Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

[291 - 300]

12 Tháng Hai 201200:00(Xem: 15360)
[291 - 300]

DẠO BƯỚC VƯỜN THIỀN

(333 Câu Chuyện Thiền)

Đỗ Đình Đồng góp nhặt


291. PHẬT TRONG ĐỜI NÀY

Một hôm, Thiền sư Đông Lĩnh đang thuyết pháp ở Saga, ở vùng núi ngoại ô Kyoto. Trời mùa đông lạnh chết người. Thời tiết lạnh đến nỗi mọi người trong thính đường tỏ vẻ khó chịu kịch liệt.

Đông Lĩnh rống to, “Những ai trong quí vị sợ thời tiết lạnh nên trở lại đời sống thế gian ngay! Quí vị làm sao học Thiền được? Tại sao quí vị không tìm nó trong tâm của quí vị? Con cá ở trong nước, nhưng không biết nước ngay ở đó; con người ở giữa đạo lý tối thượng mà không biết đạo lý.”

 Lúc đó, trong thính đường có một người theo phong trào Tâm Học tên là Nakazawa Doni, người sau này lập hội Tâm Học ở miền đông Nhật Bản, nghe những lời Đông Lĩnh nói, bỗng nhiên tỉnh ngộ. Sau này, Nakazawa giải thích, “Hiển Bày Giáo Lý có nghĩa là không đặt tâm ra ngoài,” rồi thêm, “Đây là những gì họ muốn nói qua câu thành Phật ngay trong thân này.”

  (Giai Thoại Thiền)

292. ẤN KHẢ QUÁ SỚM

Ryozai ban đầu tham học với Thiền sư Cổ Nguyệt. Sau sư theo Bạch Ẩn và đạt ngộ dưới sự chỉ dạy của Bạch Ẩn. 

Khi Ryozai đến tham kiến Bạch Ẩn, Bạch Ẩn thấy ngay sư là người có khả năng phi thường. Ryozai đã ở lại với Bạch Ẩn nhiều năm, đương nhiên nhận sự ấn khả của Bạch Ẩn và trở thành sư. Như vậy Ryozai trở thành người thứ nhất trong hàng sư do Đại sư Bạch Ẩn đào tạo.

Tuy nhiên, sau này Bạch Ẩn nói, “Tôi đã ấn khả cho Ryozai quá sớm. Vì vậy, bây giờ ông ta không thể làm nắm vững được sự việc. Nếu tôi có thể đợi thêm ba năm nữa, trước khi cho phép ông ta dạy người, không một ai trên thế gian có thể phê bình ông ta được.”

Có người hỏi Bạch Ẩn tại sao sư ấn khả cho Ryozai quá sớm. Đại sư đáp, với sự hối tiếc sâu xa, “Lúc đó tôi chỉ ý thức rằng tìm được một người như thế thật khó biết bao. Tôi đã không nhận thức ra là ấn khả quá sớm.”

  (Giai Thoại Thiền)

293. ĐẠI SỰ

Nga Sơn Từ Trác (1727-1797) đã hành cước khi sư mới mười sáu tuổi. Khi vào Thiền viện, trong thời gian chín mươi ngày tu tập kịch liệt sư đã tỉnh ngộ. Sau đó, sư hành cước viếng hết sư này đến sư khác, tham học với hơn ba mươi Thiền sư. Không một Thiền sư nào có thể làm gì sư được, vì thế sư trở về với bổn sư là Nguyệt Thuyền Thiền Huệ (1702-1781).

Nguyệt Thiền thừa nhận sự nắm vững Thiền của Nga Sơn trẻ tuổi, lúc đó Nga Sơn cũng tin rằng mình nắm được Thiền.

Bấy giờ, Nga Sơn bất chợt đi ngang qua Thiền viện của Bạch Ẩn đôi lần, nhưng sư không muốn gặp bậc thầy danh tiếng này.

Nhưng một hôm sư chợt nghĩ, “Trong các sư trên khắp đất này, không một ai có thể chỉ cho mình điều gì. Bạch Ẩn là người duy nhất có những phương pháp mà ta không biết.”

Ý nghĩ này đã khơi nơi sư dậy lòng mong muốn gặp Bạch Ẩn. Sư nói với Nguyệt Thuyền ý mình. Nguyệt Thiền nói, “Tại sao ông cần phải gặp Bạch Ẩn? Nga Sơn lại nghĩ Nguyệt Thuyền đúng nên ở lại.”

Một năm nữa trôi qua, khi Nga Sơn bất ngờ nghe Bạch Ẩn được mời đến thuyết pháp về Bích Nham Lục ở thủ đô Hồng Hộ. Bấy giờ sư nghĩ, “Bao lâu ta chưa gặp vị lão sư ấy, ta chưa thực sự là bậc đại trượng phu.”

Dù cho Nguyệt Thuyền cố giữ sư lại, bấy giờ Nga Sơn đã quyết tâm đi. Sư hành cước thẳng đến Edo để gặp đại sư Bạch Ẩn.

Khi Nga Sơn trình kiến giải của mình, Bạch Ẩn hét to, “Đồ lừa gạt, hơi thở thối tha, ở đâu đến đây lừa ta?” Và sư ném Nga Sơn ra ngoài.

Nga Sơn không bỏ cuộc. Sau khi bị ném ra ngoài ba lần, sư vẫn nghĩ mình đạt chân ngộ và Bạch Ẩn cố hạ sư vì có mục đích.

Một đêm nọ, khi loạt bài thuyết pháp gần chấm dứt, Nga Sơn suy nghĩ, “Quả thật Bạch Ẩn là bậc thầy vĩ đại nhất trên đất này. Tại sao ông ta lại phản đối người ta một cách độc đoán? Ắt phải có yếu chỉ.”

Bấy giờ Nga Sơn đến xin lỗi Bạch Ẩn vì thô xuất, và xin chỉ dạy. Bạch Ẩn nói, “Ông chưa trưởng thành. Suốt đời ông sẽ mang Thiền cái da bụng chạy quanh. Dù ông nói có trôi chảy, đó cũng chẳng cho ông năng lực gì khi ông đến bờ sanh tử. Nếu ông muốn cuộc sống hằng ngày của ông thực sự thỏa mãn, ông phải nghe tiếng vỗ một bàn tay.”

Sau này Nga Sơn nói với môn đệ, “Tôi mất ngót hai chục năm hành cước khắp xứ, tham học với hơn ba chục Thiền sư. Tôi đã quá sắc bén nên không ai hợp với tôi. Cuối cùng, tôi chạy đâm đầu vào lão Bạch Ẩn và đã bị đá ra ba lần, thấy ra năng lực thông thường của tôi vô dụng tại điểm ấy. Rồi tôi trở thành kẻ chân thành theo đạo.

Vào lúc đó, trên thế gian này ai là kẻ có thể đánh tôi được ngoại trừ Bạch Ẩn? Tôi không đánh giá đạo hạnh vĩ đại hay hơi thở danh vọng của sư. Tôi không đánh giá nhận thức siêu việt hay nội kiến thông suốt của sư qua các công án phức tạp của cổ nhân. Tôi không đánh giá sự giảng giải lưu loát và sự phơi bày gan dạ của sư. Tôi không đánh giá số người theo sư. Tôi chỉ đánh giá sự kiện trong khi tất cả các Thiền sư khác không thể làm gì tôi được. Bằng phương tiện đo lường thô bạo, Bạch Ẩn đã đưa tôi vào ngõ cụt, cuối cùng khiến tôi có thể hoàn thành Đại Sự.

Hiển nhiên, việc này chẳng dễ chút nào. Tôi theo Bạch Ẩn chỉ được bốn năm, khi sư trở nên già đến nỗi đôi khi sư quá mệt mỏi cho việc tham vấn. Kết quả, tôi đã đến Đông Lĩnh để học giáo lý tối thượng thừa. Nếu không có Đông Lĩnh ở đó, tôi không thể kiện toàn chi tiết cuối cùng.”

  (Giai Thoại Thiền)

 294. SAI LẦM

Chodo đã tham học với Cổ Nguyệtchứng nhập cảnh giới chơn không.

Vào lúc ấy, môn phái của Thiền sư Bạch Ẩn đang thịnh phát, người cầu đạo khắp nơi trên đất nước lũ lượt đến với đại sư.

Chodo muốn đến tranh luận về Thiền với Bạch Ẩn, nhưng Cổ Nguyệt khuyên Chodo đừng đi. Chodo không nghe, vì thế Cổ Nguyệt nói, “Nếu anh cứ khăng khăng, để tôi viết thư giới thiệu.”

Vì vậy, Chodo thẳng đến chỗ Bạch Ẩn, mang theo thư giới thiệu của Cổ Nguyệt.

Chodo đến chỗ Bạch Ẩn nhằm lúc Bạch Ẩn đang tắm. Khởi sự, Chodo trình Kiến giải của mình. Bạch Ẩn nói, “Nếu anh như thế này, không vì gì anh đã không đến đây. Nhưng bây giờ hãy nghỉ ngơi đi.”

Bấy giờ Chodo nghĩ rằng Bạch Ẩn cũng đã ấn khả cho mình.

Cuối cùng, khi Bạch Ẩn ra khỏi phòng tắm, Chodo chính thức gặp sư, trình thư giới thiệu của Cổ Nguyệt.

Mở lá thư do thầy của Chodo gửi đến, Bạch Ẩn chỉ thấy thư nói một cách đơn giản, “Thanh niên này không phải không có chút tỉnh ngộ, nhưng y là người độ lượng nhỏ hẹp. Xin tùy nghi đối đãi.” Bạch Ẩn liền hét to, “Anh là người có căn cơ nhỏ bé, khả năng bậc dưới. Lấy gì để hoàn thành Đại Sự?”

Thình lình bị cướp mất quan điểm, Chodo hóa điên và không bao giờ bình phục. Chodo trở lại tỉnh nhà, dựng một thiền đường nhỏ, tu tập một mình.

Theo truyền thống, các Thiền viện tổ chức tuần nhiếp tâm đặc biệt vào đầu tháng chạp mỗi năm, kỷ niệm ngày Phật thành đạo. Vào những dịp ấy, Chodo thường đem các chú tiểu và mèo vào thiền đường của mình, bảo ngồi. Khi nào mèo bỏ chạy, Chodo bắt lại đánh đập vì cho rằng phá luật lệ.

Bạch Ẩn thường bi thán, “Tôi dạy nhiều người, mà sai lầm trong hai trường hợp, một là Chodo và một trường hợp khác.”

 (Giai Thoại Thiền)

  295. MỘT NGÀY KHÔNG LÀM, MỘT NGÀY KHÔNG ĂN

Châm ngôn này được dùng trong các thiền viện là do Thiền sư Bách Trượng Hoài Hải (720 - 814) nói ra. Câu chuyện xảy ra như sau:

Thiền sư Bách Trượng hằng ngày làm việc lao động ngoài trời (một sinh hoạt của Thiền tăng gọi là lao tác (samu).

Khi sư đã quá già, môn sinh yêu cầu sư đừng lao tác nữa. Nhưng Bách Trượng làm ngơ lời đề nghị của họ và tiếp tục làm việc hằng ngày. Vì thế một ông tăng đem dấu dụng cụ làm việc của sư. Kết quả, Bách Trượng vào phòng ngồi im lặng. Vị tăng thị giả một ngày đem cơm cho sư ba lần. Bách Trượng không ăn. Bất chấp vị tăng thị giả nài nĩ bao nhiêu lần, sư vẫn từ chối. Vị tăng thị giả hỏi, “Hòa thượng có chuyện gì vậy?” Bách Trượng đáp, “Một ngày không làm, một ngày không ăn.”

Lao tác không chỉ có nghĩa là làm việc ngoài đồng. Ngồi thiền là một trong những lao tác truyền thống của chúng ta. Vì thế chúng ta có thể nói: Một ngày không ngồi thiền, một ngày không ăn.

  (Thiền Ngữ Thiền Tự)

296. YÊU HOA

Thuở ấy có một lãnh chúa thích hoa cúc vô cùng. Ông ta có cả một khu vườn trồng đầy hoa cúc phía sau lâu đài. Ông ta đã bỏ nhiều thì giờ chăm sóc và vun quén.

Thực tế, lãnh chúa đã chú ý chăm sóc hoa cúc nhiều hơn vợ và các tỳ thiếp của ông ta. Nhiều tùy viên đã bị ông trừng phạt vì làm gãy một cái hoa của ông. Nói chung, sự đam mê hoa cúc của ông ta đã làm cho đời sống mọi người chung quanh khốn khổ.

Một hôm, một tùy viên vô ý làm gãy một cành hoa, liền bị lãnh chúa phẫn nộ ra lệnh tống giam. Uất hận vì sự đối xử bất công này, người tùy viên quyết định tự mổ bụng để phản đối, theo truyền thống chiến sĩ Nhật.

Lúc ấy, Thiền sư Tiên Nhai Nghĩa Phạn (1750-1837) bất chợt nghe chuyện, vội vã can thiệp, ngăn cản người tùy viên tự tử vì một việc như thế.

Không hài lòng với biện pháp tạm thời, Tiên Nhai quyết tâm áp dụng giải pháp lâu dài. Một đêm mưa, khi hoa cúc nở đầy, Tiên Nhai cầm một lưỡi liềm, lẻn vào vườn lãnh chúa, cắt tất cả hoa cúc, không chừa một cành nào.

Nghe tiếng động lạ ngoài vườn, lãnh chúa nhìn ra và thấy có người ở đó. Vội vã rút kiếm với cảnh giác cao độ, ra xem coi ai đang làm gì.

Tiên Nhai bình tĩnh nói, “Nếu cỏ như thế này mà không cắt, chúng sẽ trở thành tầng bậc.”

Bây giờ lãnh chúa nhận ra mình đã sai lầm như thế nào. Tựa như vừa chợt tỉnh một cơn mộng. Từ đó về sau, ông ta không trồng hoa cúc nữa.

  (Giai Thoại Thiền)

  297. CỎ THƠM, HOA RỤNG

Đại sư Chiêu Hiền ở Lộc Uyển, Trường Sa thừa kế Pháp của Nam Tuyền, là người đồng thời với Triệu Châu và Tử Hồ. Cơ phong sư nhanh bén.

 Ai hỏi kinh, lấy kinh đáp; ai muốn kệ, liền cho kệ. Nếu ông muốn cùng lão thông gặp nhau, liền dùng lão thông gặp nhau.

Ngưỡng Sơn thường được coi là thuộc hàng cơ phong bậc nhất. Một hôm sư với Trường Sa cùng nhau ngắm trăng, Ngưỡng Sơn chỉ mặt trăng, nói:

- Mọi người đều có cái này, chỉ là dùng chẳng được.

 Trường Sa nói:

- Đúng vậy, ông dùng được chăng?

Ngưỡng Sơn nói:

- Sư thúc thử dùng xem.

Trường Sa liền cho Ngưỡng Sơn một đạp té nhào. Ngưỡng bò dậy nói: 

-Tôn thúc giống như con cọp.

Do đó, người sau gọi Trường Sa là “Sầm Con Cọp.”

Một hôm, Trường Sa đi dạo núi về đến cổng chùa, vị tăng thủ tọa, cũng là người trong hội chúng Trường Sa, hỏi:

- Hòa thượng đi đâu về vậy?

Trường Sa đáp:

- Đi dạo núi về.

Thủ tọa hỏi tiếp:

- Hòa thượng đã đến chỗ nào về?

Trường Sa đáp:

- Trước theo cỏ thơm đến, sau theo hoa rụng về.

Thủ tọa nói:

- Rất giống ý xuân.

Trường Sa nói:

- Còn hơn cả sương thu trên hoa sen.

  (Bích Nham Lục)

  298. BA CHUYỂN NGỮ

Trong hội chúng [Vân Môn], Ba Lăng có biệt danh là Giám Lắm Lời. Khi đi hành cước, sư luôn luôn may vá tọa cụ, thâm đạt đại sự dưới gót Vân Môn, như vậy nên rất kỳ đặc. Sau này, khi ra mặt với đời, với tư cách là người thừa kế Vân Môn. Trước tiên dừng lại ở Ba Lăng, Nhạc châu [Hồ nam]. Sư chẳng viết gì về truyền thừa giáo pháp mà chỉ dùng ba chuyển ngữ sau đây dâng lên Vân Môn:

 1. Thế nào là Đạo?

 - Người mắt sáng rơi giếng.

2. Thế nào là kiếm thổi lông?

 - Cành cành san hô chống đến trăng.

 3. Thế nào là tông Đề Bà?

 - Trong chén bạc đựng tuyết. 

Vân Môn nói, “Sau này vào ngày giỗ kỵ của lão tăng, chỉ cần cử ba chuyển ngữ này, kể như đã đền ơn đầy đủ.” Quả nhiên từ đó về sau, sư không tổ chức trai kỵ, chỉ theo ý Vân Môn, cử lên ba chuyển ngữ này.

  (Bích Nham Lục)

299. AI Ở TRONG GIẾNG? 

Đam Nguyên tên là Ứng Chơn, ở chỗ [Nam Dương] Quốc Sư làm thị giả. Sau sư đến trụ tại chùa Đam Nguyên ở Kiết châu [Giang Tây]. Lúc ấy, Ngưỡng Sơn đến tham kiến Đam Nguyên. Đam Nguyên lời nói nặng nề, tánh tình thô bạo, khó gần gũi. Không thể ở đó được, vì vậy trước tiên Ngưỡng Sơn đến tham kiến Thiền sư Tánh Không. Ở đó có một ông tăng hỏi Tánh Không:

- Thế nào là ý tổ sư từ Tây Thiên đến?

Tánh Không đáp:

- Giả sử có kẻ ở dưới giếng sâu ngàn thước, nếu ông có thể đem y lên khỏ giếng mà không dùng một tấc dây, sẽ vì ông nói ý Tổ sư từ Tây Thiên đến.

Ông tăng nói:

- Gần đây, hòa thượng Xướng ở Hồ Nam cũng nói đông nói tây với thiên hạ như vậy.

Lúc ấy, Tánh Không gọi Ngưỡng Sơn, bảo:

- Sa di, lôi cái xác chết này ra.

Sau Ngưỡng Sơn đem chuyện này đến hỏi Đam Nguyên:

- Hòa thượng làm sao đem người đó ra khỏi giếng?

Đam Nguyên nói:

- Kìa, đồ ngốc! Ai ở dưới giếng?

Ngưỡng Sơn không hiểu. Sau đó đến hỏi Qui Sơn. Qui Sơn liền gọi lớn [tên của Ngưỡng Sơn]:

- Huệ Tịch!

Ngưỡng Sơn ứng tiếng:

- Dạ!

Qui Sơn nói:

- Ra rồi.

Lần này Ngưỡng Sơn đại ngộ. Sư nói:

- Con ở Đam Nguyên được thể, ở Qui Sơn được dụng.

  (Bích Nham Lục)

 300. NÊN CƯỜI HAY NÊN KHÓC

Khi Lục Hoàn Đại phu làm Quán Sát sử ở Tuyên châu, đến tham học với Nam Tuyền. Khi Nam Tuyền tịch, Lục nghe khóc than liền vào chùa dự tang lễ. Cúng điếu xong, Lục liền cười ha hả. Viện chủ nói:

- Tiên sư và ngài có nghĩa thầy trò, tại sao chẳng khóc?

Lục Đại phu nói:

- Nói được thì khóc.

Viện chủ lặng câm. Lục bèn khóc lớn:

- Hỡi ôi! Hỡi ôi! Tiên sư cách biệt xa rồi.

Sau Trường Khánh nghe chuyện bèn nói: “Đại phu nên cười, chẳng nên khóc.”

  (Bích Nham Lục)


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 78)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (?-?), dịch giả Hán Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) là kinh thuộc hệ thượng thừa,
(Xem: 127)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 357)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướngchủng tộc, trong nhiều không gianthời gian khác nhau
(Xem: 569)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 733)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 750)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 787)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 903)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 869)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 999)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 785)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1118)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1328)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1070)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1344)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1210)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1150)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1372)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1659)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1469)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1577)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2476)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 2003)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3113)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2291)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1802)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2661)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2248)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2618)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12384)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3030)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6806)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4376)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2633)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3285)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2598)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3128)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2915)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3581)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3780)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3245)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3090)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4359)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6093)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5436)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5676)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3169)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5316)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2363)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2354)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2665)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2493)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 3358)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(Xem: 5101)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4941)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 4002)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 5013)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4766)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4555)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3945)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant