Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

25. Saanen, ngày 1 tháng 8 năm 1965

30 Tháng Sáu 201100:00(Xem: 7600)
25. Saanen, ngày 1 tháng 8 năm 1965

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Saanen, ngày 1 tháng 8 năm 1965

Làm ơn, như tôi đã nói vào một ngày trước, người nói không quan trọng; điều gì ông ta nói mới quan trọng, bởi vì điều gì ông ta nói là tiếng nói của cái tôi riêng của bạn đang thốt ra lời. Qua những từ ngữ mà người nói đang sử dụng, bạn đang lắng nghe chính bạn, không phải đang lắng nghe người nói, vì vậy người lắng nghe trở nên quan trọng cực kỳ. Lắng nghe là học hỏi, và không tích lũy. Nếu bạn tích lũy hiểu biết và lắng nghe từ tích lũy đó, từ nền tảng hiểu biết của bạn, vậy thì bạn không đang lắng nghe. Chỉ khi nào bạn lắng nghe thì bạn mới học hỏi. Bạn đang học hỏi về chính bạn, và vì vậy bạn phải lắng nghe cẩn thận, bằng chú ý tổng thể, và chú ý không thể có được khi bạn nhận xét, chỉ trích, hay đánh giá điều gì bạn đang nghe. Vậy thì bạn không đang lắng nghe, bạn không đang trực nhận, không đang thấy. 

 
Nếu bạn ngồi trên bờ một con sông sau một cơn bão, bạn thấy dòng nước trôi qua mang theo nhiều mảnh vụn. Tương tự như thế, bạn phải nhìn ngắm chuyển động của chính bạn, theo sát mỗi suy nghĩ, mỗi cảm thấy, mỗi ý định, mỗi động cơ. Chỉ nhìn ngắm nó; nhìn ngắm đó cũng là lắng nghe. Nó đang tỉnh thức bằng đôi mắt của bạn, bằng đôi tai của bạn, bằng thấu triệt của bạn, được tất cả những giá trịcon người đã tạo ra, và qua đó bạn bị quy định. Chỉ trong trạng thái tỉnh thức tổng thể này sẽ kết thúc mọi tìm kiếm.
 
Như tôi đã nói, tìm kiếm và tìm được là một lãng phí năng lượng. Khi chính cái trí không rõ ràng, hoang mang, sợ hãi, đau khổ, lo âu, sự tốt lành của đang tìm kiếm là gì? Từ hỗn loạn này, bạn có thể tìm được cái gì ngoại trừ hỗn loạn nhiều thêm? Nhưng khi có sự rõ ràng bên trong, khi cái trí không bị sợ hãi, không đòi hỏi an toàn, vậy thì không có tìm kiếm và không có tìm được. Muốn thấy Thượng đế, sự thật, không là một hành động tôn giáo. Hành động tôn giáo duy nhất là bắt gặp sự rõ ràng bên trong này qua hiểu rõ về chính mình; đó là, qua tỉnh thức được tất cả những bắt chước, những ham muốn thầm kín của người ta và cho phép chúng bộc lộ, không bao giờ sửa chữa, kiểm soát, hay buông thả, nhưng luôn luôn nhìn ngắm chúng. Từ nhìn ngắm liên tục đó kia kìa sự rõ ràng, nhạy cảm lạ thường đến, và một bảo toàn cực kỳ của năng lượng. Và người ta phải có năng lượng vô biên, bởi vì tất cả hành động là năng lượng, cuộc sống chính nó là năng lượng. Khi chúng ta bị đau khổ, lo âu, cãi cọ, ganh tị, khi chúng ta bị sợ hãi, khi chúng ta cảm thấy bị sỉ nhục hay được nịnh nọt – tất cả việc đó là một lãng phí năng lượng. Cũng là một lãng phí năng lượng khi bị bệnh, thuộc thân thể hay bên trong. Mọi thứ chúng ta làm, suy nghĩ, và cảm thấy là một tuôn trào của năng lượng. Hoặc chúng ta hiểu rõ sự lãng phí của năng lượngvì vậy từ hiểu rõ đó có một hội tụ cùng nhau tự nhiên của tất cả năng lượng, hoặc chúng ta tiêu xài cuộc đời của chúng ta vào sự đấu tranh để mang lại cùng nhau vô số những diễn tả mâu thuẫn của năng lượng, hy vọng từ vòng ngoài đó đến được bản thể.
 
Bản thể của tôn giáothiêng liêng, mà không liên quan gì đến những tôn giáo có tổ chức, cũng không liên quan gì đến cái trí bị trói buộc và bị quy định bởi một niềm tin, một giáo điều. Đối với một cái trí như thế không có gì là thiêng liêng cả ngoại trừ vị Thượng đế nó đã sáng chế, hay nghi lễ nó đã sắp xếp vào cùng, hay vô số những cảm xúc nó rút ra từ lời cầu nguyện, từ thờ phụng, từ hiến dâng. Nhưng những sự việc này không thiêng liêng gì cả. Không có gì thiêng liêng về giáo điều, về nghi lễ, về cảm tính hay cảm xúc. Thiêng liêng là chính bản thể của một cái trí tôn giáo, và đó là điều gì chúng ta sẽ khám phá. Chúng ta không quan tâm đến cái gì được giả sửthiêng liêngbiểu tượng, từ ngữ, con người, bức tranh, một trải nghiệm đặc biệt, mà tất cả đều là trẻ con – nhưng quan tâm đến bản thể. Về phần của mỗi người chúng ta, điều đó đòi hỏi một hiểu rõ mà đến qua nhìn ngắm, hay tỉnh thức, trước hết được những sự việc bên ngoài. Cái trí không thể lướt trên thủy triều của tỉnh thức bên trong nếu trước hết không tỉnh thức được cách ứng xử bên ngoài, những cử chỉ, những quần áo, những hình thể, kích cỡ và màu sắc của một cái cây, hình dáng của một con người, của một ngôi nhà. Nó cũng cùng là thủy triều đi vào và đi ra, và nếu bạn không biết được thủy triều bên ngoài, bạn sẽ không bao giờ biết được thủy triều bên trong là gì.
 
Làm ơn hãy lắng nghe điều này. Hầu hết chúng ta nghĩ rằng tỉnh thức là một điều gì đó bí mật phải được luyện tập, và rằng chúng ta nên tụ họp cùng nhau từ ngày sang ngày để nói chuyện về tỉnh thức. Bạn không thể đến được tỉnh thức theo lối đó. Nhưng nếu bạn tỉnh thức được những sự vật phía bên ngoài – khúc quanh của con đường, hình thể của một cái cây, màu sắc quần áo của người khác, đường nét của những hòn núi tương phản một bầu trời xanh, sự tinh tế của một bông hoa, vẻ đau khổ trên khuôn mặt của một người qua đường, sự ngu dốt, ganh tị, ghen tuông của những người khác, vẻ đẹp của quả đất – vậy thì bởi vì thấy tất cả những sự việc sự vật bên ngoài này mà không chỉ trích, không chọn lựa, bạn có thể lướt trên thủy triều của tỉnh thức bên trong. Vậy thì bạn sẽ trở nên tỉnh thức được những phản ứng riêng của bạn, những nhỏ nhen riêng của bạn, những ganh tị riêng của bạn. Từ tỉnh thức bên ngoài, bạn tiến vào bên trong; nhưng nếu bạn không tỉnh thức được bên ngoài, bạn không thể tiến vào bên trong.
 
Khi có tỉnh thức bên trong được mọi hoạt động của cái trí và thân thể của bạn, khi bạn tỉnh thức được những tư tưởng của bạn, những cảm thấy của bạn, cả thầm kín lẫn hiển lộ, có ý thức hay không ý thức, vậy thì từ tỉnh thức này có một rõ ràng mà không bị thôi thúc, không bị xếp đặt vào chung bởi cái trí. Và nếu khôngrõ ràng đó, bạn có lẽ làm điều gì bạn muốn, bạn có lẽ tìm kiếm những bầu trời và những quả đất, và những biển sâu, nhưng bạn sẽ không bao giờ tìm ra cái gì là sự thật.
 
Vì vậy con người muốn khám phá điều gì là sự thật phải có nhạy cảm của tỉnh thức, mà không là luyện tập sự tỉnh thức. Luyện tập sự tỉnh thức chỉ dẫn đến thói quen, và thói quen là hủy diệt tất cả nhạy cảm. Bất kỳ thói quen nào, dù là thói quen ái ân, thói quen nhậu nhẹt, thói quen hút thuốc, hay bất kỳ điều gì bạn muốn, đều làm cho cái trí mất nhạy cảm; và một cái trí vô cảm, ngoài sự lãng phí năng lượng, trở nên đờ đẫn. Một cái trí nhỏ nhen, bị quy định, nông cạn, đờ đẫn có lẽ uống một viên thuốc và trong một giây nó có lẽ có một trải nghiệm kinh ngạc, nhưng nó vẫn còn là một cái trí nhỏ nhen. Điều gì bây giờ chúng ta đang làm là tìm ra làm thế nào kết thúc sự nhỏ nhen của cái trí. 
 
Nhỏ nhen không được kết thúc bởi thâu lượm thông tin thêm nữa, hiểu biết thêm nữa, bởi lắng nghe âm nhạc nổi tiếng, bởi trông thấy những mảnh đất đẹp của thế giới, và vân vân; nó không liên quan gì đến tất cả việc đó. Điều gì mang lại sự kết thúc của nhỏ nhen là sự rõ ràng của hiểu rõ về chính mình, sự chuyển động của cái trí mà không có những giới hạn. Chỉ một cái trí như thế mới là tôn giáo.
 
Bản thể của tôn giáothiêng liêng; nhưng thiêng liêng không ở trong bất kỳ nhà thờ, trong bất kỳ đền chùa, trong bất kỳ thánh đường, trong bất kỳ hình ảnh nào. Tôi đang nói về bản thể và không phải về những sự việc mà chúng ta gọi là thiêng liêng. Khi người ta hiểu rõ bản thể của tôn giáo này, mà là thiêng liêng, vậy thì cuộc sống có một ý nghĩa hoàn toàn khác hẳn; vậy thì mọi thứ có vẻ đẹp, và vẻ đẹp là thiêng liêng. Vẻ đẹp không là cái bị kích động. Khi bạn trông thấy một hòn núi, một tòa nhà, một con sông, một thung lũng, một bông hoa, hay một khuôn mặt, bạn có lẽ nói nó đẹp bởi vì bạn bị kích động bởi nó, nhưng vẻ đẹp mà tôi đang nói không cần kích động gì cả. Nó là vẻ đẹp không được tìm ra trong bất kỳ bức ảnh, trong bất kỳ biểu tượng, trong bất kỳ từ ngữ, trong bất kỳ âm nhạc nào. Vẻ đẹp đó là thiêng liêng. Nó là bản thể của một cái trí tôn giáo, của một cái trí rõ ràng trong hiểu rõ về chính mình của nó. Người ta bắt gặp được vẻ đẹp đó, không bởi ham muốn, ước ao, mong đợi có trải nghiệm, nhưng chỉ khi nào mọi ham muốn có trải nghiệm kết thúc; và đó là một trong những sự việc khó khăn nhất cần hiểu rõ.
 
Như tôi đã vạch rõ từ trước, một cái trí đang tìm kiếm trải nghiệm vẫn còn đang chuyển động ở chu vi, và sự diễn giải về mỗi trải nghiệm sẽ tùy thuộc vào tình trạng bị quy định đặc biệt của bạn. Dù bạn là một người Thiên chúa giáo, một người Phật giáo, một người Hồi giáo, một người Ấn độ giáo, hay một người cộng sản, bất kỳ bạn là người nào, những trải nghiệm của bạn rõ ràng bị diễn giải và bị quy định tùy theo nền tảng quá khứ, và bạn càng đòi hỏi nhiều trải nghiệm bao nhiêu, bạn đang củng cố nền tảng đó mạnh mẽ thêm bấy nhiêu. Qui trình này không là một cởi bỏ của đau khổ, cũng không phải một kết thúc cho đau khổ; nó chỉ là một tẩu thoát khỏi đau khổ. Một cái trí rõ ràng trong hiểu rõ về chính mình của nó, một cái trí là chính bản thể của rõ ràng và ánh sáng, không có nhu cầu của trải nghiệm. Nó là cái gì nó là. Vì vậy rõ ràng hiện diện qua hiểu rõ về chính mình, và không qua sự dạy bảo của người khác, dù anh ấy là một văn sĩ khôn ngoan, một nhà tâm lý học, một triết gia, hay một vị thầy tạm gọi là tôn giáo.
 
Không có thiêng liêng nếu không có tình yêu và hiểu rõ về chết. Bạn biết không, nó là một trong những sự việc tuyệt vời nhất trong cuộc sống khi khám phá được cái gì đó một cách bất ngờ, tự phát, bất chợt bắt gặp cái gì đó mà không định trước, và ngay tức khắc thấy vẻ đẹp, thiêng liêng, sự thật của nó. Nhưng một cái trí đang tìm kiếm và đang ao ước tìm ra không bao giờ ở trong vị trí đó. Tình yêu không là một sự việc để được vun quén. Tình yêu, giống khiêm tốn, không thể được xếp đặt vào chung bởi cái trí. Chỉ một con người hão huyền mới gắng sức để được khiêm tốn; chỉ con người kiêu ngạo mới tìm kiếm và gạt đi sự kiêu ngạo của anh ấy qua luyện tập sự khiêm tốn. Luyện tập sự khiêm tốn vẫn còn là một hành động của kiêu ngạo. Muốn lắng nghe và vì vậy học hỏi, phải có một chất lượng tự phát của khiêm tốn; và một cái trí đã hiểu rõ bản chất của khiêm tốn không bao giờ tuân theo, không bao giờ vâng lời. Bởi vì làm thế nào cái đó mà hoàn toàn phủ nhận, trống không, lại có thể vâng lời hay tuân theo bất kỳ người nào? 
 
Một cái trí mà từ sự rõ ràng của hiểu rõ về chính mình riêng của nó đã khám phá được tình yêu là gì, cũng sẽ ý thức được bản chất và cấu trúc của chết. Nếu chúng ta không chết đi quá khứ, chết đi mọi thứ của ngày hôm qua, vậy thì cái trí vẫn còn bị trói buộc trong những khao khát của nó, trong những cái bóng của ký ức, trong tình trạng bị quy định của nó, và vì vậy không có rõ ràng. Muốn chết đi ngày hôm qua một cách dễ dàng, một cách tự nguyện, không tranh cãi hay đánh giá, cần năng lượng. Tranh cãi, đánh giá, và chọn lựa là một lãng phí năng lượng, và vì vậy người ta không bao giờ chết đi nhiều ngày hôm qua, để cho cái trí có thể được làm trong sáng và mới mẻ. Khi một lần có sự hiểu rõ về chính mình, vậy thì tình yêu cùng sự hòa nhã của nó theo sau; và kia kìa có một chất lượng tự phát của khiêm tốn, và cũng cả tự do này khỏi quá khứ qua chết.
 
Và từ tất cả việc này sáng tạo hiện diện. Sáng tạo không là tự diễn tả, nó không là một vấn đề quét sơn lên tấm vải, hay viết vài hay nhiều từ trong dạng một quyển sách, hay làm bánh mì trong nhà bếp, hay tạo ra một đứa bé. Không có gì trong tất cả việc đó là sáng tạo. Có sáng tạo chỉ khi nào có tình yêu và chết. Sáng tạo chỉ có thể hiện diện khi có chết đi hàng ngày đối với mọi thứ, để cho khôngsự tích lũy như ký ức. Rõ ràng bạn phải có một chút xíu tích lũy trong cách bạn ăn mặc, một ngôi nhà, và tài sản cá nhân, tôi không đang nói về việc đó. Chính ý thức bên trong của tích lũychiếm hữu của cái trí – từ đó phát sinh sự thống trị, uy quyền, tuân phục, vâng lời – chính cái đó ngăn cản sáng tạo, bởi vì một cái trí như thế không bao giờ được tự do. Chỉ một cái trí tự do mới biết chết là gì và tình yêu là gì; và chính cái trí đó một mìnhsáng tạo. Trong trạng thái này, cái trí là tôn giáo. Trong trạng thái này có thiêng liêng.
 
Đối với tôi từ ngữ thiêng liêng có một ý nghĩa lạ thường. Làm ơn, tôi không đang tuyên truyền từ ngữ đó, tôi không đang tìm kiếm để thuyết phục bạn về bất kỳ điều gì, và tôi không đang cố gắng khiến bạn cảm thấy hay trải nghiệm sự thật qua từ ngữ đó. Bạn không thể. Bạn phải trải qua tất cả việc này cho chính bạn, không phải bằng từ ngữ, nhưng thực sự. Bạn phải thực sự chết đi mọi việc bạn biết, chết đi những kỷ niệm của bạn, chết đi những đau khổ của bạn, chết đi những vui thú của bạn. Và khi không còn ghen tuông, không còn ganh ghét, không còn tham lam, không còn sự hành hạ của tuyệt vọng, vậy thì bạn sẽ biết được tình yêu là gì, và bạn sẽ bất chợt bắt gặp cái đó mà có lẽ được gọi là thiêng liêng. Vì vậy thiêng liêngbản thể của tôn giáo. Bạn biết không, một con sông lớn có lẽ bị ô nhiễm khi nó chảy qua một thị trấn, nhưng nếu ô nhiễm không quá nhiều con sông tự lọc sạch chính nó khi nó chảy qua, và trong vài dặm nó lại sạch sẽ, trong sáng, tinh khiết. Tương tự như vậy, khi một lần cái trí bắt gặp thiêng liêng này, vậy thì mọi hành động là một hành động lọc sạch. Qua chính chuyển động của nó cái trí đang tự làm vô nhiễm chính nó, và vì vậy nó không đang tích lũy. Một cái trí đã phát giác ra thiêng liêng này đang cách mạng liên tục, không phải cách mạng kinh tế hay xã hội, nhưng một cách mạng bên trong mà qua đó nó đang luôn luôn tự lọc sạch chính nó. Hành động của nó không bị đặt nền tảng trên ý tưởng hay công thức nào đó. Như con sông có một khối nước khổng lồ theo cùng, nó tự lọc sạch chính nó khi nó trôi chảy, vì vậy cái trí tự lọc sạch chính nó khi một lần nó đã bắt gặp thiêng liêng tôn giáo này.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19911)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19588)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33491)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34608)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54602)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37834)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21202)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17953)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63770)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17448)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49765)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16432)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14522)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57092)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13893)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29078)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38443)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31290)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13948)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14663)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12687)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13859)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30475)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11878)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30761)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29460)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30674)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31295)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32327)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23748)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12258)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34033)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12484)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28707)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29430)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29290)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28096)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26092)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22327)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31860)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39644)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22511)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34546)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28444)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant