Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giữ tâm không biết

17 Tháng Sáu 201200:00(Xem: 18991)
Giữ tâm không biết

GIỮ TÂM KHÔNG BIẾT 

Cư Sĩ Nguyên Giác

Thế nào là “tâm không biết”? Chữ này thường được hiểu là “sơ tâm,” hay “tâm ban đầu,” hay là một tâm hồn nhiên khi niệm chưa khởi. Và có khi còn gọi là “vô tâm.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không” để đạt tới giác ngộ. Các vị thầy Tổ Sư Thiền, trong truyền thống Bắc Tông, phần nhiều khuyến khích sử dụng tâm này để làm viên gạch gõ cửa vào Thiền.

Trong truyền thống Nam Tông, có vẻ như ngược lại, thường hiểu rằng Thiền nghĩa là lấy cái biết để đối trị với tất cả phiền não, lấy cái “tâm biết” để khỏi lạc lầm -- cụ thể, Thiền là chánh niệm, là tứ niệm xứ, là niệm thân, niệm thọ, niệm tâm, niệm pháp...

Nhìn từ một chiều khác của Thiền, thường được nhấn mạnh trong Tổ Sư Thiền, là “hãy giữ lấy tâm không biết.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không biết” để đối trị các pháp. Vì Tổ Sư Thiền nói rằng, cái biết là vô lượng cái biết, lấy cái biết để tu thiền có khi không thích hợp với rất nhiều người. Vì “cái tâm không biết” không thể là nhiều hay là một, nên mới thật là “tâm không biết.” Đó là sự đơn giản tuyệt vời của tâm: lấy “tâm không biết” mà tu.

Nếu bạn tìm đọc Thiền Tông bằng tiếng Anh, gần đây bạn sẽ thấy nhiều bậc Thiền Sư, cả Bắc TôngNam Tông, từng nói về “tâm không biết.” Hoặc trong một ngôn ngữ tương tự, gần như thế.

Bạn có thể vào trang www.google.com và thử tìm cùng lúc 2 nhóm chữ “don’t know” và “mind,” bạn sẽ thấy “tâm không biết” đang là một pháp đối trị chủ yếu. Các bậc thầy có thể hiểu khác nhau, có thể áp dụng tâm này khác nhau, nhưng đôi khi được diễn giải rằng, pháp “tâm không biết” không trật gì với “tâm biết” của Tứ Niệm Xứ.

Cũng y hệt như tấm gương trong, “có hình hiện lên” với “không hình hiện lên” hoàn toàn không liên hệ gì với tánh phản chiếu của tâm.

Thí dụ, tại một trung tâm Thiền Nam Tông (Insight Meditation Center), Thiền sư Hoa Kỳ Gil Fronsdal nói chuyện trong bài có tựa đề “Not-Knowing” vào ngày 10-2-2004. Trích:

In Vipassana we often emphasize knowing and seeing deeply into our lived experience. However, just as our capacity to know can be developed, so can we cultivate a wise practice of not-knowing... As a Buddhist practice, not-knowing leads to more than an intimacy and open mind. It can be used as a sword to cut through all the ways that the mind clings. If we can wield this sword until the mind lets go of itself and finally knows ultimate freedom, then-not knowing has served its ultimate purpose.” (Link: http://www.insightmeditationcenter.org/books-articles/articles/not-knowing/)

Dịch như sau:

Trong Vipassana, chúng ta thường nhấn mạnh sự biết và nhìn sâu thẳm vào kinh nghiệm sống của chúng ta. Tuy nhiên, vừa khi khả năng biết của chúng ta có thể phát triển, chúng ta có thể vun bồi một phương pháp khôn ngoan của tâm-không-biết... Như một pháp tu Phật Giáo, tâm-không-biết dẫn tới nhiều hơn một tâm cởi mở và sâu thẳm. Nó có thể được dùng như một lưỡi gươm cắt đứt mọi lối ngõ mà tâm dính mắc. Nếu chúng ta có thể vung thanh kiếm này tới khi tâm tự xa lìa nó và rồi thấu đạt tự do tận cùng, thì tâm-không-biết lúc đó đã làm xong mục tiêu tận cùng.” (Hết dịch)

Như vậy, câu hỏi nơi đây là, cái “tâm không biết” có phải là một cách để tiếp cận “Tánh Không” hay không? Hay thực sự, nó không phải là một phương pháp, mà chính là một nơi đã có sẵn trong tâm mỗi người? Bởi vì, có phải tự thân bản tâm đã là trong sáng, đã là xa lìa phiền não?

Trong tác phẩm “A Taste of Freedom” (Hương Vị Giải Thoát) của Thiền Sư Thái Lan Ajahn Chah, có một số lời dạy của ngài, một vị thầy Nam Tông, trích như sau:

About this mind... In truth there is nothing really wrong with it. It is intrinsically pure. Within itself it's already peaceful. That the mind is not peaceful these days is because it follows moods. The real mind doesn't have anything to it, it is simply (an aspect of) Nature. It becomes peaceful or agitated because moods deceive it...

But really this mind of ours is already unmoving and peaceful... really peaceful! Just like a leaf which is still as long as no wind blows...

Our practice is simply to see the Original Mind. So we must train the mind to know those sense impressions, and not get lost in them. To make it peaceful. Just this is the aim of all this difficult practice we put ourselves through...

Just this is called "making the mind empty." It's empty but there is still doing. This emptiness is something people don't usually understand, but those who reach it see the value of knowing it. It's not the emptiness of not having anything, it's emptiness within the things that are here.” (Bản Anh dịch của sư Ajahn Puriso. Link: http://www.accesstoinsight.org/lib/thai/chah/atasteof.html)

Dịch như sau:

Về tâm này... Sự thật, không có gì là sai với nó. Nó tự thân trong sạch. Trong nó, nó đã an định rồi. Rằng tâm này bây giờ không an định chỉ vì nó chạy theo cảm xúc. Chân tâm không có bất cứ thứ gì với nó, nó chỉ đơn giản là (một phương diện của) Vạn Pháp. Nó trở thành an định hay dao động bởi vì cảm xúc lừa gạt nó...

Nhưng thực sự tâm này của chúng ta đã là bất độngan định... thực sự an định! Y hệt như chiếc lá, nó an định cho tới khi nào gió thổi...

Pháp tu của chúng ta chỉ đơn giản là thấy Bản Tâm. Do vậy chúng ta phải tập cho tâm những ấn tượng cảm thọ đó, và đừng để lạc trong nó. Để làm cho nó an định. Đó chính là mục tiêu của tất cả sự thực tập khó khăn này mà chúng ta gắng vượt qua...

Thế nên, cái này được gọi là “quét cho tâm trống rỗng.” Nó “trống rỗng” nhưng vẫn có sự lưu chuyển [trong tâm]. Trạng thái vô tâm này là cái mà người ta không thường hiểu được, nhưng những ai đạt tới [vô tâm đó] sẽ thấy giá trị của việc biết tới nó. Nó không phải là cái rỗng không của sự không có gì hết, nhưng nó là ‘tánh không’ mà trong mọi pháp nơi đây đã có sẵn.” (Hết dịch)

Ngôn ngữ “tâm không biết” thường được gặp trong pháp dạy của Thiền Sư Duy Lực.

Thí dụ, trong bài “Phật pháp với Thiền tông” do Hòa thượng Thích Duy Lực giảng, trích:

Nói một cách khác tức là mượn cái không biết của bộ óc để chấm dứt tất cả cái biết của bộ óc. Dù nói chấm dứt, thật ra chẳng cần tác ý để chấm dứt, có nghi tình thì nó sẽ tự động chấm dứt tất cả biết.

Tại sao muốn chấm dứt cái sở biết của bộ óc? Bởi vì cái sở biết của bộ óc là tướng bệnh, cũng thuộc về cái biết của người mù. Ví như người mù chẳng thấy mặt trời mà đi hỏi người mắt sáng (người mắt sáng dụ cho người đã ngộ), người mắt sáng nói : “Mặt trời tròn và nóng”, lời của người mắt sáng nói tròn và nóng là đúng, nhưng người mù chấp cái vật thể tròn và nóng là mặt trời thì sai rồi (nghĩa là Phật tánh cần phải tự tánh tự thấy mới được).” (Link: http://duylucthien.wordpress.com/2011/11/12/ph%E1%BA%ADt-phap-v%E1%BB%9Bi-thi%E1%BB%81n-tong/)

Dù vậy, trên đường tu học luôn luôn cần phải cảnh giác, vì ngôn ngữ không mô tả hoàn toàn đúng cảnh giới tinh tế của tâm. Bởi vì nói "tâm không biết," hay nói "vô tâm," hay nói "quét sạch cho tâm rỗng không" rồi cũng dễ bị ngộ nhận. Vì ngôn ngữ chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng, nếu chấp từng chữ là sẽ lầm lạc.

Trong Tác phẩm "Cội Nguồn Truyền Thừa & Phương Pháp Tu Trì Của Thiền Tông" của Nguyệt Khê Thiền Sư, bản Việt dịch của HT Thích Duy Lực, có đoạn vấn đáp sau. Trích:

"...Tăng hỏi: Con ở núi Chung Nam bốn mươi mấy năm, dụng công như thế này: Niệm đã sanh là vọng niệm, niệm chưa sanh là Phật tánh chơn tâm, mỗi ngày khởi niệm động niệm mỗi mỗi rõ ràng, lúc niệm chẳng khởi thì tịch mà chiếu, lúc động niệm thì chiếu mà thường tịch, cũng đều mỗi mỗi rõ ràng, dụng công như thế hợp với cách tu của Thiền tông chăng?

Sư nói: Ông tu nhiều năm là bậc lão Tôn túc, nhưng dụng công như thế thật là sai lầm lớn. Ông cho nghiệp thức của kiến, văn, giác, tri là Phật tánh, Phật tánh như như bất động, đâu thể khởi vọng niệm! Cái tịch mà thường chiếu với cái chiếu mà thường tịch mỗi mỗi rõ ràng của ông nói, đều là tác dụng của bộ não, với Phật tánh trọn chẳng dính dáng, nay ông nhận giặc làm con, Phật nói bọn này thật đáng thương xót! Ông nên đem cái niệm mỗi mỗi rõ ràng đó nhìn thẳng chỗ hầm sâu vô minh, khi nhân duyên đến, hầm sâu vô minh tan rã, liền thấy bổn lai Phật tánh. Khi kiến tánh rồi, khởi niệm động niệm, tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch thảy đều là Phật tánh, chẳng cần phân biệt nữa.

*

Tăng hỏi: Người xưa nói “Nhận lấy tự tánh, bổn lai thành Phật, chẳng nhờ tu trì, chẳng thuộc đốn, tiệm, vạn đức viên mãn, thể tự như như”. Con từng theo ý này dụng công, một niệm chẳng khởi tức là Phật tánh, chẳng nhờ tu trì, như thế có phải minh tâm kiến tánh chăng?

Sư nói: “Lời của người xưa nói ấy là lời đã kiến tánh, người chưa ngộ chẳng thể dùng suy nghĩ để đoán mò. Ông cho một niệm chẳng khởi tức là như Phật tánh, nhưng một niệm chẳng khởi chỉ là tạm thời, chẳng phải Phật tánh, ông nên khởi một niệm này hướng vào chỗ chẳng khởi niệm nhìn thẳng, đến khi công phu thuần thục, “ồ” lên một tiếng, vô thỉ vô minh phá tan, liền thấy Phật tánh, mới biết tự tâm vốn là Phật, chẳng nhờ tu trì, chẳng thuộc đốn tiệm, cảnh giới này mới thật là vạn đức viên mãn”. (Hết trích. Link: http://old.thuvienhoasen.org/duyluc-coinguontruyenthua3.htm)

Do vậy, dù nói là lấy “tâm không biết” để tu nhưng cũng là chuyện cực kỳ gian nan, không dễ tí nào. Y hệt như người hát xiệc đi dây băng qua thung lũng, sơ suất bước chân là rớt khỏi dây liền.

Cõi sinh tử này là như thế: không bước đi là sẽ té, và bước đi là phải cảnh giác từng bước mới vượt qua được. Và đó cũng là nhu cầu cần có các Thiền thất để giúp nhau cảnh giáctu tập.

Cư Sĩ Nguyên Giác

 

GHI CHÚ: Một khóa Thiền thất 7 ngày tu tập theo Pháp môn Tổ Sư Thiền, từ ngày 10/06/2012 đến ngày 16/06/2012 sẽ tổ chức ở Quận Cam. Thời khóa biểu tu tập của 7 ngày thiền thất là từ 5:00 giờ sáng cho đến 8:00 giờ tối mỗi ngày. Tiếp theo là Lễ Tưởng Niệm năm thứ mười một ngày viên tịch của Cố Đại Đức Trụ Trì Thích Truyền Mẫn vào lúc 11 giờ trưa ngày 17/06/2012, TỪ 8:00am. Kính mời đồng hương tham dự. Từ Ân Thiền Đường, 4310 W. 5th Street, Santa Ana, CA 92703. Tel: 714-265-2357. website: http://www.tosuthien.org hoặc http://www.tuanthienduong.org. email: contact@tosuthien.org



Độc gỉa Quế Phạm gửi thư cho TVHS góp ý:

Cư sĩ Nguyên Giác viết:

“Thế nào là “tâm không biết”?

Chữ này thường được hiểu là “sơ tâm,” hay “tâm ban đầu,” hay là một tâm hồn nhiên khi niệm chưa khởi. Và có khi còn gọi là “vô tâm.” Nghĩa là, lấy cái “tâm không” để đạt tới giác ngộ. Các vị thầy Tổ Sư Thiền, trong truyền thống Bắc Tông, phần nhiều khuyến khích sử dụng tâm này để làm viên gạch gõ cửa vào Thiền.”

***

Thưa quý đạo hữu,

Tâm anh nhi”, “sơ tâm”, là nói về cái tâm hồn nhiên như đứa trẻ chưa phân biệt thiện ác, chưa khởi niệm tạo nghiệp, như tờ giấy trắng.

Tâm không biết” và “tâm ban đầu”, “sơ tâm” không giống nhau. Cơ thể con người cần phải “biết”. “Tâm anh nhi” của đứa trẻ vẫn “biết” đủ thứ, chỉ là chưa thể tác ý tạo nghiệp thiện ác, bộ óc chỉ mới biết sai khiến các cơ quan của thân thể họat động để sinh tồn theo bản năng, “biết” đói thì đòi bú, “biết” đã được ăn no thì vui cười, “biết” ngứa ngáy vì dơ dáy thì khóc để được thay đồ, gặp người lạ thì “biết” sợ bám chặt lấy mẹ, tất cả những động tác đó đều do bộ óc “có biết” nhận ra được, rồi bộ óc “có biết” qua hệ thống thần kinh chỉ huy các hành vi tạo tác sơ đẳng, không thể là “tâm không biết”.

Quế Phạm

nguyetquepham@yahoo.com

_____________________________________

Độc gỉa Lương Pham gửi email cho TVHS:

Cư Sĩ Nguyên Giác viết:

 "GIỮ TÂM KHÔNG BIẾT.
 Thế nào là “tâm không biết”? "

*

Lương Phạm xin góp ý:

Có biết” và “không biết” là tương đối. Giữ “tâm không biết” là “chấp không”.
Lại nữa, nếu tâm đã “không biết” thì cái gì hoặc tâm nào tác ý sự “giữ tâm không biết”.

Nếu con người chỉ còn “tâm không biết” thì cũng giống người thực vật, cơ thể không còn tự họat động được nữa mà phải có người giúp mọi sinh họat hằng ngày chăng?

Luong Pham

email address : luongqpham@yahoo.com

_____________________________________


Độc gỉa Bình Hoàng gửi email cho TVHS góp ý:


Triệu Châu hỏi ngài Nam Tuyền:

- Thế nào là Đạo?

Nam Tuyền nói:

- Tâm bình thường là Đạo.

- Còn có thể hướng đến chăng?

- Nghĩ hướng đến liền trái.

- Khi chẳng nghĩ làm sao là biết Đạo?

- Đạo chẳng thuộc biết cùng chẳng biết, biết là vọng giác, chẳng biết là vô ký. Nếu thật đạt Đạo thì chẳng nghi, ví như thái hư thênh thang rỗng rang, đâu thể gắng gượng nói phải quấy!

Sư nhân nghe lời này lập tức ngộ được huyền chỉ.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 72)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (?-?), dịch giả Hán Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) là kinh thuộc hệ thượng thừa,
(Xem: 119)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 348)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướngchủng tộc, trong nhiều không gianthời gian khác nhau
(Xem: 565)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 732)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 739)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 777)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 893)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 864)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 996)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 783)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1115)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1324)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1065)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1341)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1204)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1148)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1367)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1656)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1464)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1576)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2474)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 2000)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3109)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2289)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1798)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2659)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2243)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2617)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12368)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3023)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6785)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4373)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2630)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3282)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2596)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3126)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2913)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3580)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3778)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3244)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3088)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4357)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6087)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5425)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5663)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3166)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5312)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2360)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2351)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2661)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2488)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 3356)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(Xem: 5091)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4932)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 3997)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 5012)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4762)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4551)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3944)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant