Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

[241 - 250]

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 15449)
[241 - 250]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt


241. PHẬT MẶT TRỜI, PHẬT MẶT TRĂNG

Kinh nói rằng Phật Mặt Trời sống một ngàn tám trăm năm, và Phật Mặt Trăng chỉ sống có một ngày một đêm.

một lần Đại sư Mã Tổ bị bịnh nặng và lâu, viện chủ đến thăm, hỏi:

- Hòa thượng cảm thấy thế nào?

Mã Tổ đáp:

- Phật Mặt Trời, Phật Mặt Trăng.

Sống khi mình có thể sống là phúc đức, và chết khi mình có thể chết cũng là phúc đức. Đối với một người hiểu lẽ sống, thì dù sống một trăm năm hay chỉ một đêm đều có giá trị như nhau.

  (Trí Tuệ Thiền Sư)

 242. QUI CỦ THIỀN ĐƯỜNG CỦA BÁCH TRƯỢNG

Sau khi Đại sư Mã Tổ tịch, Thiền sư Bách Trượng thừa truyền chánh pháp.

Rồi sư thiết lập Bách Trượng Thanh Qui, hay là qui củ Thiền đường, và nó đã trở thành nền móng cho điều lệ tu viện cũng như cho Phật giáo Thiền tông nói chung. . .

Bách Trượng Thanh Qui qui định chi tiết điều lệ đời sống hằng ngày của vị trụ trì và tất cả những người trong tự viện dưới ông.

Điều lệ đòi hỏi vị tăng tương lai nguyện giữ năm giới chính:

 -Không sát sanh;

 - Không trộm cướp;

 - Không tà dâm;

 - Không nói dối;

 - Không say sưa.

Và các điều sau:

 - Không ngủ trên cái giường cao hay rộng quá;

 - Không xem hay tham dự các tuồng trên sân khấu;

 - Không tự tôn;

 - Không cất giữ tiền bạc hoặc các vật quí;

 - Không ăn các món bậy và không ăn ngoài giờ qui định;

Chỉ khi nào giữ được các giới điều trên, người tăng nhân tương lai mới được cạo tóctrở thành tăng nhân thực thụ.

Bách Trượng cũng thiết lập hệ thống làm việc, không những cho người tăng nhân trung bình làm việc ngoài đồng, mà cho cả vị trụ trì nữa.

Ấn độ, tăng nhân bị cấm làm nông và, do đó, tùy thuộc vào sự cúng dường của các thí chủ trung thành.

Với hệ thống thanh qui, Bách Trượng nhằm loại bỏ cách sống xin ăn và ký sinh trùng này.

Tại sao một tăng nhân khỏe mạnh lại sống như một loại ký sinh trùng, hút máu sống của những người dân thường?

Vì vậy sư đòi hỏi tất cả tăng chúng dùng thời giờ khai khẩn đất đai để trồng trọt và canh tác thực phẩm cho chính họ.

(Trí Tuệ Thiền Sư)

243. MA NGÔN NGỮ

 Ngưỡng Sơn là học trò của Qui Sơn. Một hôm Qui Sơn nói:

 - Này con, phải nhanh lên mà ngộ đi. Chớ bám vào ngôn ngữ văn tự.

 Ngưỡng Sơn đáp:

 - Ngay cả tin con còn chẳng muốn nữa kìa. 

Qui Sơn hỏi:

- Con không muốn vì con tin hay con không muốn vì con chẳng tin?

Ngưỡng Sơn hỏi lại:

- Ngoài mình ra còn cái gì khác có thể tin được?

Qui Sơn đáp:

- Nếu vậy, con chỉ là đệ tử của Tiểu thừa.

Ngưỡng Sơn nói:

- Ngay cả Phật con còn chẳng muốn gặp.

Qui Sơn lại hỏi:

- Trong tất cả kinh điển, có bao nhiêu là lời của Phật, bao nhiêu là lời của ma?

Ngưỡng Sơn đáp:

- Tất cả là ma hết.

Qui Sơn khen:

- Giỏi lắm! Giỏi lắm! từ nay không có gì quấy rầy con được nữa.

Cuối cùng, Ngưỡng Sơn kế thừa y bát của Qui Sơn và truyền Thiền theo phong cách của sư.

  (Trí Tuệ Thiền Sư)

244. TRIỆU CHÂU ĐỘI DÉP RƠM

Tăng chúng hai nhà đông tây của chùa Nam Tuyền tranh nhau một con mèo. . .

- Nó là của nhà phía đông chúng tôi.

- Nó là con mèo nhà phía tây chúng tôi.

Nam Tuyền nghe ồn ào, bèn ra bắt con mèo giơ lên bảo:

- Ai nói được thì mèo sẽ sống. Không ai nói được, tôi sẽ giết con mèo tại đây.

Tất cả đều im lặng. Vì thế, Nam Tuyền chém con mèo làm hai mảnh.

Đến chiều, Triệu Châu về, Nam Tuyền thuật lại chuyện hồi sáng. . .

 Sau khi nghe xong, Triệu Châu không nói một lời, chỉ cởi đôi dép rơm đội lên đầu, đi ra.

 Nam Tuyền nói:

 - Hồi sáng, nếu có ông ở nhà đã cứu được con mèo.

  (Trí Tuệ Thiền Sư)

 245. BỊ LỪA ĐÁ

 Sau khi ngộ đạo, Triệu Châu dạo bước khắp nơi, viếng nhiều Thiền sư thời ấy.

 Một hôm sư đến thăm Vân Cư Đạo Ưng. Vân Cư hỏi:

 - Đại lão hán, đại lão hán, sao không tìm một chỗ trụ đi cho rồi?

 Triệu Châu nói:

 - Trụ ở đâu bây giờ?

 Vân Cư đáp:

 - Sau núi kia có ngôi chùa hoang, hòa thượng đến đó là phải.

 Sau Triệu Châu đến viếng sư Tu Du. Tu Du hỏi:

 - Đại lão nhân, đại lão nhân, sao không tìm một chỗ trụ đi cho rồi?

 Triệu Châu lại nói:

 - Trụ ở đâu bây giờ?

 Tu Du nói:

 - Ơ kìa, cái lão này còn không biết trụ ở đâu nữa mới lạ chứ!

 Triệu Châu nói:

 - Ba mươi năm đùa với ngựa không sao, bữa nay lại bị lừa đá.

 Cuối cùng, cho đến năm tám mươi tuổi, sư mới định cư ở viện Quan Âm, phía đông ngoại ô thành Triệu Châu. . .

 Trong thời gian trụ trì viện Quan Âm, sư dùng trí tuệ sâu xa và óc khôi hài nhàn nhã hướng dẫn đệ tử trên con đường đến chơn ngã.

 Sư thường nói: “Nếu đứa trẻ bảy tuổi hơn ta, ta học nó. Nếu ông lão trăm tuổi không bằng ta, ta dạy ông lão.”

 (Trí Tuệ Thiền Sư)

246. CỚ SAO LẠI CÓ BỤI

 Một hôm, khi Triệu Châu đang quét sân chùa thì có người hỏi:

 - Chốn già lam thanh tịnh cớ sao lại có bụi?

 Triệu Châu đáp:

 - Từ ngoài đến.

 Một hôm khác, cũng trong lúc Triệu Châu đang đang quét sân chùa thì một ông tăng hỏi:

 - Hoà thượngthiện tri thức cũng có bụi nữa sao?

 Triệu Châu đáp:

 - Kìa, lại một hạt bụi nữa.

  (Triệu Châu Ngữ Lục)

247. CHỖ CÓ PHẬT CHỚ ĐỨNG LẠI

 Khi một ông tăng từ giả Triệu Châu để đi tham vấn các nơi, sư hỏi:

 - Ông đi đâu?

 Ông tăng đáp:

 - Khắp các nơi để học Phật pháp.

 Sư dựng cây phất tử lên nói:

- Chỗ có Phật chớ đứng lại, chỗ không Phật chạy lẹ qua! Chớ lầm đem Phật pháp cho người cách ba ngàn dặm.

  (Triệu Châu Ngữ Lục)

 248. KHÔNG MẮT TAI MŨI LƯỠI

 Thiền sư Động Sơn Lương Giới (807-869) họ Du, quê ở Hội kê, tỉnh Triết giang. Sư xuất gia lúc còn bé. Sau khi ngộ, sư trở thành trụ trì Động SơnGiang tây vào năm 860. Sư cùng với đệ tửTào Sơn sáng lập phái Tào Động.

 Lúc còn trẻ, sư tụng Bát Nhã Tâm Kinh với thầy đến câu: “Không sắc, không thọ, không tưởng, không hành, không thức. . . Không mắt, tai, mũi, lưỡi, hay thân... Không thấy, nghe, ngửi, nếm...” sư liền lấy tay sờ mặt và hỏi thầy:

- Rõ ràng con có mắt, tai, mũi, lưỡi. . . sao kinh nói chẳng có?

 Thầy trả lời:

 - Ta nghĩ ngươi nên tìm thầy khác, ta chẳng thể dạy ngươi được.

 Vì thế Động Sơn đi đến nhiều nơi, học với nhiều đại sư.

 Trước tiên sư đến tham kiến Thiền sư Nam Tuyền và ở lại đó một thời gian...

 Rồi sư đến Qui Sơn Linh Hựu và hỏi:

 - Thực ravô tình thuyết pháp hay không? Nếu có, tại sao con không nghe?

 Qui Sơn đáp:

 - Miệng do cha mẹ cho, tôi chẳng dám nói với ông.

 Động Sơn hỏi:

 - Vậy thì con nên hỏi ai?

 Qui Sơn đáp:

 - Sao không đến Đàm Thành ở Vân Nham?

 Cầm lá thư giới thiệu của Qui Sơn, sư đến tham kiến Vân Nham.

 Khi đến Vân Nham, sư hỏi:

 - Khi vô tình thuyết pháp thì ai nghe được?

Vân Nham đáp:

- Vô tình nghe được.

Sư hỏi:

- Hoà thượng nghe được không?

Vân Nham đáp:

- Nếu nghe được, ta sẽ biến thành pháp thân, rồi ông chẳng thể nghe ta thuyết pháp.

Sư hỏi:

- Tại sao không?

Vân Nham đưa phất tử ra hỏi:

- Ông nghe chăng?

Sư đáp:

- Dạ không.

Vân Nham bảo:

- Chính khi tôi thuyết pháp ông còn chẳng nghe được, khi vô tình thuyết pháp làm sao ông nghe được?

Sư hỏi:

- Kinh nào nói vô tình thuyết pháp?

Vân Nham hỏi lại:

- Không phải kinh A-di-đà nói, “Sông, chim, cây, rừng tất cả đều niệm pháp” sao ?

Ngay đây, Động Sơn tỉnh ngộ, nói:

Kỳ lạ thay! Kỳ lạ thay!

Vô tình thuyết pháp chẳng nghĩ bàn,

Nếu lấy tai nghe, thật khó hiểu,

Nếu dùng mắt thấy, liền nhận ra.

  (Trí Tuệ Thiền Sư)

 249. NƯỚC CON AN ỔN

Khi Sa di Cao đến tham vấn Thiền sư Dược Sơn, Dược Sơn hỏi:

- Ông từ đâu đến?

Cao đáp:

- Con từ Nam Nhạc đến.

- Đã đi lại những đâu?

 - Đi Gia lăng thọ giới.

 - Thọ giới mong làm gì?

 - Mong khỏi sanh tử.

 - Có một người không thọ giới cũng khỏi sanh tử, ông biết không?

 - Thế thì giới luật dùng làm gì?

 - Còn mồm mép lắm.

 Cao lễ bái lui ra.

 

 Khi Đạo Ngô đến đứng hầu, Dược Sơn bảo:

 - Vừa rồi có một sa di mới đến có chút khí khái.

 Đạo Ngô nói:

 - Chưa nên tin hẳn, cần phải khám phá mới được.

 Đến chiều, Dược Sơn lên tòa gọi:

 - Sa di mới đến ở đâu?

 Cao bước ra khỏi chúng tăng, đứng im.

Dược Sơn hỏi:

 - Tôi nghe nói Trường an rất náo loạn, ông có biết không?

 Cao thưa:

 - Nước con an ổn.

- Ông do xem kinh được hay do tham vấn được?

 - Chẳng do xem kinh hay tham vấn mà dược.

- Có người chẳng xem kinh, chẳng tham vấn, tại sao chẳng được?

 - Chẳng phải không họ được, chỉ vì không chịu thừa nhận.

 Dược Sơn ngó Đạo Ngô, Vân Nham, hỏi:

 - Tin tôi chưa?

 

Một hôm, Cao đến từ giả Dược Sơn, Dược Sơn bảo:

 - Sanh tử là việc lớn sao chẳng thọ giới đi?

 Cao đáp:

 - Biết thì những việc ấy liền thôi, lại bảo thọ giới làm gì?

 Dược Sơn bèn thôi.

 

Hôm khác, đến giờ ăn trưa, Dược Sơn đích thân đánh trống, Cao ôm bát múa đi vào phòng ăn.

Dược Sơn bỏ dùi trống xuống, hỏi:

- Đấy là hòa thứ mấy?

Cao đáp:

- Hòa thứ hai.

- Còn hòa thứ nhất đâu?

Cao đến thùng cơm lãnh một phần rồi đi ra.

  (Trung Hoa Thiền Đức)

 250. KHÔNG CHỖ NÀO KHÔNG ĐẾN

 Khi Thiền sư Bảo Triệt ở núi Ma Cốc đang dùng quạt phe phẩy quạt mình thì một ông tăng hỏi:

 - Tánh của gió là thường tại và không có chỗ nào là không đến. Sao hòa thượng còn dùng quạt làm gì?

 Sư đáp:

 - Ông chỉ biết tánh gió thường tại mà chưa biết đạo lý của “không chỗ nào không đến.”

 Ông tăng hỏi:

 - Thế nào là đạo lý của “không chỗ nào không đến?”

 Sư phe phẩy quạt mình. Ông tăng bái tạ thật sâu.

 (Chánh Pháp Nhãn Tạng)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33502)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34624)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54613)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37852)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63778)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17453)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16919)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16449)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22542)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29083)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33389)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31299)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13949)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14329)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12702)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14879)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13862)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30480)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11885)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30773)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29469)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30685)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31317)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37196)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23753)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12262)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27796)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12496)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28709)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29445)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12470)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29297)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26104)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33216)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31869)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22523)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34557)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27414)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28466)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant