng người sau chỉ đọc tụng ngôn cú, bàn huyền
nói diệu, nên Ngài Ðại Huệ mang những bản khắc gỗ đốt
hết, chấm dứt lưu truyền tác phẩm nầy đến 200 năm. Cả
hai vị Thiền sư đều có tâm lão bà, vì người mà giảng
giải, cũng vì người mà đốt bỏ.
Thiền
sư Bạch Ẩn Huệ Hạc bắt đầu tham công án Vô năm 22 tuổi.
Suốt ba năm trường, Ngài vật lộn với chữ Vô, quên hết
mọi chuyện xung quanh. Ngài đã diễn tả quá trình công phu
của mình, từ lúc bắt đầu được trao công án đến khi
thành khối nghi : “Tôi tham chữ Vô cả ngày lẫn đêm, không
giây phút nào xao lãng, chỉ chăm lo sao cho được thanh tịnh
và kết mối nghi thành khối. Năm được 24 tuổi, một mình
tôi vật lộn trong đau đớn, quên cả ăn ngủ. Bỗng nhiên,
tôi nhận thấy một cảm giác trong suốt cực độ như đang
bị đóng băng, chết cứng trong một cánh đồng giá rét trải
rộng cả ngàn cây số. Tôi không thể tiến, cũng không thể
lùi. Tôi như người mất hết trí khôn, không còn gì hiện
hữu trong tôi ngoài Vô. Tôi biết trong tôi đã kết thành khối
nghi”.
Những
trạng huống thay đổi của tâm thức như trên có thể chứng
minh bằng quan điểm triết học. Bình thường, con người không
tự chủ được đối với ý niệm vì chịu sự chi phối của
hai yếu tố: Một là kích thích của cảm quan đối với trần
cảnh bên ngoài, nhà Phật gọi là năm căn tiếp xúc với năm
trần phát sinh năm thức; hai là hoạt động của tiềm thức,
pháp trần khởi dậy tạo nên dòng chảy liên tục của vọng
niệm. Khi tâm chuyên chú vào một đề mục, hai yếu tố kích
thích trên không thể chi phối được. Trước tiên, hành giả
không bị dính mắc theo sắc thinh hương vị xúc; sau đó, hạt
giống có sẵn trong tiềm thức không có điều kiện khởi
hiện hành. Khi công phu thuần thục, hành giả thoát khỏi sự
chi phối của tiềm thức. Ðây là lúc mà Ngài Bạch Ẩn bảo
rằng cảm thấy mình “trong suốt như bị đóng băng”.
2-
Bùng vỡ khối nghi :
Một
hình ảnh linh động diễn tả người ôm khối nghi, như cảnh
một con chó thấy chảo mỡ sôi thật hấp dẫn; chó muốn
liếm nhưng sợ phỏng, mà bỏ đi thì tiếc, nên cứ quanh quẩn
bên chảo mỡ mà không biết làm cách nào. Tình trạng bế
tắc nầy là triền miên; khối nghi cứ đeo đẳng không rời
khiến hành giả quên ăn bỏ ngủ. Vị thầy biết rõ tình
trạng ấy của môn đệ, nhưng không can thiệp vào khi chưa
đến thời kỳ. Lúc đủ nhân duyên, vị thầy dùng một thủ
thuật đặc biệt, hoặc nhờ một ngoại duyên nào đó, tự
nhiên khối nghi bùng vỡ, hành giả đại ngộ.
Sự
bùng vỡ khối nghi là thời điểm cuối cùng của quá trình
tìm lại con người thật của chính mình. Thời điểm này
xảy ra thật đột ngột, không có dấu hiệu gì báo trước,
biểu hiện mỗi người mỗi vẻ, cơ hội không ai giống ai,
thời gian cũng khác nhau tùy trường hợp. Thiền sư Linh Vân
và Quốc sư Huệ Trung mất 30 năm. Thiền sư Bạch Ẩn mất
3 năm .... Cũng có những người ôm khối nghi suốt đời, đến
lúc chết cũng chưa tìm ra lời giải đáp. Ðó là những trường
hợp rất đáng tiếc mà vị thầy cũng không thể làm gì để
giúp môn đệ. Vì sao có sự khác nhau đó? – Theo Philip Kapleau,
một môn sinh của Thiền sư Suzuki và được lão sư Yasutani
ấn chứng, sự giác ngộ nhanh hay chậm là do chính tự thân
của hành giả. So với các pháp tu khác, tham công án đưa đến
giác ngộ nhanh hơn, nhưng còn tùy nghiệp lực, tùy sự khát
ngưỡng được giải thoát cấp bách hay không, và tùy công
phu tham cứu miên mật nhiều hay ít. Cho nên, tự lực là chủ
yếu, tha lực là trợ duyên. Tha lực đóng vai trò một tia
lửa điện khởi phát phản ứng hoá học, một cái ấn trên
nút khởi động máy. Không có tia lửa, phản ứng không xảy
ra; không có cái ấn nút, máy không vận hành. Nhưng những
sự chuyển động ấy không phải chỉ nhờ tia lửa hay cái
ấn nút, mà chủ yếu do đủ yêu cầu về lượng và chất
của những thành phần trong phản ứng, do máy móc đã hoàn
bị và sẵn sàng hoạt động. Cũng vậy, sự thao thức trăn
trở, sự dấn thân đến tột độ, sự toàn tâm toàn ý sống
chết với khối nghi làm vắng bặt mọi vọng niệm, là công
việc của bản thân hành giả. Sự giúp đỡ của Tôn sư,
như cố ý kích thích khối nghi ngày càng mãnh liệt để kết
thành khối nghi (nếu môn đệ không tự mình làm được),
hoặc tạo cơ hội thúc đẩy quá trình công phu sớm đến
đỉnh cuối, hay đập một phát dứt điểm khi thời cơ chín
muồi... là tha lực cần thiết đối với hành giả. Do đó,
trong Thiền công án, cả tự lực và tha lực đều quan trọng
không thể thiếu, song hành giả phải nhận định yếu tố
chính và phụ để khỏi lầm lẫn khi dụng công.
Ðịnh
Thượng tọa hỏi Tổ Lâm Tế: “Thế nào là đại ý Phật
pháp?”. Câu hỏi nầy là một vấn đề trọng đại của
người tu. Thượng tọa cũng đã ôm ấp nghi vấn từ lâu,
có thể cũng tham vấn nhiều nơi nhưng chưa tìm ra giải đáp.
Tổ Lâm Tế nghe hỏi, lặng thinh bước xuống toà, nắm cổ
áo Thượng tọa, tát một cái thật mạnh. Thượng tọa Ðịnh
kinh ngạc đứng sững. Một vị tăng đứng kế bên vụt bảo: “Ðịnh Thượng tọa sao không lễ Hòa thượng đi!”. Thượng
tọa sắp cúi xuống lạy, tức khắc bừng ngộ.
Ðây
là một câu chuyện có tác động rất mạnh đến những hành
giả tu Thiền. Tổ Lâm Tế là một vị Thiền sư rất kỳ
đặc, cơ phong cao vút, người thường không thể lường nổi.
Ngày trước, Tổ cũng ba lần ăn gậy của sư phụ Hoàng Bá
chính vì câu hỏi nầy, đã từng đau khổ tột cùng vì ôm
khối nghi: “Hỏi như vậy có lỗi hay không lỗi?”. Nay
nghe Thượng tọa Ðịnh hỏi lại câu ấy, Tổ bằng tâm lão
bà như Tôn sư khi xưa, tát Thượng tọa một cái nẩy đom
đóm mắt. Uy lực của các Thiền sư rất lớn, nên dù làm
gì, học nhơn cũng không dám phản ứng. Thượng tọa Ðịnh
bị bất ngờ, mọi vọng niệm đều dứt bặt. Cơ duyên đã
chín muồi, nên khi cúi xuống lạy liền hoát nhiên đại ngộ.
Tổ
Qui Sơn một hôm gởi cho Ngài Ngưỡng Sơn tấm gương. Ngài
Ngưỡng Sơn thượng đường bảo đại chúng: “Các vị hãy
nói, đây là gương của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn? Nếu
của Qui Sơn, sao ở trong tay ta? Nếu của ta, sao nhờ Qui Sơn
gởi đến mới có? Ai nói được thì không đập nát”. Toàn
chúng đều không đáp được. Ngài liền đập nát tấm gương.
Tấm
gương ở đây trở thành một bài pháp siêu tuyệt. Trả lời
gương của Qui Sơn hay của Ngưỡng Sơn đều bị lỗi. Môn
đệ lúng túng vì không thể đáp, như thế là đã khởi mối
nghi. Ngài đập nát tấm gương làm khối nghi càng lớn. Tấm
gương là thực tại hiện tiền, nhận ra thì vượt thoát rào
cản nhị biên, vượt thoát cái bẫy của Thiền sư. Thủ thuật
khai tâm của các Ngài nhằm chấm dứt mọi lý giải biện
luận, nhằm đập chết con khỉ ý thức, dồn môn sinh vào
chỗ bế tắc và tự mình tìm chỗ thoát thân, trực nhận
tánh giác sẵn đủ. Công án Chích thủ diệu thanh ( tiếng
vỗ một bàn tay) của Thiền sư Bạch Ẩn Huệ Hạc nhằm giúp
học nhơn phản tỉnh trở về con người biết nghe luôn luôn
hiện diện. Có tiếng hay không tiếng là duyên bên ngoài, còn
cái thường biết mới là chân thật.
Thượng
tọa Huệ Minh đuổi theo Lục Tổ muốn giành lại y bát. Ngài
đã có công phu trước đó, đã từng trăn trở làm sao tìm
được bộ mặt thật xưa nay, nên khi thấy y bát để trên
tảng đá mà không ôm lên được, Ngài đổi lòng cầu y bát
thành tâm cầu đạo. Lục Tổ bảo Ngài đứng im giây lát,
sau đó hạ một câu: “Không nghĩ thiện không nghĩ ác, cái
gì là bản lai diện mục của Thượng tọa Minh ?” Ngài liền
đại ngộ. Thời gian tu trước, Ngài đem tâm bỏ ác cầu thiện,
bỏ vọng cầu chơn theo tinh thần phất bụi trừ dơ của Ngài
Thần Tú. Thật ra, chơn và vọng cũng chỉ là sự phân biệt
tương đối của ý thức, cũng đều cùng một tâm; vọng sanh
từ tâm và diệt cũng không ra khỏi tâm. Lục Tổ dạy Ngài
siêu vượt thiêïn ác tức vượt khỏi ý niệm phân biệt
hai bên; làm sao nhận ra bản tâm bất diệt nơi vọng tâm sanh
diệt, ấy là tu có chánh kiến. Các vị Thiền sư sử dụng
các thủ thuật khác nhau tùy đương cơ, như thầy thuốc giỏi
tùy bệnh cho thuốc, và khác với lối dạy của Pháp sư. Pháp
sư thường giản trạch Phật pháp một cách biện chứng, rõ
ràng khúc chiết; còn Thiền sư thường dùng lối dạy nửa
vời khó hiểu, nhưng giúp môn đệ mau khai ngộ, và khi ngộ
rồi thì không thể nào quên. Tuy vậy, trong thời đại khoa
học hiện nay, mỗi vấn đề đều phải được trình bày
minh bạch và hợp lý, nếu dạy đồ chúng theo cách xưa e khó
thuyết phục người nghe. Ngài Trường Sa Cảnh Sầm ngày xưa
còn bảo: “Nếu lúc nào ta cũng nói tột lý Thiền, thì sân
chùa nầy mọc đầy cỏ dại”, vì chẳng còn môn đệ nào
quét đất Già-lam. Vì thế, các ngài phải kết hợp Thiền
và Giáo, trừ một số người có căn cơ đặc biệt hoặc
thích hợp với Thiền công án thì các Ngài có cách dạy riêng,
nhằm khơi dậy tiềm năng vô tận vượt khỏi tri kiến lập
tri, là trực giác Bát-Nhã sẵn đủ nơi mỗi người.
Sau
đây là tự thuật của Ngài Bạch-Ẩn lúc vượt thoát nhị
biên đối đãi giữa ta-người, sanh-tử, tất cả đều được
bao trùm trong ánh giác: “Một buổi chiều nọ, tôi bỗng nghe
từ xa vọng đến tiếng chuông chùa, giống tiếng ầm của
một tảng băng hay một ngọn tháp ngọc rơi xuống. Tôi chợt
nhận ra, mình là vị tiền bối Nham Ðầu. Dù đã xa xưa rồi,
Ngài vẫn chẳng có gì thay đổi. Khối nghi vỡ tan tành. Tôi
la lớn: Thật là vi diệu! Không còn sanh tử để thoát ra,
không còn giác ngộ để tìm kiếm. Tất cả 1700 công án từ
trước đến nay, không cần tham nữa!”. Khi trực giác phóng
xuất, hành giả thâm nhập vào cảnh giới tuyệt đối, nhận
ra con người thật, là giải quyết xong vấn nạn của đời
mình. Ðến đây rồi, mới thấy con người thật ấy luôn
luôn hiện hữu, có lúc nào vắng thiếu; chỉ vì quên mất
gia tài đồ sộ nên chúng ta mới làm kẻ bần cùng. Tâm trạng
của một người nghèo khổ mạt hạng bỗng dưng lạc vào
cung điện nguy nga tráng lệ, hay vào một kho tàng đồ sộ
đầy ngọc ngà châu báu; lại biết tất cả những thứ quý
giá đẹp đẽ ấy đều là của mình, mặc tình cho mình sử
dụng, tâm trạng ấy liệu có thể diễn tả được bằng
lời?
II-
NỘI DUNG THIỀN TẬP:
1-
Lộ trình tâm linh:
Trong
Bát Chánh đạo, đi đầu là Chánh kiến. Người tu trước
tiên phải nắm vững phương pháp hành trì, như người đi
đường trước khi khởi hành phải nghiên cứu lộ trình và
nơi đến. Nếu không có kiến giải chơn chánh, tu hành theo
chánh pháp, thì dù cực khổ công phu đến mấy cũng không
đạt được mục đích cuối cùng, đôi khi lầm lạc vào đường
tà lối rẽ. Dĩ nhiên, mỗi người có căn cơ, trình độ,
sở thích khác nhau, nên sự chọn lựa pháp tu là do tâm ý
của riêng mình. Kinh nghiệm tu tập cũng mang tính cách cá nhân,
như mỗi bông hoa có một dáng vẻ, một hương thơm khác nhau,
nhưng đều chung sức tỏa sắc khoe hương cho vườn hoa tập
thể.
Thiền
sinh theo dõi từng vận hành của tâm niệm, thấy chúng khởi
lên và diệt đi, không còn dấu vết. Biết rõ chúng là hư
dối không thật, ta không theo chúng, tự nhiên tâm liền an.
Nhận diện tiến trình sinh diệt của vọng niệm là bước
đầu của con đường thiền tập; trong đó, nhận ra bộ mặt
của vọng là điều kiện đầu tiên tối cần để chiến
đấu và chiến thắng giặc phiền não. Một vị tướng tài
muốn trăm trận trăm thắng, phải biết rõ ta và địch. Giặc
phiền não có tâm vương tâm sở, trận chiến ngay tự thân
là trận chiến ác liệt nhất, nếu ta không nhận diện được
giặc thì làm sao có chiến tích lẫy lừng? Ðây lại là cuộc
trường chinh gian khổ, vì tập khí phiền não tích tụ biết
bao đời kiếp, không phải một ngày hai ngày là xong việc.
Pháp môn tri vọng là lối chăn trâu trong nhà Thiền, có nhiều
mức đôï từ thấp đến cao(5).
Chánh
niệm là công phu ở mọi nơi mọi lúc. Thiền sinh duy trì sự
tỉnh giác thường xuyên, luôn đặt tâm vào giờ phút hiện
tại, nhận rõ sự động dụng của thân, sự biến đổi của
tâm và sự vô thường của cảnh. Chỉ cần biết rõ tất
cả mà không khởi niệm hay cưỡng chế mọi sự việc theo
ý mình. Chánh niệm tự động soi sáng và chuyển hoá mọi
cảm thọ ở thân và những phiền não cấu nhiễm trong tâm,
như ánh nắng chiếu vào nước đá, tự nhiên nước đá tan
chảy dù ánh sáng không cố ý mong cầu.
Kiến
tánh là kiến chiếu vào tận thể tánh của chính mình. Hành
giả nhận ra con người thật, con người nguyên thủy trước
khi cha mẹ sinh ra. Kiến tánh là trở về cái uyên nguyên của
vũ trụ nhân sinh; cái không thể dùng ý thức tưởng tượng
nhưng luôn luôn hiện hữu; cái không hình tướng nhưng trùm
khắp và không sanh không diệt; cái tịch lặng muôn đời nhưng
chiếu soi tận cùng pháp giới. Trở về thể tánh chơn thật
ấy, hành giả đã có chỗ y cứ chung thân, đời tu không còn
lui sụt nữa.
2-
Thiền tập trong mọi hoàn cảnh:
Trước
tiên, chúng ta nên nhận định rằng Thiền không phải chỉ
là toạ, nên tu Thiền không chỉ ở lúc ngồi. Tuy nhiên, trong
giai đoạn đầu khi tâm ta còn lăng xăng đa sự, toạ thiền
là công phu cần thiết và cơ bản giúp ta dễ định tâm hơn
cả. Một số người dùng lời dạy của Lục Tổ, hoặc chủ
trương Thiền là phải sống trong từng giây phút để bài
bác việc tọa thiền. Ðây là một điều lầm lẫn lớn lao.
Ðức Phật mỗi sáng sớm trước khi đi giáo hoá, Ngài đều
tọa thiền, sau đó xét căn cơ trình độ của những người
hữu duyên Ngài sẽ gặp, để chỉ dạy phương pháp tu thích
hợp. Một số vị Tổ sư không chủ trương tọa thiền để
đối trị sự cố chấp của môn đệ, cho tọa thiền là cứu
cánh. Những phương tiện giáo hoá của các Ngài lập bày chỉ
vì đương cơ và chỉ thích hợp với đương thời; ngày nay
chúng ta lại áp dụng vào mọi nơi mọi lúc, e có khi không
hợp lẽ.
Lúc
tọa thiền mà có âm thanh hay tiếng động ồn ào bên ngoài,
ta vẫn biết nhưng không duyên theo tiếng hoặc sanh tâm bực
bội. Những cảnh tượng quấy rầy lúc đầu làm trở ngại,
nhưng đó cũng là cơ hội để ta tu trong nghịch duyên. Tuy
thế, không nên cố ý tạo nghịch duyên như tự mình mở nhạc
hoặc băng thuyết pháp lúc đang tọa thiền, vì thiền không
chủ ý chủ tâm. Trường hợp này thường gặp trong gia đình
các Phật tử đông người, không có không gian riêng cho mình
tu tập. Ta có thể khắc phục hoàn cảnh bằng cách chọn giờ
yên tĩnh hoặc một nơi thích hợp cho công phu thiền tọa,
kết hợp với thiền hành.
Tọa
thiền là công phu trong lúc tĩnh; tiến thêm một bước là
tập tu trong khi động, theo tinh thần của Chánh niệm hay làm
việc gì chỉ biết việc đó. Trong ngày, lúc thuận tiện ta
có thể thiền hành trong phòng, trên sân thượng, trên đường
vắng hay ngoài bãi biễn ..., vừa đi vừa hít thở không khí
trong lành, chánh niệm trên từng bước chân, Thiền hành là
lối công phu có tính cách tự do, không theo nguyên tắc cố
định. Ðơn giản là ta đi bách bộ một cách chậm rãi, không
có đích đến. Lúc đi ta biết mình đang đi, cái biết này
chỉ mới trên bề mặt ý thức nhưng là khởi đầu cần thiết.
Tâm tĩnh lặng, ta thấy an lạc hạnh phúc nơi từng bước
chân. Ðến khi đi chỉ biết là đi mà không còn ngã tướng,
thì tuy chân vẫn bước mà ý niệm đi biến mất. Ði trong
trạng thái vong ngã thì tức khắc ta đi vào bản thể của
chính mình. Ði thẳng vào bản thể hoàn toàn trái ngược với
sự đi quanh của ngã tướng; điều này khó nói cho người
khác hiểu, chỉ nhờ công phu mới tự mình thầm nhận.
Trong
một nhóm tu hành, ta có thể tổ chức những bữa cơm nhiếp
tâm. Duy trì chánh niệm trên từng động tác, nghĩa là đang
gắp, nhai, nuốt ...ta đều biết rõ nhưng không chia nhỏ những
động tác ấy. Ví dụ, trong trí ta cứ thầm nhủ theo từng
cử chỉ “gắp-gắp lên miệng - bỏ vào miệng – nhai –
nhai - nuốt...” thì những động tác ấy không thể nào tự
nhiên được. Các món ăn đặt trên bàn, ta có thể gắp một
cách từ tốn tự nhiên, vị chua cay ngọt mặn thế nào ta
đều biết. Không phải khi ăn không cần biết ngon dở, vì
như thế trởû thành vô tri, dần dần quên mất sự sống.
Ta có quyền thấy nghe hay biết tất cả, nhưng điều quan trọng
là không sanh tâm khen chê ưa ghét, như thế sẽ không xa rời
cuộc sống, mới có cơ hội phát sinh Tri kiến Như thật.
Mặt
khác, trong những công việc hàng ngày, chỉ cần tỉnh thức
chú tâm vào mọi động tác, vào công việc làm. Khi ta quét
nhà, chính sự quét nhà là niềm an lạc, nếu ta không xen vào
những tư tưởng phức tạp của ý thức. Khi ta nấu cơm, rửa
chén, cuốc đất ... cũng vậy. Nấu cơm để nấu cơm, rửa
chén là để rửa chén. Chỉ chú tâm vào việc đang làm, việc
làm ấy sẽ được chu toàn, năng suất cao, kết quả tốt;
và đặc biệt, nơi hành động đã là mục đích, nơi phương
tiện đã là cứu cánh. Như thế, Thiền là sự sống trong
mọi sinh hoạt bình thường.
Các
huynh đệ đồng tu thường có những buổi pháp đàm, trao đổi
những kiến giải và kinh nghiệm trong công phu. Những cuộc
trao đổi như thế rất hữu ích, với điều kiện phải có
tinh thần hòa ái hoan hỉ, mục đích giúp nhau cùng tu tiến
chứ không phải tranh luận hơn thua. Nếu không theo tinh thần
Tam hòa(6), dễ gây mất sự đoàn kết nội bộ. Khổng Tử
nói: “Tam nhơn đồng hành tất hữu ngã sư”, ba người cùng
đi ắt có người làm thầy ta. Ta có thể học được tất
cả mọi người, kể cả những người nhỏ tuổi hơn, yếu
kém hơn ta. Có người thường thích phát biểu trước tập
thể để chứng tỏ mình tu hay hơn, hiểu biết hơn người
khác; có người bảo thủ, luôn cho ý kiến của mình là đúng,
không chấp nhận những ý kiến trái ngược... Tất cả đều
là hành tung của bản ngã. Người có ngã chấp quá lớn không
thể tiếp thu gì thêm, như ly nước đã đầy, không rót được
thêm vào. Từ đó, đường tu dần dần đi xuống mà không
hay biết. Thiền tông nói lên được cái tinh hoa của đạo
Phật nên rất thành tựu về mặt truyền pháp, nhưng do chỉ
dạy quá thẳng tắt nên nhiều người tưởng hiểu lý Thiền
là xong việc, lấy sự hiểu bằng ý thức làm lẽ sống mà
không tinh cần công phu, cuối cùng từ hay chuyển sang dở.
Thiền sinh chúng ta nên cảnh giác đối với bệnh khẩu đầu
thiền, một bệnh phổ biến của những người nói nhiều
làm ít. Tu là phải thúc liễm thân tâm, thận trọng trong từng
lời nói và tỉnh giác trong từng hành động, lại cần nói
ít hơn những điều mình đã thấy. Người có công phu thiền
tập tự nhiên sẽ có một phong cách đặc biệt, trầm tĩnh
đúng mực từ lời nói đến việc làm.
Các
bậc hiền sĩ ngày xưa thường chủ trương Thà chết vinh hơn
sống nhục. Danh dự nhiều khi quý giá hơn tài sản, tính mạng.
Nhưng làm sao trong vinh dự được tôn xưng mà ta không ngã
mạn cống cao, thì có lúc nào đó bị người khinh chê, ta
sẽ không quá buồn khổ. Gặp lửa nóng ta biết ngay mà tránh,
còn nước mát lại dễ làm mất cảnh giác, chết đuối lúc
nào không hay. Nghịch cảnh như lửa nóng, người tu dễ thức
tỉnh nhớ xoay lại mình, còn cảnh ấm êm thuận thảo đôi
lúc gây kiêu ngạo. Cho nên nhà Thiền không sợ thất bại,
mà lại ngại sự thành công; vì chính thất bại là nghịch
duyên cần thiết để hành giả có thêm kinh nghiệm tự thân,
biết mình còn xấu dở mà tinh cần tu học.
Có
một điều tế nhị chúng ta cần lưu ý: Một hôm nào đó
ta gặp một người dáng vẻ tu hành mẫu mực, sống trong cảnh
bần hàn và luôn chê bai xem thường danh lợi. Tiếp xúc với
người ấy đôi lần, ta rất ngưỡng mộ và muốn tôn làm
thầy dạy đạo. Nhưng cần tỉnh táo sáng suốt nhận định
rõ vấn đề. Ngụ ngôn Pháp kể chuyện con cáo chê chùm nho
xanh, không đáng để nó bỏ công hái. Nhưng thật ra, vì chùm
nho trên cây cao quá, cáo ta năm lần bảy lượt nhảy lên mà
không với tới, nên mới ra bộ chê bai. Ðó chỉ là tâm lý
phản ứng trước một thứ mà mình không thể có dù thâm
tâm rất muốn. Trong đời, chúng ta có thể gặp rất nhiều
hình ảnh “con cáo và chùm nho” như thế.
Cổ
đức nói:
Phiền
não khởi giai do đa sự
Thị
phi sanh dĩ thị đa ngôn.
Con
người chúng ta không nhiều thì ít đều có những ham muốn
đam mê. Chính sự ham muốn tạo thành kiết sử, trói buộc
và sai khiến ta phải tìm mọi cách thỏa mãn; đạt được
lại muốn nhiều hơn, không đạt khởi sanh sân hận. Nhu cầu
bản thân càng cao thì phải ôm đồm nhiều việc, phiền não
càng lẫy lừng. Con người trở thành nạn nhân cho chính dục
vọng của mình, ngày càng bất an, thần kinh căng thẳng đưa
đến những hậu quả khó lường. Lại nữa, khi ngồi với
nhau, thường thì chúng ta hết bàn sự phải quấy lại đến
chuyện đông tây kim cổ. Nhưng bàn chuyện người thì có ích
gì cho mình, càng nói nhiều càng lắm thị phi. Chúng ta có
mâu thuẫn là muốn bình an nhưng lại thích luận bàn thế
sự, lại thấy rõ cái dở của người mà không biết tìm
khuyết điểm nơi mình. Chúng ta tu là chấp nhận những điểm
yếu của mình một cách thẳng thắn, và sửa đổi để ngày
càng hoàn thiện. Ta nhận định mọi người mọi vật bằng
cặp mắt khách quan, không thần tượng hoá người nào, không
lý tưởng hoá vật gì. Trên đời không có cái gì tuyệt đối,
không chỉ có thầy mình là hay nhất, không chỉ có pháp tu
của mình là đúng nhất. Những cái nhìn thiển cận biên kiến
là tư tưởng cục bộ chủ quan, làm đóng khuôn và che mờ
thực tại. Ðạo Phật là đạo trí tuệ, người con Phật
phải có chánh kiến, nhìn mọi vấn đề một cách toàn diện
và bao dung được mọi tư tưởng lập trường khác biệt.
Từ đó, ta có thể hòa đồng với mọi người và chịu đựng
mọi hoàn cảnh mà vẫn giữ bản chất, phong thái riêng của
mình.
Thiền
sư Vạn Hạnh có bài kệ nổi tiếng:
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô
Vạn
mộc xuân vinh thu hựu vô.
Nhậm
vận thịnh suy vô bố uý
Thịnh
suy như lộ thảo đầu phô.
Nghĩa:
Thân
như bóng chớp có rồi không
Cây
cỏ xuân tươi, thu nhuốm hồng.
Mặc
cuộc thịnh suy, đừng sợ hãi
Thịnh
suy như cỏ hạt sương đông.
Khi
biết vạn pháp đều không thật, đều vô thường, thì sự
thăng trầm thịnh suy của cuộc sống đối với các Ngài như
hạt sương trên đầu ngọn cỏ. Chúng ta chưa được tự tại
như các Ngài, nhưng nhờ công phu thiền tập, ít nhiều cũng
có sự trầm tĩnh. Trước khi quyết định một việc gì, ta
suy nghĩ chín chắn, xử thế có lý có tình và có lập trường
vững chắc. Ta không từ nan việc gì trong khả năng mà có
ích cho đời, làm nhưng không dính mắc vướng bận. Ðời
sống của ta sẽ có ý nghĩa dù thọ mạng ngắn hay dài; ta
hiến dâng nhiều bao nhiêu thì sự an lạc hạnh phúc đến
với ta tương đương như thế.
Một
số thiền sinh thường thắc mắc: Trong cuộc sống, ai cũng
phải tính toán lo toan cho bản thân, cho gia đình. Người tu
càng nhiều việc sắp xếp, tổ chức trong tự viện và những
việc Phật sự bên ngoài. Suốt ngày suy tính bận bịu như
thế có trái với tôn chỉ nhà Thiền là vô sự vô tâm?. Các
bậc ngộ đạo cũng trăm công nghìn việc, nhưng các Ngài sắp
xếp việc nào ra việc ấy, tính xong rồi buông xả, nên các
Ngài làm tất cả mà cũng như không làm. Chúng ta học theo
các Ngài, cũng phải lo toan cho cuộc sống hàng ngày một cách
chu đáo, làm tròn mọi trách nhiệm đối với gia đình và
xã hội, nhưng không dính mắc, thì dù đa sự mà vẫn không
phiền não.
3-
Một vài ngộ nhận trong công phu:
* Có
người cho rằng, tu hành là phải tránh bớt duyên khi chưa
triệt ngộ, nên chủ trương tự tu tự học khi đã biết cách
dụng công. Ðây là một quan niệm hữu lý, có cơ sở, nhưng
nếu ta cố chấp lại sinh ra cực đoan. Ngày xưa, các vị Thiền
sư khi kiến tánh, thường vào núi rừng ẩn tu một thời gian
gột sạch tập khí, sau đó mới vào cuộc đời giáo hoá chúng
nhân. Ngày nay, chúng ta không thể sống một mình nơi hoang
dã, uống nước suối ăn trái rừng qua ngày, chưa kể lúc
ốm đau hoặc chướng duyên làm trở ngại. Vì thế, phần
đông chúng ta đều chấp nhận cuộc sống chung cùng bạn lữ,
tuy kết quả không nhanh chóng bằng người xưa, nhưng được
lợi là giúp mình giúp người. Mặt khác, nếu nắm vững pháp
tu, trong lúc động lại tiến nhanh hơn khi tĩnh. Cùng sống
với tập thể, một mặt ta giúp được người đi sau, mặt
khác ta nương vào người để củng cố lòng tin, ý chí, để
được bảo vệ trước những cám dỗ của ngũ dục. Nhiều
người thích tu nơi vắng vẻ, một thời gian tưởng mình đã
xong việc, không ngờ khi trở về thế gian lại sanh phiền
não, có trường hợp sa ngã, uổng một đời tu. Ðây không
những là kinh nghiệm đối với người xuất gia, mà còn cho
những đạo tràng cư sĩ tại gia.
* Có
người hiểu lầm chỉ có tọa thiền mới là tu, nên xem thời
gian tọa thiền trong ngày là chuẩn mực đạo đức. Thật
ra, khi mới phát tâm, tọa thiền giúp ta dễ an định tâm,
do các căn ít tiếp xúc với trần cảnh. Nhưng trong các giai
đoạn sau, khi công phu đã thuần thục, ta cần tu trong mọi
thời khắc, mọi nơi chốn, mọi oai nghi. Các Thiền sư, khi
trả lời câu hỏi “Thiền là gì?”, thường bảo “Dưới
gót chân ông” hoặc “Trong thân chỗ nào không có máu?”.
Lục Tổ chủ trương kiến tánh chứ không chủ trương tọa
thiền, vì chưa kiến tánh thì chưa bước chân vào cửa Thiền
tông.
* Một
số thiền sinh quan niệm Thiền là cắt đứt mọi hoạt động
tâm lý. Ðây là lối tu theo kiểu đá đè cỏ, luôn phải chú
tâm đè nén vọng tưởng nên hành giả rất sợ cảnh sợ
duyên, không có sự sáng tạo và sức sống riêng cho chính
mình; đến khi gặp chướng ngại không biết làm cách nào
để tránh. Có người lại hiểu Thiền qua sách vở, nghĩ Thiền
dễ tu dễ chứng, chưa gì đã tự tôn xưng, thỏng tay vào
chợ. Thật là một lầm lẫn tai hại, sao khỏi đọa vào khổ
xứ? Tất cả ngôn từ, dù cao siêu hoa mỹ đến đâu, cũng
không diễn đạt đến lẽ thật. Muốn ngộ lý Thiền, ta phải
khéo thông qua ngôn ngữ mà thầm lãnh hội thực tại phi ngôn.
Thiền là đời sống tự mình kinh nghiệm, tự thấu triệt
ngay từ những điều bình dị đơn giản nhất.
* Ðức
Phật bảo “Chúng sanh là Phật sẽ thành”, ấy là muốn
sách tấn hàng môn đệ, vì quả thật mỗi chúng sanh đều
có mầm mống giác ngộ. Không có nhân thành Phật, không thể
nào chúng ta tu đến quả vị cuối cùng. Nhưng nếu chúng ta
hiểu đơn giản rằng, chữ “sẽ thành” có nghĩa là một
tương lai nào đó, thì vô hình trung ta có sự vọng cầu mong
mỏi. Như thế là không hợp lý đạo. Phật là Phật tâm tại
hiện tiền, chứ không phải là một Ðấng Cứu thế bên ngoài
hay một quả vị Phật ở thời điểm nào xa xôi. Người tu
thiền có tâm mong cầu kết quả, có khi công phu thấy cảnh
lạ lại khởi lòng vui mừng hay sợ hãi, thường dễ phát
sinh bệnh tật, điên cuồng. Ðây là điều chúng ta cần thận
trọng ghi nhớ.