Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

[151 - 160]

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 15541)
[151 - 160]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt


151. KHUYẾN CÁO CÁC THIẾU NỮ  

Một vị sư già đã từng trải qua một cuộc đời dài và sinh động, được giao cho vai trò tuyên huấn ở một học viện nữ sinh. Trong các cuộc thảo luận nhóm ông thường thấy rằng đề tài tình yêu đã trở thành đề mục chính.

Điều đó đã tạo thành lời khuyến cáo cho các thiếu nữ như vầy:

Các con hãy hiểu rằng trong đời sống bất cứ điều gì thái quá cũng trở thành nguy hiểm. Quá giận dữ trong chiến đấu có thể đưa đến liều lĩnh và cái chết. Quá nhiệt tình trong các niềm tin tôn giáo có thể đưa đến tâm trí khép kín và ngược đãi tôn giáo. Quá đam mê trong tình yêu tạo ra những mộng ảnh về người mình yêu -- những hình ảnhcuối cùng tỏ ra là giả và sinh ra giận dữ.

“Yêu thái quá là liếm mật trên mũi dao nhọn.”

Một thiếu nữ hỏi:

- Nhưng là một ông sư độc thân, thầy làm sao biết được tình yêu nam nữ?

Vị sư già đáp:

- Các con thân mến, có lúc ta sẽ kể cho các con nghe tại sao ta trở thành nhà sư.

  (Ngụ Ngôn Thiền)

 152. BẤT CỨ QUYỀN HẠN NÀO

Vị tổng quản các Thiền viện trên đảo Honshu trở nên phiền não vì các báo cáo về những hành vi xấu nghiêm trọng tại ngôi chùa đẹp nhất của họ ở thành phố hải cảng Yokosuka. Một thời nó đã là lâu đài rồi được cúng dường cho cộng đồng Thiền viện. Tăng chúng (cũng là người) khó mà nhớ lời thệ nguyện sống cảnh thanh bần trong tình thế lãng phí như vậy. Để đối phó tình trạng, ông gọi một trong những trưởng lão đang ẩn cư trong sơn động đến. 

 
Vị tổng quản nói:

- Tôi muốn trưởng lão điều tra những kẻ chịu trách nhiệm chuyện trụy lạc, chuyện mua bán sa đọa và những hành vi bất chính khác.

Vị trưởng lão hỏi:

- Nhiệm vụ của tôi là gì?

Tổng quản nói :

- Sửa chữa.

- Quyền hạn của tôi là gì?

- Bất cứ quyền hạn nào ông cần. Không hạn chế.

- Bao lâu?

- Bao lâu ông cần.

Hai tuần lễ sau vị trưởng lão trở về. Tổng quản hỏi:

- Về sớm thế?

- Vâng, đúng là sớm.

- Cách nào?

Vị trưởng lão đáp: 

- Lấy đuốc đốt sạch.

  (Ngụ Ngôn Thiền)

153. HÃY NÓI CHUYỆN TỪ BI TRƯỚC ĐÃ

Một cậu bé mồ côi bảy tuổi được gửi đến một ngôi chùa vì cậu không có gia đình nào khác hơn là ông chú họ xa. Ông chú chưa bao giờ gặp cậu bé nói:

- Thà làm chú tiểu còn hơn chết đói.

Ở trong chùa cậu bé lên cân nhưng trở thành bất hạnh vì kỷ luật khắc nghiệt--bất hạnh đến nỗi cậu phải chạy trốn. Khi nhà cầm quyền mang trả lại, vị trụ trì đe dọa trục xuất cậu bé, hỏi:

- Có lẽ mi thích ra ngoài thế gian một mình để chết cóng?

 Cậu bé đáp:

- Cảm ơn, thà tôi chết rét ngoài phố còn hơn là sống ấm ở đây để bị hành hạ.

 Vị trụ trì nói:

- Nhưng ở đây mi được học tụng kinh.

 Cậu bé vừa giở chiếc áo lên vừa nói:

- Hãy nói chuyện từ bi với tôi trước đã.

 

Vị trụ trì đang chuẩn bị một câu trả lời châm chích; tuy nhiên khi nhìn thấy những lằn roi kỷ luật trên lưng cậu và nước mắt rưng rưng trên mắt cậu thì câu trả lời đã nghẹn lại trong cổ họng vị trụ trì.

- ‘Hãy cho chúng tôi một cơ hội nữa,’ vị trụ trì van xin và ra lịnh đốt ngay chiếc roi kỷ luật.

Cậu ở lại chùa mười bảy năm cho đến khi cảm thấy mình sẵn sàng đi vào thế gian như là một lão sư.

Bấy giờ được gọi là Kazi, sư trở thành nổi tiếng là nhà hòa giải trong các cuộc tranh luận, dù cho kết quả cay đắng đến đâu.

Khi mỗi bên tuyên bố trường hợp của mình, sư đều chen vào vấn nạn nổi tiếng của sư...

“Vâng, nhưng hãy nói chuyện từ bi với tôi trước đã.”

 (Ngụ Ngôn Thiền)

154. TÔI KHÔNG MUA CHUYỆN NGHIỆP NÀY ĐÂU

Một thanh niên xuất thân từ trường đại học nói:

- Tôi không mua chuyện Nghiệp này đâu. Nó trái với cảm nhận hoài nghi của tôi. Làm sao trong đời này chúng ta có thể chịu ảnh hưởng của những lỗi lầm trong đời trước? Tôi không tin ngay cả chuyện tái sinh.

 Vị thầy dạy Thiền nói:

- Hãy bắt đầu ở đây. Hãy suy xét mỗi buổi sáng anh thức dậy là một người mới. Anh đến giường, anh ngủ, rồi anh thức dậy và anh bắt đầu trở lại quãng đời còn lại của anh. Anh có sự chọn lựa vô giới hạn những gì anh muốn làm và nhân vật gì anh muốn trở thành vào ngày hôm đó. Tuy nhiên, tất cả nhân và duyên của đời anh trước sáng hôm đó trợ giúp những gì anh sẽ làm và sẽ là. Nghiệp cũng như vậy. 

- Vậy ...?

- Vậy có thể suy xét điều này: Hằng ngày hãy làm việc cực nhọc hơn một chút để trở nên từ bi hơn. 

- Và...?

- Và có thể anh sẽ không trở lại làm một ông thầy dạy Thiền tồi cố gắng giúp một thanh niên sáng láng có tâm trí trì độn.

(Ngụ Ngôn Thiền)

155. PHÂN TRÂU CŨ ĐI ĐÂU CŨNG VẬY

 Một viên quan nhỏ đã tiêu phí phần lớn đời mình làm thị vệ phục vụ hoàng đế trong hoàng cung. Khi đã lớn tuổi, ông ta bắt đầu ghét những tranh biện nhỏ nhen và sự dùng mưu kế để tranh đoạt địa vị.

 Đến khi về hưu, ông ta ly dị bà vợ vô tích sự và dời đến một ngôi chùa Thiền nào càng xa kinh đô càng tốt.

Ông ta tự hứa với mình: “đây, không có những ti tiện nhỏ bé của bản tánh con người, nếu không giác ngộ thì ta cũng được yên tĩnh.”

 Đến khi ở trong chùa, ông ta thấy mình lên chức nhanh chóng trong hệ thống đẳng cấp; những kỹ năng cũ trong đời sống cung đình lại dự phần ở đây.

 Mười một tháng sau, ông ta dọn ra khỏi chùa và đến ở trong một sơn động đạm bạc. Khi có người hỏi lý do, ông ta giải thích: “Phân trâu cũ đi đâu cũng vậy.”

  (Ngụ Ngôn Thiền)

156. TẠI SAO TÔI PHẢI NGỒI THIỀN

 Một đêm nọ, hoàng tử hỏi thầy:

-Tại sao tôi phải ngồi thiền đạt ngộ? Tôi có thể nghiên cứu, có thể cầu nguyện, có thể suy nghĩ các vấn đề một cách rõ ràng. Tại sao phải làm cái việc rỗng tâm ngốc nghếch này?

 -Tôi sẽ chỉ cho.

Ông thầy đáp, rồi lấy cái thùng múc đầy nước xách ra vườn dưới ánh trăng tròn. Ông khuấy động mặt nước trong thùng rồi hỏi:

 - Bây giờ anh thấy gì?

Hoàng tử đáp:

- Những lằn sáng.

Ông thầy bảo:

 - Đợi một lát.

Rồi ông đặt thùng nước xuống đất. Hai thầy trò nhìn mặt nước dần dần trở nên yên tĩnh trong chiếc thùng tre sau mấy phút.

 Ông thầy lại hỏi:

 - Bây giờ anh thấy gì?

 Hoàng tử đáp:

 - Mặt trăng.

- Như vậy đó, ông chủ trẻ, cách duy nhất để đạt ngộ là tâm yên tĩnh.

  (Ngụ Ngôn Thiền)

 157. ĐÊM QUA TÔI LÀ KHÁCH...

 Ở Nhật, viếng kỹ viện là một phần chánh thức (nếu không nói ra) trong truyền thống tu luyện Thiền. Thiền tăng Dịch Đường, cũng như hàng ngàn tăng nhân khác trước ông, đã sống một đêm ở nhà các geisha (kỹ nữ). Sáng hôm sau, Dịch Đường nói với bà chủ: “Đêm qua tôi là khách của bà, nhưng sáng nay tôi là tu sĩ. Hãy cho phép tôi làm Phật sự để tất cả mọi người trong nhà bà được phúc lợi.” Bà chủ ngạc nhiên nói, “Đây là lần đầu tiên một ông tăng không lẫn trốn như một ‘bác sĩ’ hay một ‘sinh viên’. Ngày nào đó, người này sẽ là một nhân vật.” Lời tiên đoán đã trở thành sự thật, quả nhiên sau này Dịch Đường được chỉ định làm Trưởng quản phái Thiền Tào Động.

  (Phật GiáoTính Dục)

158. CHÚNG TA HÃY CỨ NHƯ VẬY ĐI

 Một cô gái trong nhà geisha (kỹ nữ) chào Thiền sư Mokudo bằng tên thế tục của sư. Sư bước vào trong và khám phá ra cô gái là người quen thuở thơ ấu. Một năm làng quê bị mất mùa, cô gái trở thành một kỹ nữ để trợ giúp gia đình. Họ nói chuyện xưa với nhau mãi cho đến chiều, rồi cô ta yêu cầu sư ở lại đêm. Sư trả tiền cho bà chủ và cô gái trải chăn màn. Cô ta kéo tấm chăn lại và nói: “Hãy đến đây với em. Chẳng ai biết đâu.” Mokudo đáp: “Cô tử tế mời tôi, nhưng tôi nên ngồi thiền tốt hơn. Nghề cô đang làm là ngủ với khách, còn việc hiện tại của tôi là ngồi thiền. Chúng ta hãy cứ như vậy đi.”

 (Phật GiáoTính Dục)

 159. LỜI MỜI CỦA ĐIẠ NGỤC

 Thiền sư Nhất Hưu có lần chạm trán với một danh kỹ có biệt hiệu là “Địa Ngục”. Nhãn hiệu thương mại của sắc đẹp quyến rũ chết người này là những chiếc áo xa hoa lộng lẫy của nàng, trên ấy vẽ cảnh những kẻ tội lỗi rơi xuống Địa Ngục Dục Vọng, bị tra tấn dày vò. Khi Địa Ngục nghe Thiền sư Nhất Hưu đang ở trong thành phố, nàng gửi đến sư lời mời úp mở: “Một nhà ẩn tu như ngài nên sống trong núi sâu, đâu phải ở đây trong thế gian trôi nổi này.”

 Nhất Hưu đáp lại bằng bài thơ Thiền như sau:

Bởi vì chẳng có thân, tâm 

Ta ở cả núi sâu và thế gian trôi nổi.

 Trước khi quyết định chấp nhận lời mời của nàng hay không, Nhất Hưu đã dò hỏi về cái Địa Ngục đặc biệt này và được cảnh cáocoi chừng bị bỏng. Sư gửi một bức thư ngắn khác: “Địa Ngục còn đáng gờm hơn ta tưởng.” Nàng viết thư trả lời: “Không một nam nhân nào thoát khỏi móng vuốt của Địa Ngục.”

 Sư quyết định không nhận lời thách thức và không xuống cái Địa Ngục đặc biệt này. 

  (Phật GiáoTính Dục)

 160. ĐÀN BÀ LÀ KHO TÀNG CỦA PHẬT GIÁO

 Một hôm, Thiền sư Nhất Hưu hành cước qua một khu vực biệt lập, bất ngờ thấy một người đàn bà trần truồng chuẩn bị xuống sông tắm. Sư dừng lại, hướng về phía âm hộ của người đàn bà bái ba bái rồi tiếp tục đi. Những người đi đường chứng kiến cảnh ấy, chạy theo hỏi sư về hành động kỳ lạ này: “Một người đàn ông bình thường, nhất là một tu sĩ Phật giáo, sẽ liếc mắt đưa tình với người bàn bà khỏa thân đó. Tại sao sư lại cúi đầu bái trước âm hộ của bà ta?” Sư đáp một cách sắc bén: “Đàn bà là kho tàng của Phật giáo, là nguồn lưu xuất tất cả chúng sinh, kể cả Phật và Bồ-đề Đạt-ma.”

  (Phật GiáoTính Dục)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19916)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33501)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34622)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54612)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37850)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63777)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17452)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49774)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16917)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16448)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22541)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57108)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29082)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33388)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31297)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13948)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14329)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12702)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14879)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13861)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30478)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11885)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30772)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29467)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30683)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31310)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37195)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32336)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23753)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12260)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27793)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12495)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28708)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29443)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12469)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29294)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26104)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33214)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39658)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22522)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34556)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27413)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28457)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant