Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

[311 - 320]

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 16169)
[311 - 320]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt


311. LÀM SAO QUÊN ĐƯỢC 

 Một hôm cư sĩ đến trước Đan Hà đứng chắp tay. Sau một lát, cư sĩ bỏ đi. Đan Hà không buồn để ý.

 Cư sĩ trở lại, ngồi xuống. Đan Hà đến trước cư sĩ đứng chắp tay. Sau một lát, sư trở về phương trượng.

 Cư sĩ nói:

 - Tôi đi vào, thầy đi ra. Chúng ta chẳng đi đến đâu cả.

 Đan Hà đáp:

 - Cái lão này vào ra, vào ra--bao giờ mới dứt!

 Cư sĩ nói:

 - Thầy chẳng chút từ bi.

 

Đan Hà than:

 - Ta đã khiến lão này đến tình cảnh như vậy.

 Cư sĩ hỏi:

 - Thầy đã khiến cái gì?

 Ngay đó, Đan Hà giở lấy cái mũ trên đầu cư sĩ và nói:

 - Ông giống y như một lão tăng.

 Cư sĩ lấy cái mũ đội lên đầu Đan Hà, nói:

 - Thầy giống y như một thường nhân trẻ.

 Đan Hà đồng ý:

 - Thưa ngài, đúng, đúng.

 Cư sĩ nói:

 - Thầy vẫn còn tinh thần thời xưa

 Đan Hà ném cái mũ xuống, nói:

 - Rất giống mũ nhà quan.

 Cư sĩ thừa nhận:

 - Thưa ngài, đúng, đúng.

 Đan Hà nói:

 - Làm sao tôi quên được tinh thần thời xưa.

 Cư sĩ búng ngón tay ba lần, nói:

 - Chuyển trời, chuyển đất.

  (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

  312. HÃY CÒN CÂU THỨ NHÌ

 Một hôm khi Đan Hà thấy cư sĩ đến liền làm thế chạy.

 Cư sĩ nói:

 - Đó là thế phóng chụp, còn thế gầm gừ đâu?

 Đan Hà bèn ngồi xuống.

 Cư sĩ dùng gậy vẽ số bảy trước mặt Đan Hà. Đan Hà liền vẽ số một ngay dưới số bảy.

 Cư sĩ nói:

 - Vì bảy, thấy một; thấy một, quên bảy.

 Đan Hà đứng dậy.

 Cư sĩ nói:

 - Hãy ngồi thêm chút nữa. Vẫn còn câu thứ nhì.

 Đan Hà hỏi:

 - Tôi đặt một trước ngữ vào đây được chăng?

 - Ô! Ô! Ô!

 Cư sĩ khóc và bỏ đi.

  (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

  313. AI NHỜ MAY MÀ THUA

 Một hôm, khi Bàng cư sĩĐan Hà cùng đi với nhau, chợt thấy một ao nước trong. Cư sĩ lấy tay chỉ ao nước, nói:

 - Như hiện tại, chúng ta chẳng thể phân biệt được nó.

Đan Hà đáp:

 - Dĩ nhiên, chẳng thể phân biệt được.

Cư sĩ dùng tay tạt Đan Hà hai bụm nước.

Đan Hà kêu:

 - Đừng làm vậy, đừng làm vậy!

Cư sĩ đáp:

 - Tôi phải làm, tôi phải làm!

Vì thế, Đan Hà tạt cư sĩ ba bụm nước, nói:

 - Bây giờ ông làm được gì?

Cư sĩ đáp:

 - Không gì khác.

Đan Hà nói:

 - Người ta hiếm khi nhờ may mà thắng.

Cư sĩ đáp:

 - Ai nhờ may mà thua.

  (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

  314. LÃO GIÀ GANH TỊ CHẲNG PHÂN TỐT XẤU

 Một hôm Đan Hà đang đeo tòong teng xâu chuỗi trên tay. Bàng cư sĩ đến, giựt lấy xâu chuỗi, nói:

 - Hai chúng ta đều tay không cả. Bây giờ tất cả đã qua.

Đan Hà nói:

 - Lão già ganh tị, chẳng phân tốt xấu.

Cư sĩ nói:

 - Tôi thực chẳng biết ý thầy. Tôi sẽ chẳng như vậy nữa.

Đan Hà rống lên:

 - Ma.a..., ma.a..!

Cư sĩ kêu:

 - Thầy ghê quá, thầy ơi!

Đan Hà nói:

 - Tôi thiếu cây gậy.

Cư sĩ nói:

 - Tôi già rồi, chẳng chịu nổi gậy đâu.

Đan Hà đáp:

 - Lão gan lì, đánh lão làm gì?

Cư sĩ nói:

 - Thầy vẫn chưa có kế dụ tôi.

Đan Hà bỏ xâu chuỗi, ra đi.

Cư sĩ kêu:

 - Lão ăn cắp! Lão sẽ chẳng bao giờ đến lấy nó lại.

Đan Hà quay đầu lại, cười khoan khoái:

 - Ha, ha!

Cư sĩ kêu:

 - Lão ăn cắp, lão thua rồi!

Đan Hà đến nắm lấy cư sĩ, nói:

 - Lão chẳng nên bảo thủ như vậy.

Cư sĩ tát sư một cái.

  (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

  315. BÀNG CƯ SĨ ĐỌC KINH

 Một hôm Bàng cư sĩ nằm trên trường kỷ đọc kinh. Một ông tăng thấy vậy liền nói:

 - Cư sĩ! Ông phải giữ oai nghi khi đọc kinh chứ.

 Cư sĩ liền giơ một chân lên.

 Ông tăng không lời để nói.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục) 

  316. MAI ĐÃ CHÍN CHƯA

 Bàng cư sĩ viếng Thiền sư Đại Mai Pháp Thường. Khó khăn lắm họ mới gặp nhau, cư sĩ nói:

 - Tôi muốn gặp huynh lâu lắm rồi, Đại Mai. Không biết mai đã chín chưa?

 Đại Mai kêu lên:

 - Chín rồi! Ông muốn cắn bên nào?

 Cư sĩ đáp:

 - Mức trái cây khô.

 Đại Mai chìa tay ra nói:

 - Trả miếng mai lại cho tôi.

 Cư sĩ bỏ đi.

 (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

  317. MỘT CÂU CŨNG CHẲNG CẦN

 Bàng cư sĩ đến chỗ Thiền sư Đại Ngu. Đại Ngu đãi ăn. Khi Đại Ngu đưa thức ăn cho cư sĩ, cư sĩ sắp nhận lấy thì Đại Ngu rụt tay lại, nói:

 - Ngày xưa Duy Ma Cật phê bình việc nhận của bố thí khi tâm động. Ông có đồng ý hành động này chăng?

 Cư sĩ hỏi:

 - Trường hợp đó, Tu Bồ Đề chẳng phải là hàng lão thông sao?

 Đại Ngu đáp:

 - Tôi chẳng quan tâm chuyện ông ta.

 Cư sĩ nói:

 - Khi thức ăn đến miệng [Tu Bồ Đề] thì Duy Ma Cật giựt lại.

 Vì vậy Đại Ngu để đồ ăn xuống.

 Cư sĩ nói:

 - Một câu cũng chẳng cần.

 (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

  318. MIỆNG CÂM MẮT MÙ 

 Cư sĩ đến viếng Thiền sư Lạc Phố. Vừa bái chào sư xong, cư sĩ nói:

 - Giữa hè nóng chết người, đầu đông lạnh đóng băng.

 Lạc Phố đáp:

 - Chớ lầm.

 Cư sĩ nói:

 - Tôi già rồi.

 Lạc Phố nói:

 - Sao không nói “lạnh” khi lạnh, và “nóng” khi nóng.

 Cư sĩ hỏi:

 - Mắc phải điếc có gì là tốt?

 Lạc Phố nói:

 - Tha ông hai chục gậy.

 Cư sĩ đáp:

 - Thầy làm tôi câm miệng, tôi làm thầy mù mắt.

  (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

319. ĐƯỜNG ẤY ĐI ĐÂU

 Một hôm Bàng cư sĩ gặp một cậu bé chăn trâu. Cư sĩ hỏi:

 - Đường ấy đi đâu?

 Cậu bé chăn trâu đáp:

 - Tôi chẳng biết đường ấy.

 Cư sĩ kêu lên:

 - Ngươi kẻ chăn trâu!

 Cậu bé chăn trâu đáp:

 - Ông lão súc sanh!

 Cư sĩ lại hỏi:

 - Hôm nay là thời gì?

 Cậu bé chăn trâu đáp:

 - Thời trồng lúa.

 Cư sĩ cười sảng khoái.

  (Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)

  320. CHUYỂN Y CÔNG ĐỨC

 Một hôm vợ Bàng cư sĩ đến chùa Lộc Môn cúng dường thực phẩm. Vị hòa thượng của chùa hỏi bà mục đích việc cúng dường để chuyển y công đức. Bà liền lấy cái lược cài lên mái phía sau. “Công đức đã chuyển xong,” bà vừa nói vừa bước ra.

(Bàng Cư Sĩ Ngữ Lục)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18435)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33502)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34624)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54613)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37853)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63778)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17453)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16919)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16449)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22542)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29083)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33389)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38449)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31299)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13949)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14329)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12702)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14879)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13862)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30480)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11886)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30773)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29469)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30685)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31319)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37197)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32337)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23753)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12262)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34042)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27796)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12496)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28709)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29445)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12470)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29298)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28110)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25746)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26104)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22332)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33217)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31870)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39660)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22524)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34557)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27417)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28467)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant