Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

2. Nội dung

08 Tháng Năm 201100:00(Xem: 6666)
2. Nội dung

THIỀN LÀ GÌ?
Thích Thông Huệ
Nhà xuất bản Phương Đông TP. HCM 2002

CHƯƠNG HAI: NHƯ HUYỄN

II. NI DUNG

1.) T Lý Nhân-duyên đến Tánh Không

Về mặt tc đế, Đức Phật thuyết giảng lý Nhân-duyên giải thích sự thành hình của tất cả các pháp, đồng thời bài bác 4 luận thuyết của ngoại đạo đương thời:

1- Thuyết t sanh: Các pháp được sanh ra từ chính bản thể của nó.

2- Thuyết tha sanh: Các pháp sanh từ bản thể của những pháp khác.

3- Thuyết cng sanh: Pháp này nhờ pháp kia mà sanh và ngược lại.

4- Thuyết vô nhân sanh: Các pháp ngẫu nhiênhiện hữu, không cần có điều kiện hay nguyên nhân nào.

Lý Nhân-duyên cắt nghĩa sự thành lập của các pháp là do nhân và duyên kết hợptác động. Trong đó, nhân yếu tố quyết định, không thể thiếu; duyên  là những điều kiện hỗ trợ. Ví dụ: Để có cây lúa (một pháp), phải có hạt lúa là nhân, cùng kết hợp với các duyên là đất, nước, ánh sáng mặt trời, người nông phu... Từ lý Nhân-duyên, Đức Phật triển khai thành lý Nhân-quả thế gianxuất thế (tức Tứ Diệu Đế) cho các vị Thanh Văn, và Thập nhị nhân duyên cho các bậc Duyên Giác. Tu theo con đường này, hành giả phá được ngã chấp, cuối cùnggiải thoát khỏi luân hồi sanh tử. Chúng ta thường gọi đây là con đường của Nhị thừa.

Đối với Bồ-tát Đại thừa, các Ngài do quán triệt lý Nhân-duyên đưa đến nhận thức đúng đắn về các pháp. Từ những pháp hữu hình đến vô hình (không thấy được bằng mắt thường như không khí), từ hiện tượng vật chất đến tinh thần (cảm thọ, nhận thức...), chúng đều không thể tự mình hình thành mà phải nhờ nhân và duyên sanh ra. Đến lượt các nhân duyên ấy, vì chúng cũng là các pháp, nên cũng phải cần các nhân duyên khác tạo nên. Từ đó, chúng chuyển biến sinh diệt, làm nhân duyên cho pháp này rồi lại là quả của những nhân duyên khác, không biết đâu là bắt đầu và đâu là tận cùng. Đức Phật gọi là “trùng trùng duyên khi.

Như vậy, các pháp đều không phải thật không và cũng không thật có. Chúng không thật là không, vì con người có thể cảm nhận chúng bằng giác quan; chúng không thật có vì chúng do các pháp khác tạo thành, nên không có tự thể. Vì thế, tánh của chúng là Không, nhờ duyên hợp nên giả có. Đây là tinh thần của hệ Bát-nhã, hiển bày Tánh Không  của tất cả các pháp. Dùng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu tường tận thật tánh các pháp, thấu triệt Pháp tánh, Bồ-tát phá được ngã chấppháp chấp, cả pháp thế gian lẫn pháp xuất thế gian. Nhà Phật gọi là con đường của Bồ-tát thừa.

2.) Tánh Không và Lý Như-Huyn

Đức Phật tuyên bố, vạn pháp đều như huyễn, để nói lên tính bất thực của chúng. Đó là đứng trên bình diện chơn đế, nhìn vạn pháp bằng cái nhìn “đương th tc không.

Đối với các nhà khoa học, thuyết Big Bang là một giả thuyết táo bạo và vĩ đại nhằm giải thích sự thành lập của vũ trụ. Nhưng trong giáo lý nhà Phật, vũ trụ không chỉ trải qua một chu kỳ thành - tr - hoi - không, mà đã - đang và sẽ tiếp diễn vô lượng chu kỳ như thế, không có khởi đầu cũng không có kết thúc - tin tin vô thy, hu hu vô chung. Thế giới hiện tượnghữu vi duyên khởi, sanh sanh diệt diệt tương duyên tương tác. Không pháp nào trong vũ trụ lại đứng yên, mà luôn luôn chuyển động đổi mới. Ngay cả phần vĩ mô nhất là toàn bộ vũ trụ, cũng thay đổi mỗi ngày. Hình thái của vũ trụ, mà một số nhà Vật lý học hàng đầu thế giới đã phác hoạ trong những công trình thực nghiệm và tư duy, thật ra chỉ là một phần rất nhỏ những cảnh giới mô tả một cách tuyệt vời trong Kinh Hoa Nghiêm. Tuy nhiên, từ những hạt Quartz (được cho là yếu tố nhỏ nhất cấu tạo thế giới) cho đến toàn thể thực tại trùng trùng duyên khởi, không có pháp nào hiện hữu mà không được tạo thành từ những nguyên nhân khác. Do vậy, tất cả chỉ là huyn mng, dù là thế giới vi mô hay vĩ mô.

Con người chúng ta, từ trước đến giờ đã trải qua bao kiếp sống; và từ giờ trở về sau, sanh sanh tử tử vẫn tiếp nối không dừng. Gọi là “tử” nhưng thật sự, chỉ là sự thay đổi của thân từ dạng thái này sang dạng thái khác, từ thân tin m (con người hiện tại) chuyển qua trung m (lúc lìa đời); khi đủ duyên lại gá vào thân hu m, tiếp tục một chu kỳ sanh tử khác với một hoàn cảnh chánh báoy báo khác. Đáo cùng, nhắm mắt lìa đời không phải là thật sự xa lìa trần tục, mà chỉ là tạm thời ngưng cuộc sống ở nơi này để tiếp nối cuộc sống nơi kia. Cho nên, không có thật sanh cũng không có thật diệt, tất cả chỉ trong huyễn mộng mà thôi.

Điều lầm lẫn nhất của con ngườichạy theo hình tướng mà quên bản chất, chạy theo Sc mà quên tự tánh Không, nên không có sự hiểu biết như thật về tất cả các pháp. Sc  là do đủ duyên mà hiện hữu nên là Huyn,Không bản thể nên Như. Huyễn từ Như mà có, biểu hiện tác dụng; muốn thâm nhập Như thì phải từ Huyễn mà vào. Nói cách khác, Sắc là dụng của Không, Không là thể của Sắc; khi đủ duyên thì khởi ra Sắc, khi duyên tan thì Sắc trở về Không. Do vậy, Huyễn không bao giờ rời Như, Sắc chẳng thể nào lìa Không được. Hiểu điều này, ta sẽ thấy rõ ràng Ta-bà là Tịnh-độ, phiền não tức Bồ-đề. còn

hiện tượng không thể nào tách rời khỏi bản chất và ngược lại, nên các vị Thiền sư ngộ đạo là ngộ ngay s hu, từ đó thấu thể cả s vô. Các Ngài thấy rõ vạn pháp đều vô thường theo thời gianduyên sinh trên bình diện không gian, nên chúng hiện hữu trong sự chuyển động và giả hợp. Nhưng trong lòng những chuyển động và giả hợp của sự hữu, luôn luôn hiện diện đặc tính bất biến và thống nhất của sự vô. Mặt khác, do con người luôn khởi niệm duyên theo trần cảnh, tâm không lúc nào dừng trụ, nên các pháp biểu hiện bên ngoài đều vô thường. Trái lại, các Ngài trở về trạng thái như của tâm, nên thấy các pháp đều Như. Có thể nói, tâm tịnh thì thế giới tịnh, tâm Như các pháp Như, tâm bình thế giới bình. Các Ngài vẫn ở trong cuộc đời làm lợi ích cho chúng sanh, ở trong thường tục mà vẫn siêu tục, tự tại an nhiên trước mọi khó khăn chướng ngại, ngay cả trước tử thần !

Bài Minh của Tổ Qui Sơn có đoạn:

 Huyn thân mng trch

 Không trung vt sc

 Tin tế vô cùng

 Hu tế ninh khc.

Thân huyễn trong nhà mộng, tất cả vật sắc đều ở trong hư không. Vật sắc ấy, mé trước là vô cùng, còn mé sau có ai biết được ? Thân chúng sanh là huyễn, thân Thánh nhân cũng huyễn, sống trong nhà mộng tam giới; nhưng phàm phu si mê chấp thân là thật nên không từ một thủ đoạn nào để bảo vệ và tô bồi cho cái ngã, đôi khi còn nhân danh Thượng Đế tiến hành những cuộc thánh chiến đẫm máu. Còn các bậc Thánh nhân, tuy mang thân huyễn mà tâm vẫn ở trong Như, vì thấu rõ lý Sắc - Không. Vũ trụ vạn phápvô thủy vô chung, nhưng luôn hiển hiện một chân lý ngàn đời: Tất cả vật sắc, lúc đủ duyên thì giả hợp thành sự hữu, khi hết duyên lại trở về sự vô. Sự hữu (Sắc) là giả tướng, biểu tướng; sự vô (Không) là tự thể, bản chất. Cả hai không thể tách rời nhau, cũng như giữa tâm và cảnh, giữa tạo chủ và tạo vật, đều bất khả phân ly như thế.

Trang t Nam Hoa kinh kể chuyện Trang tử nằm mộng thấy mình hóa bướm, khi tỉnh dậy không biết “Chu là bướm hay bướm là Chu. Câu chuyện này có một ý nghĩa rất sâu sắc, nhằm diễn tả một thực tại ly ngôn ngữ. Đây là trạng thái vô tâm, hòa nhập nhất như giữa tâm và cảnh, giữa mình và vạn pháp. Khi tâm hoàn toàn tĩnh lặng, vẫn thấy nghe hiểu biết mà không xen tạp một ý niệm nào, chúng ta sẽ nhận ra vũ trụ rất nhiệm mầu vi mật, không thể đem thức tình tầm thường mà đo được. Chúng ta cũng nhận ra rằng, cõi giới của mình là cõi phàm - Thánh đồng cư, như cõi Cực lạc của Phật A-Di-Đà. Không phải tìm Niết-bàn ở một nơi nào xa lạ, mà chỉ ngay mảnh đất hiện tại bây gi và đây.

Một điều quan trọng cần lưu ý, chúng ta đừng bao giờ hiểu lầm Đức Phật thuyết lý Như-Huyễn là phủ nhận sự hiện hữu của các pháp. Ngài không từ chối thế giới hiện thực mà nhằm phát sinh tri kiến như thật, để chúng ta nhận ra các pháp đang là. Thiền sư Từ Đạo Hạnhbài kệ soi sáng ý nghĩa này:

  Tác hu trn sa hu

 Vi không nht thiết không

 Hu không như thy nguyt

 Vt trước hu không không.

 Tạm dịch:

 Chp có, thy đều có

 Chp không, tt c không

 Có - Không, trăng đáy nước

 Ch chp Có cùng Không.

Nếu cho mọi pháp là thật thì chúng đều thật có - đây là cực đoan thứ nhất; nếu chấp tất cả đều không, thì chúng sẽ thật không - cực đoan thứ hai. Cả hai cực đoan, chấp thường và chấp đoạn, đều không hội được liễu nghĩa thượng thừa. Thường và đoạn, có và không ví như bóng trăng dưới nước, nhìn thì thấy nhưng không vớt lên được, nên không thật có cũng chẳng thật không. Nhà Phật phủ nhận cả chấp thường lẫn chấp đoạn mà theo con đường Trung đạo, tinh thần của Lý Như Huyễn.

3.) Như Huyn và Chân Không

Theo giáo lý Phật Đà, chúng sanh do nghiệp thức dẫn lôi, luân hồi trong ba cõi:

1. Cõi Dc: Chúng sanh còn đam mê ngũ dục, thân thô tâm thô. Tùy nghiệp thiện ác mà vào ra trong sáu đường: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh, A-tu-la, Người, Trời. Cảnh giới thuần khổ là Địa ngục, nửa khổ nửa vui là Người, thuần vui là Trời gồm 6 cõi Trời Dục, dành cho người tu phước báo hữu vi.

2. Cõi Sc: Đây là cảnh giới của người tu Thiền định, gồm bốn bậc: Sơ thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền. Thân tướng tuy vẫn là sắc chất nhưng là vật chất vi tế, rất cao lớn đẹp đẽ, không còn giới tính nam nữ. Thân vi tế, tâm thiền định.

3. Cõi Vô Sc: Gồm Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở cõi này, chúng sanh tự tại vô ngại, dùng “thân định quả” tức lấy sức Thiền định làm thân; không còn thân sắc chất nhưng còn tâm phân biệt vi tế.

Các cõi trên có chủ thể nhận thức và đối tượng nhận thức khác nhau, nhưng tất cả không ngoài lý Như-Huyễn. Bởi vì, những gì có hình tướng, dù thân thô hay tế, dù tâm Thiền định mà còn một niệm nhỏ nhiệm, cũng thuộc về sinh diệt, cũng đều là Huyễn.

Mặt khác, những loài chúng sanh khác nhau có nhận thức về thế giới khác nhau. Như trên cùng một dòng sông, loài người nhìn thấy toàn nước, con cá thấy đó là thế giới cho nó sống và bơi lội, ngạ quỷ thấy toàn là máu, chư Thiên lại cho là một dải lưu ly. Cho nên, thế giớicon người tưởng-tri thức-tri được, không phải là thế giới tồn tại khách quan ngoài tâm thức, mà chính do tâm thức biến hiện ra. Duy thc s biến duy tâm s hin, vì thế tất thảy đều là mộng ảo. Như khi nằm mộng, ta thấy rõ ràng có người có cảnh, tâm ta cũng biến thiên theo cảnh theo người; đến lúc tỉnh giấc, những gì xảy ra trong chiêm bao có phải là thật đâu? Đó là tiểu mộng, còn bao nhiêu năm cuộc đời ta, là một trường đại mộng, cũng qua đi như một giấc chiêm bao. Thuần Vu Phần nằm ngủ dưới gốc cây hòe, mơ thấy mình thi đỗ làm quan, được vua gả công chúa; sau đó nhận lệnh vua đánh giặc, thất trận, công chúa chết, vua bắt tội xử đi đày. Giật mình tỉnh giấc mới biết chỉ là giấc mộng, trên cành cây ở hướng Nam chỉ có một ổ kiến. Thật là:

 Gic Nam-kha khéo bt bình

Bng con mt dy thy mình tay không.

Biết cuộc đờimộng huyễn, không phải để chúng ta cam phận, chấp nhận khổ đau; càng không phải để chúng ta chán nản buông trôi, mặc dòng đời xô đẩy. Chúng ta ý thức mình đang hiện hữu nơi cảnh giới này cùng mọi người, là do nghiệp thức cộng trụ kết hợp với biệt nghiệp của từng người. Biệt nghiệp thì không ai giống ai, nên số phận mỗi người mỗi khác; nhưng cộng nghiệp người không khác nên sống chung một môi trường, chịu chung một hoàn cảnh thiên tai dịch họa... Và rồi, dù chánh báo hay y báo, dù biệt nghiệp hay cộng nghiệp, tất cả đều là huyễn, vậy thôi!

Dù sao đi nữa, ở cõi người có khổ có vui mới dễ làm ta thức tỉnh, tinh tấn tu hành dễ được thoát khổ. Nếu thuần khổ như Địa ngục, đói khát như Ngạ quỷ hoặc si mê như Súc sanh, làm sao có cơ hội tỉnh giác? Ngược lại, cõi trời quá vui quá sướng, chúng sanh đắm chìm trong đó còn ước ao gì hơn nữa; đến khi hết phước hiện tướng đọa đày, thức tỉnh thì đã muộn. Chư Phật Bồ-tát thương xót chúng sanh vô minh tăm tối, nên bằng mọi phương tiện cứu độ muôn loài thoát khỏi ngục tù tam giới.

Thiền sư Thanh-Đàm Minh-Chánh nói:

 Công danh cái thế màn sương sm

 Phú quý kinh nhân gic mng dài.

 Chng hiu bn lai vô nht vt

 Công phu lung ung mt đời ai.

công danh cao tột thế gian hay phú quý đến độ người người đều khiếp sợ, cũng chỉ như màn sương buổi sớm hay giấc mộng đêm qua, có gì là thật. Vậy thì, con người phải định vị mình ở nơi đâu ? Đây là câu hỏi thiết yếu mà mỗi chúng ta cần tự đặt ra và tự giải đáp.

Đối với người thế gian, “công phu” kiến thức kinh nghiệm học hỏi thu thập được trong quá trình sống và làm việc, là sự nghiệp công danh, là thành công trong xã hộihạnh phúc trong gia đình. Mọi người hầu như đem hết tâm lực cốt đạt được những điều mong ước đó. Đối với hàng xuất gia, “công phu”tích lũy một số kiến thức Phật học và thế học, có trú xứ ổn định, có tăng thân thanh tịnh hòa hợp cùng giúp đỡ nhau tu hành, ngày càng giảm thiểu phiền não khổ đau ở thân và tâm. Tuy nhiên, cả hai khía cạnh vật chấttinh thần nêu trên chưa phải là hạnh phúc tột cùng, miên viễn và đích thực. Đời tu chỉ thật sự có ý nghĩa khi hiểu được và đạt được mục đích: Trở về với con người tht của chính mình và sống bằng con người thật ấy. Muốn không để “luống uổng một đời”, người tu phải quán triệt tư tưởngvô nht vt, danh từ của Lục Tổ Huệ-Năng. 

Chúng ta nhớ lại câu chuyện ngộ đạo của Lục Tổ: Khi Ngũ Tổ Hoằng-Nhẫn gọi Ngài vào phương trượng giảng kinh Kim Cang, Ngài vẫn còn là cư sĩ làm việc dưới nhà trù. Trong kinh có đoạn Đức Phật trả lời câu hỏi của Ngài Tu Bồ Đề: “Làm sao an tr tâm?. Phật dạy rằng: “Không nên tr vào sc mà sanh tâm; không nên tr vào thanh, hương, v, xúc, pháp sanh tâm. Phi ngay nơi ch không tr mà sanh tâm y. Tâm y tức tâm Vô thượng Bồ-đề. Lời dạy của Đức Phật, mới nghe chúng ta chỉ hiểu là phải đặt trọng tâm ở chỗ không dính mắc với sáu trần. Vì sao không nên dính mắc vào trần cảnh ? - Vì trần cảnhduyên sinh giả hợp, tự tánh của chúng là không. Nhưng nếu khéo nhìn sâu hơn, hành giả phải tự nghi vấn: “Nếu tt c các pháp đều Không, thân tâm cũng Không, vy cái gì gii thoát ? Cái gì rõ biết Tánh Không ? Cư sĩ Huệ-Năng là một bậc pháp khí thượng thừa, nên từ lời dạy ấy, Ngài nhận ngay ra tâm thể thường hằng của chính mình. Tâm này lặng lẽ, không có hình tướng nên không thuộc về ; nhưng nó hằng tri hằng giác, biết một cách thấu thể mọi sự vật hiện tượng trong tận cùng pháp giới, nên không thuộc về Không. Vì vậy, nó được gọi là Chân - Không, cũng là Phật tánh, là Pháp thân, là Bản lai diện mục, là tâm Thiền...

Bằng tâm Thiền, các Ngài nhìn toàn thể sự vật bằng cái thấy như th, không xâm phạm đến bản vị của các pháp mà vẫn hiểu một cách tột cùng bản chất của chúng. Đức Phật gọi đó là Pht tri kiến - Cái thấy biết Phật. Có cái thấy biết này, các Ngài khởi phát diệu dụng không thể nghĩ bàn. Chính là Chân Không  sinh Diu Hu. Chân Không là tâm thể, Diệu Hữu là tâm dụng. Nhờ Diệu Hữu, các Ngài có vô số phương tiện quyền xảo để giáo hóa chúng sanh. Các Ngài dọc ngang tung hoành, làm ngược làm xuôi, đôi lúc có những hành động ngôn ngữ vượt thường mà người đời không đoán định nổi. Bàng Long Uẩn khi liễu đạt lý Thiền, đem hết của cải đổ xuống sông. Thiền sư Đơn Hà đốt tượng Phật ở chùa Huệ Lâm, làm Viện chủ Hướng “rụng cả lông mày”. Thiền sư Nam Tuyền giơ con mèo lên, cả đại chúng không ai nói được, Ngài đành chém con mèo. Gia tài sự sản bị vất hết, tượng Phật bị đốt, con mèo bị chém..., tất cả vì ai? Tất cả chuyện này có ý nghĩa gì? Cũng như Đức Phật, đã thành Bậc Chánh Giác nhưng mỗi ngày Ngài đều tọa thiền. “Na-Già thường ti định, Ngài đạt định trong mọi thời khắc, mọi nơi chốn, cần chi phải tọa thiền? Đây là những điều chúng ta cần suy gẫm.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18437)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19924)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19604)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33516)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34663)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54620)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37865)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21215)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17958)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63788)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17456)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49780)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16927)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16459)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14528)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22555)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57121)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13901)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29089)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33392)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38456)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31304)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13958)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14672)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14338)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12709)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14887)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19248)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13871)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12713)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30498)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11896)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30787)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29474)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30691)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31338)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37220)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32346)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23767)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12269)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14259)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14122)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34061)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27806)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12499)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28722)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29474)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12476)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29324)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28120)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25762)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26115)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22343)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33235)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31882)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39691)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22542)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34574)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27423)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28481)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant