Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Giảng pháp và truyền quán đỉnh cộng đồng Đức Liên Hoa Sinh Padmasambhava, Trí tuệ Văn Thù tại chùa Hoàng Long, tỉnh Phú Thọ ngày 16.3.2010

01 Tháng Năm 201100:00(Xem: 12697)
2. Giảng pháp và truyền quán đỉnh cộng đồng Đức Liên Hoa Sinh Padmasambhava, Trí tuệ Văn Thù tại chùa Hoàng Long, tỉnh Phú Thọ ngày 16.3.2010

MANDALA - SỰ HỢP NHẤT CỦA TỪ BITRÍ TUỆ
THEO QUAN KIẾN KIM CƯƠNG THỪA
Giáo Pháp Từ Chuyến Viếng Thăm Việt Nam 2010
của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa XII

Giảng pháp và truyền quán đỉnh cộng đồng
Đức Liên Hoa Sinh Padmasambhava, Trí tuệ Văn Thù
tại chùa Hoàng Long, tỉnh Phú Thọ
ngày 16.3.2010

Ngày 16/3 Pháp VươngTăng đoàn quang lâm chùa Hoàng Long tại tỉnh Phú Thọ, vùng đất tổ Hùng Vương của các triều đại vua Hùng đã lập nên đất nước Việt Nam của ngày hôm nay. Việc Pháp Vương quang lâm trụ xứ được tổ chức vào tháng lễ hội đền Hùng đánh dấu mối nhân duyên của Truyền thừa Drukpa với vùng quê cha đất tổ. Pháp hội chuẩn bị cung nghinh chào đón Pháp Vương đã diễn ra rất khẩn trương và kỹ càng, mặc dù điều kiện thời tiết trong những ngày này đã có mưa rất to cùng hiện tượng sấm sét.

Vào 9h sáng, Đức Pháp VươngTăng Đoàn Drukpa bắt đầu rời khách sạn Sheraton tại Hà Nội. Mưa vẫn lất phất rơi suốt chặng hành trình tựa như chư thiên đang rải hoa cúng dường cung nghênh bậc Toàn tri Tôn quý.

Sau hơn hai tiếng đồng hồ, đoàn xe của Pháp Vương tới chùa. Trước sự ngạc nhiên của chúng tôi, đã có hàng đoàn xe nối đuôi nhau xếp hàng dọc suốt hai cây số trên con đường nhỏ dẫn vào chùa. Mưa lúc này đã không còn rơi nặng hạt nữa mà chỉ lất phất bay, đường vào ngập đầy bùn đất nhưng hàng nghìn chư vị Tăng niPhật tử đã đến từ sáng sớm chờ được cung đón Đức Pháp VươngTăng đoàn.

Sau khi mọi người nghỉ ngơi và thọ trai, Pháp hội bắt đầu vào đầu giờ chiều. Mặc dù trời mưa làm nền đất của ngôi chùa đơn sơ trở nên sình lầy, song không ngăn nổi tấm lòng nhiệt thành của những người con Phật. Khoảng 10 nghìn người đứng chật kín trên bãi đất rộng phía trước khu đàn tràng được thiết lập trang nghiêm.

Đức Pháp Vương đăng tòa trong sự cung kính trang nghiêm của chư vị tôn túc, đại đức tăng ni, đại diện chính quyền, nhân dân, Phật tử địa phương, và thiện hữu tri thức xa gần. Lúc này đã trời quang mây tạnh. Ngài khai đàn bằng lời cảm ơn trân trọng tới chính quyền đã tạo điều kiện để Pháp hội được tổ chức vì lợi ích của đất nước và nhân dân Việt Nam. Ngài cũng tán thán tín tâm dâng hiến chí thành của Phật tử Việt Nam. Chính nhờ thiện hạnh ấy mà có sức cảm hóa đất trời khiến điềm cát tường xuất hiện. Ngài dạy rằng nếu mưa tiếp tục rơi thì đó chỉ là điều kiện thời tiết thông thường, nhưng mưa đã ngừng ngay trước khi Pháp hội bắt đầu thì đó là điềm lành báo hiệu những điều tốt đẹp. Ngài cũng bày tỏ niềm tin sâu sắc của Ngài đối với mối Pháp duyên trân quý với đất nước Việt Nam, vùng đất tổ Vua Hùng và Truyền thừa Drukpa.

Sau đây là phần giảng pháp của Đức Pháp Vương trong pháp hội này:

Hôm nay nhờ duyên lành từ nhiều đời chúng ta lại gặp nhau ở chùa Hoàng Long này lần thứ hai, và tôi hoan hỉ thấy rằng rất nhiều Phật tử đã từng đến đây lắng nghe Giáo Pháp và nhận sự gia trì ban phước từ lần trước. Thời tiết hôm nay không thật thuận tiện vì đã có nhiều mưa, song đối với chúng tôi thì mưa lại là một sự gia trì ban phúc bí mật. Nếu mưa kéo dài suốt cả buổi lễ thì đó là cơn mưa thông thường, còn hôm nay mưa tuy rất lớn nhưng lại ngưng đúng vào lúc bắt đầu khóa lễ, chứng tỏ đây là cơn mưa gia trì ban phúc. Tuy có chút ít không thuận tiện, nhưng tất cả chúng ta nên hoan hỷ vì đã có duyên lành được tham dự một buổi lễ linh thiêng màu nhiệm như thế này.

Buổi lễ chính hôm nay là quán đỉnh gia trì về Đạo sư Liên Hoa Sinh. Ngài là bậc Thầy có vai trò rất quan trọng trong lịch sử truyền bá Mật thừa vào Tây Tạng và các vùng lân cận trên toàn bộ dãy núi Himalaya. Ngài là hoá thân chân thật của mười phương Chư Phật, Chư Bồ tát và tất cả các bậc Thầy giác ngộ khác. Vì vậy khi chúng ta thực hành Pháp của Ngài chính là đang thực hành Pháp của tất cả Chư Phật. Bạn không thể cùng một lúc thực hành Pháp của tất cả Chư Phật. Cách duy nhất để thực hành được Giáo Pháp của Chư Phật và Bồ tát ngay cùng một lúc là thực hành Pháp tu Liên Hoa Sinh. Đây là phần dẫn nhập vào ý nghĩa pháp tu.

Do chúng ta không có nhiều thời gian, vả lại rất nhiều Phật tử đang phải đứng vì không đủ chỗ ngồi, nên tôi e rằng mình sẽ không luận giải chi tiết được về Đức Liên Hoa SinhTruyền thừa của Ngài. Điều cần ghi nhớ là trước hết các bạn nên hoan hỉ và trân quý vì đã được sinh ra trong thân người quí giá. Đây là một quán niệm quan trọng mà bạn phải luôn nhớ, vì chỉ trong thân người chúng ta mới có khả năng thực hành Phật Pháp, một điều vô cùng quý hiếm trên thế gian này. Để thực hành Phật pháp, chúng ta cần phảiTừ biTrí tuệ. Đó là những hạt giống trân bảo cần được gieo trồng, trưởng dưỡng trong tâm chúng ta. Ở đất nước Việt Nam tôi thấy rất nhiều người có tâm chí thành hướng về Phật Pháp. Điều này thực sự có nghĩa là khi được làm người Việt Nam, bạn đang có sự may mắn hơn những chúng sinhnơi khác. Đây cũng giống như một món trân bảo được ban xuống từ Chư Phật, chư Thiên. Chúng ta không những có tâm chí thành, có điều kiện trưởng dưỡng lòng Từ bi và Trí tuệ, mà còn có những thuận duyên khác, như sự ủng hộ của Nhà nước. Theo tôi được biết, Chính phủ Việt Nam luôn nâng đỡ và tạo điều kiện cho mọi người tự do tín ngưỡng. Bởi vậy, tôi luôn biết ơn Chính quyền các cấp đã ủng hộ chúng tôi thực hành Phật Pháp, cho phép chúng tôi chia sẻ Giáo Pháp Tôn quý của đức Phật. Đây là điều kiện thuận lợi cho tất cả chúng ta, nhằm xây dựng niềm an lạc hạnh phúc đích thực cho toàn xã hội.

Tôi tin chắc rằng những nỗ lực của Truyền thừa Drukpa, cùng với sự ủng hộ của Chính quyền, sẽ đem lại lợi ích cho dân tộc Việt Nam. Tất cả chúng ta hãy cầu nguyện được sống an lành trong sự gia trì của đức Liên Hoa Sinh, được viên mãn mọi ước nguyện của bản thân, của nhân dân Việt Nam, của loài người trên toàn thế giớicầu nguyện cho xã hội này được trường tồn phát triển, đem lại lợi ích cho muôn dân. Đó là những gì chúng ta nên cầu nguyện, chúng ta hãy giữ tâm nguyện và động cơ này khi thực hành nghi quỹ Đạo sư Liên hoa sinh.

Bài kệ "Bảy lời cầu nguyện lên Đức Liên Hoa Sinh" là bài cầu nguyệnhiệu quả nhất để kết nối với Ngài. Việc trì tụng 7 lời cầu nguyện này 1.000 biến, 10.000, 20.000, hay 100.000 biến sẽ chắc chắn xua tan mọi thứ bệnh tật, tai ương, chướng ngại. Tất cả mọi phiền nào chướng ngại sẽ không còn làm phiền, gây khổ đau cho bạn nữa và bạn sẽ thành tựu được mọi tâm nguyện của mình một cách như ý. Tôi không hề nói suông, trên thực tế rất nhiều người trên thế giới đã thực sự trải qua những kinh nghiệm này.

 Thần chú "OM AH HUNG BENDZA GURU PADMA SIDDHI HUNG" chính là Tâm chú của Đạo Sư Liên Hoa Sinh. Nếu hành giả muốn thực hành kết nối, nhận sự gia trì từ nơi Ngài thì phải năng thực hành Tâm chú này. Trong truyền thống Kim Cương Thừa, mỗi Đức Phật có một Tâm chú khác nhau. Phật Thích Ca Mâu Ni, Phật A Di Đà, Phật A Súc Bệ, ngay cả chư Bồ tát, mỗi Ngài đều có Tâm chú khác nhau, ví dụ "OM MANI PADME HUNG" là Tâm chú của Bồ tát Quan Thế Âm. Tâm chúchân ngôn để Bồ đề tâm chúng ta kết nối với Chư Phật, chư Bồ tát.

 Trong truyền thống Đại Thừa cũng có phương pháp niệm hồng danh của Chư Phật, chư Bồ tát để kết nối với các Ngài, giống như việc trì chân ngôn trong truyền thống Mật thừa. Chân ngôn là tên gọi của năng lượng giác ngộ. Bạn nhìn thấy trong quyển nghi quỹ này có ba câu chân ngôn: "OM AH HUNG BENDZA GURU PADMA SIDDHI HUNG" tượng trưng cho năng lượng giác ngộ của Thân, "OM MANI PADME HUNG" của Bồ tát Quan Thế Âm tượng trưng cho năng lượng giác ngộ của Khẩu, "OM AMI DEWA HRIH" của Đức Phật A Di Đà tượng trưng cho năng lượng giác ngộ của Tâm. Như vậy, ba chân ngôn này là năng lượng giác ngộ của Thân Khẩu Ý, để kết nối với Chư Phật và chư Bồ tát. Từ vô thủy đến nay, ba năng lượng giác ngộ này vốn sẵn đủ trong ta, nhưng trong nhiều kiếp luân hồi, chúng ta thường không sử dụng được chúng, nên cần trì tụng ba thần chú này để kết nối lại với năng lượng giác ngộ của chính mình. Nếu không, chúng ta sẽ đánh mất chúng và không thể nào đạt được giác ngộ. Chúng ta thường lãng phí năng lượng của mình, tức là trong đời sống, chúng ta sử dụng chúng vào những việc vô nghĩa, không sử dụng đúng vào mục đích giải thoát. Ba chân ngôn đặc biệt này, khi được hành trì với tâm chí thành và phương pháp đúng đắn sẽ giúp chúng ta hướng tập trung năng lượng của mình vào một điểm. Đây là vấn đề quan trọng mà các bạn cần biết trong Kim Cương Thừa, còn bây giờ chúng ta hãy cùng nhau trì tụng chân ngôn.

 Kế đến tôi sẽ khẩu truyền Tâm chú của Đức Văn Thù, vị Bồ Tát tượng trưng cho Trí tuệ siêu việt. Chúng ta rất cần có Trí tuệ; nếu khôngTrí tuệ, chúng ta sẽ lãng phí năng lượng của mình. Cho nên trì tụng chân ngôn Trí tuệ Văn Thù này rất lợi lạc. Đặc biệt, với các cháu sinh viên, học sinh, những người còn đang ngồi trên ghế nhà trường, các học giả hay những người làm công việc nghiên cứu, thì càng nên trì tụng câu Tâm chú "OM AH RA PA TSA NA DHI" này, để giúp tăng trưởng trí tuệ.

 Đức Văn Thù thị hiện rất nhiều hình tướng khác nhau. Trong Kim Cương Thừa Ngài hiện hình tướng Kalachakra, còn trong Đại Thừa Ngài hiện hình tướng Bồ Tát Văn Thù như thông thường chúng ta vẫn biết. Đức Văn Thù còn hiện thân dưới sắc tướng các bậc Thầy, như Bồ Tát Long Thọ là bậc Thầy Phật giáo vĩ đại nhất ở Ấn Độ. Ngài thị hiện rất nhiều hình tướng khác nhau. Khi trì tụng chân ngôn, chúng ta phải hoàn toàn nhất tâm, dần dần trí tuệ sẽ được khai mở. Tôi thấy rằng Đại đức Minh Đức (vị trụ trì chùa Hoàng Long) đã rất có trí tuệ, hợp thời khi thỉnh cầu tôi truyền quán đỉnh Đạo Sư Liên Hoa Sinhkhẩu truyền nghi quỹ Văn Thù. Trong đạo Phật, khi bắt đầu thực hành Phật Pháp, điều quan trọng nhất là bạn cần phảitrí tuệ sắc bén mới có thể thực hành Giáo Pháp không sai lệch. Vì vậy, chúng ta sẽ bắt đầu pháp tu này với tâm nguyện rằng sự nỗ lực của Đại đức Minh Đức cùng sự hảo tâm của tất cả quý Phật tử, chúng ta có thể sớm xây dựng được một bảo tháp của Đức Văn Thù ở đây. Nếu tâm nguyện này trở thành sự thực thì đây sẽ là công đức vô cùng lợi lạc cho dân chúng, đặc biệt là lớp sinh viên, học sinh có cơ hội khai phát trí tuệ siêu việt nơi mình. Ngôi bảo tháp trong tương lai sẽ đem lại lợi ích cho chúng sinh quanh vùng cũng như toàn thể người dân Việt Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18416)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19892)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19582)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33472)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34590)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54587)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37799)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21191)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17947)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63746)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17439)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49744)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16904)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16415)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14514)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22526)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57063)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13889)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29053)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33370)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38433)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31279)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13942)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14655)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14319)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12673)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14861)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19231)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13853)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12703)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30446)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11867)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30722)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29441)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30656)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31267)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37152)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32308)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23726)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12249)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14244)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14115)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34017)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27772)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12478)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28684)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29415)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12452)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29281)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28065)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25721)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26081)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22310)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33186)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31844)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39625)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22485)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34518)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27390)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28431)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant