Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tinh yếu của thiền

16 Tháng Sáu 201300:00(Xem: 11529)
Tinh yếu của thiền


TINH YẾU CỦA THIỀN
Tuệ Thiện


tinhyeucuathien-tuethienCó rất nhiều phương pháp thiền. Mỗi vị thiền sư lưu truyền một phương pháp cho các đệ tử; đến phiên các vị này, mỗi vị lại thêm thắt biến đổi một ít tùy theo sự hiểu biếtkinh nghiệm đạt đạo của mình. Thành ra có bao nhiêu thiền sư là có bấy nhiêu phương pháp. Vậy thì làm cách nào để đánh giá một phương pháp thiền? Chúng ta phải qui chiếu vào kinh điểndựa trên phương pháp của Đức Phật, nếu chúng ta vẫn coi Ngài là vị Thiền Sư đầu tiên đã tìm ra được phương pháp dẫn tới sự giác ngộ. Còn vị thiền sư nào hơn Đức Phật? Có vị tổ sư thiền nào để lại cho chúng ta hơn một cuốn sách dạy về thiền đâu? Nhất là những vị đã chủ trương "bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền". Một vị thiền sư phải có ít nhất một vị đệ tử đạt đạo giống như mình. Điều này chứng tỏ phương pháp của mình là khả thi và hiệu quả dẫn tới cùng một mục đích. Nếu mục đích là thấy Niết Bàn, thì người đệ tử cũng phải thấy rõ Niết Bàn. Nếu mục đích là đắc thần thông, thì người đệ tử cũng phải đắc thần thông như vị thầy. Đức Phật sau khi đắc đạo, đã nghĩ tới những người bạn cùng tu khổ hạnh với mình thuở trước. Bài pháp "Chuyển pháp luân" đầu tiên của Ngài đã khai quang tuệ giác cho 5 đạo sĩ khổ hạnh nầy và đã đưa 5 ông đến đạo quả A La Hán, ngang hàng với Đức Phật về hiệu quả chứng đắc: thấy Niết Bànchấm dứt luân hồi. Năm vị thuộc nhóm Kiều Trần Như là một bằng chứng cụ thể đầu tiên cho thấy Niết Bàn là một sự thậtphương pháp của Đức Phậthiệu nghiệm huyền diệu. Từ đó đến nay không biết bao nhiêu thế hệ Thiền Sư - Đệ Tử, Đệ Tử - Thiền Sư thực hành theo phương pháp của Ngài đã giác ngộ Niết Bàn.

Đức Phật đã giảng dạy hai phương pháp thiền: Chỉ Tịnh (Samatha) và Tuệ Quán (Vipassanâ). Đúng ra phương pháp Chỉ Tịnh đã có từ trước thời Đức Phật, nhưng Ngài vẫn tiếp tục truyền dạy vì thấy lợi ích của nó và đồng thời Ngài có cách để đưa nó vào con đường dẫn tới sự giải thoát. Phương pháp Tuệ Quán do chính Ngài phát hiện ra và được Ngài phẩm định là một "con đường duy nhất (Ekâyânomaggo) để chúng sinh tự thanh lọc để diệt trừ đau khổ, để thành đạt trí tuệchứng ngộ Niết Bàn" (Kinh Niệm Xứ ‘Satipaṭṭhâna Sutta’, Trung Bộ Kinh số 10).

Bài này xin đề cập đến tinh yếu của loại thiền thứ hai này và thử đi tìm chỗ giao thoa giữa 2 phương pháp.

-ooOoo-

Những Phương Tiện

Chúng ta từ sáng tới tối, từ sinh ra cho tới chết đi, lúc nào cũng bị ngoại cảnh lôi cuốn. Từ sự nghe, thấy, ngửi, nếm, đụng, cho tới suy nghĩ cũng đều từ cái thế giới bên ngoài. Chưa lúc nào chúng ta có dịp ngồi lại nhìn cái thế giới nội tại. Thiền chính là lúc chúng ta làm công việc này. Tinh yếu của thiền trước tiên là quay cái nhìn vào bên trong tự thể. Muốn như thế chúng ta cần phải biết sử dụng 3 phương tiện: sự cố gắng, sự ghi nhận và sự giác tỉnh. Đây là 3 khả năng của tâm thứcnếu không phát triển dùi mài, làm cho điêu luyện thì không thể nào thấy được thực tướng của sự vật và con tâm.

Khi chúng ta làm việc gì với sự cố gắng, chúng ta đều biết nó khác với lúc chúng ta làm với sự thờ ơ chểnh mảng; chúng ta cảm thấy có một nhiệt tình, một hăng hái nào đó trong tâm. Sự cố gắng nầy Phật Giáo gọi là TINH TẤN (Viriya), là một yếu tố rất quan trọng cho sự giác ngộ. Trong thiền tinh tấn không phải là ráng ngồi bất động càng lâu càng tốt, mà là cố gắng duy trì sự chú ý - ghi nhận (trên) các đề mục thiền và cũng không quên ghi nhận sự thay đổi hay biến mất của các đề mục này. Do đó ta có thể thay đổi tư thế từ ngồi sang đứng, sang đi hay sang nằm hoặc làm việc, ăn uống, tiêu tiểu, miễn là không đánh mất sự ghi nhận.

Sự ghi nhận là một khả năng khác của tâm, nó còn được gọi là NIỆM (Sati), là ý thức, nhận biết, nắm bắt đối tượng xuyên qua 6 cửa ngỏ của tâm. Năm cửa giúp chúng ta giao tiếp với thế giới bên ngoài ngay trong giây phút hiện tại và một cửa (ý) giúp ta nắm bắt các đối tượng nội tại ở trong cả 3 thời quá khứ, hiện tại, vị lai và cả những ý niệm trừu tượng, như ý niệm KHÔNG chẳng hạn hay những đối tượng vượt ngoài thời giankhông gian, như NIẾT BÀN chẳng hạn. Thể tánh của sự ghi nhậnCHÚ TÂM (attention). Nó là trụ cốt của thiền. Không có GHI NHẬN - CHÚ TÂM không có thiền. Sự ghi nhận giúp cho ta gom tâm vào đối tượng và sàng lọc những gì đối với tâm là quan trọng nhất lúc bấy giờ. Có lúc tâm chỉ phát hiện những gì mình ưa thích. Có lúc lại thấy nổi lên những gì mình ghét nhất dù rằng một cách vô thức. Bởi thế mà THAM và SÂN được có dịp để phát triển và tác hại. Nếu chúng ta biết khôn khéo tác ý đối tượng (Yonisomalasikara = như lý tác ý), thì công dụng của sự ghi nhận là ngăn chận bảo vệ tâm thoát khỏi hai lưỡng cực tham và sân. Đây là công dụng tích cực của thiền nhằm bảo vệrèn luyện tâm.

Trong Thiền Quán đối tượng không gì khác hơn là thân và tâm (hay các hiện tượng vật chấttinh thần) đang diễn biến không ngừng bên trong ta. Khi những vọng tưởng trở nên thưa dần, những ba động từ bên ngoài được sàng sẩy, thì thân và tâm xuất hiện ngày càng rõ rệt. Lúc đó ghi nhận - chú tâm giúp cho ta thấy rõ, hiểu rõ bản chất của THÂN TÂM. Những đặc tướng VÔ THƯỜNG, KHỔ và VÔ NGÃ không còn là những danh từ vô nghĩachúng hiện ra dưới con mắt bàng hoàng của kẻ quan sát.

Sự ghi nhận - chú tâm giữ một vai trò quan trọng trong sự rèn luyệnkiểm soát tâm. Trong một bài kinh, Đức Phật dạy một vị Tỳ Khưu: "Khi nghe hãy dừng lại ở sự nghe; khi thấy dừng lại ở sự thấy; khi ngửi, nếm, đụng, dừng lại ở ngửi, nếm, đụng". Việc này chỉ có thể làm được nhờ sự ghi nhận - chú tâm. Thật vậy, sự chú tâm soi sáng giai đoạn chuyển tiếp từ tư tưởng sang hành động, có thể giúp ngăn chận những hành động hay lời nói làm hại đến chính mình hay làm đau khổ thiệt hại đến người khác. Theo tâm lý học Phật giáo không bao giờ có hiện tượng "khẩu xà tâm Phật" vì trước khi lời nói ác độc được thốt ra, nó đã được hình thành trong tâm tư rồi dù rất nhanh lẹ.

Trong giai đoạn thực tập, nó có thể làm chậm lại sự hành động, nhưng một khi đã trở thành thói quen thuần thục, nó giúp cho ta ngăn chận một cách hiệu quảquyết định mau lẹ rời bỏ những tư tưởng và hành động xấu xa. Trong thực hành muốn dừng lại ở sự nghe, sự thấy, sự ngửi nếm đụng không phải dễ, điều này có nghĩa là dùng chánh niệm để ghi nhân sự thấy (nhãn thức) ngay khi nó xuất hiện do sự tiếp xúc của nhãn căn với nhãn trần lúc này đối tượng vẫn còn là chân đế, tâm vẫn còn thọ xả cho dù đối tượng có tốt hay xấu, nó chưa bị ô nhiễm hay phiền não chen vào. Nó chưa bị tâm hành chi phối, tâm hành là đã có sự phân biêt chọn lựa, thương hay ghét. Một trong những "phương pháp" của Thiền Sư Thích Thanh Từ là: "Đối cảnh không sinh tâm", nếu không nhờ chú tâm chánh niệm thì làm sao có thể không sinh tâm được? Tâm đây chính là tâm hành, một thành phần của ngũ uẩn.

Làm sao chỉ một công việc đơn giảnCHÚ TÂM - GHI NHẬN có thể giải thoát con người khỏi vòng sinh tử luân hồi? Như chúng ta đã biết định luật "Thập Nhị Nhân Duyên" trói buộc con người trong vòng sanh tử bằng 12 móc xích: VÔ MINH => HÀNH => THỨC => DANH SẮC=> LỤC NHẬP=> XÚC=> THỌ=> ÁI=> THỦ=> HỮU=> SINH=> LÃO TỬ... (--> vô minh). Chính nhờ sự CHÚ TÂM can thiệp, cắt đứt gạch nối giữa hai móc xích THỌ -/-> ÁI mà con người mới được giải thoát khỏi vòng sinh tử khổ đau. Như chúng ta đã biết, thọ có 3 loại: lạc, khổ và xả. THỌ LẠC đưa tới ái dục, ưa thích, dính mắc. THỌ KHỔ đưa tới sân ưu, thù hận, ghét bỏ. Cả hai đều đưa tới sự chấp thủ (THỦ), tạo nghiệp (HỮU) Một đàng tạo nghiệp THAM, một đàng tạo nghiệp SÂN. Cả hai đàng đều dẫn vào luân hồi. Sự chú tâm, nhờ được rèn luyện tinh tế, sẽ giúp ngăn chận hữu hiệu sự tạo nghiệp xấu này. Đức Phât có giảng rõ điều này trong bài kinh "Thế Giới'" (Tương Ưng bộ kinh IV, Thích Minh Châu, trang 94) "...Và này các tỳ kheo, thế nào là thế giới đoạn diệt? Do duyên Mắt và các Sắc khởi lên nhãn thức. Do ba cái hợp lại (căn, trần, thức) nên có XÚC. Do duyên xúc nên có THỌ. Do duyên thọ nên có ÁI . Do sự đoạn diệt ly tham ái ấy một cách hoàn toàn nên THỦ diệt, Do thủ diệt nên HỮU diệt, Do hữu diệt nên SANH diệt, Do sanh diệt nên GIÀ, CHẾT, SẦU, BI, KHỔ, ƯU NÃO diệt. Như vây toàn bộ ngũ uẩn này đoạn diệt. Này các tỳ kheo, đây là thế giới đoạn diệt.

Bởi thế một tinh yếu khác của thiền là phải ghi nhận cho được cảm thọ trong mọi hoàn cảnh. Mỗi khi có sự tiếp xúc giữa giác quan (lục căn) và cảnh trần (lục trần), phải cố gắng ghi nhận cho được cảm thọ. Cảm thọ của thân và cảm thọ của tâm: từ dễ chịu cho tới khó chịu, từ hỷ lạc cho tới đau đớn, khổ sở cùng tột. Cảm thọ nào rồi cũng đi qua. Những cảm giác sung sướng, khoái lạc đi qua rất nhanh, chỉ còn lại một cảm giác đại đồng, âm ỉ, bao trùm: KHỔ. Khi sung sướng, hạnh phúc, muốn kéo dài không được cũng khổ. Cây muốn lặng mà gió không ngừng cũng khổ. Tâm xao động, bứt rứt; ý tưởng thù hận hay ăn năn, hối tiếc cứ nổi dậy quay cuồng trong tâm, đôi khi phải dùng cái chết mới chấm dứt được. Cái khổ xuất hiện dưới muôn hình vạn trạng. Bao giờ chúng ta thấy tất cả các khía cạnh của khổ trong sự tỉnh giác hoàn toàn từ KHỔ THỌ, KHỔ HÀNH, KHỔ TƯỚNG, cho tới cuối cùngKHỔ ĐẾ thì NIẾT BÀN sẽ hiện ra ở ngưỡng cửa cuối cùng.

Một bí quyết để đi tới sự thật cùng tột là duy trì sự liên tục của chú niệm. Muốn như thế phải có sự cố gắng như đã nói ở trên, và phải liên tục ghi nhận THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP. Đằng sau thân là thọ, đằng sau tâm là thọ, đằng sau pháp là thọ và đằng sau thọ ẩn nấp THAM và SÂN, cũng như ẩn nấp VÔ THƯỜNG, KHỔ, và VÔ NGÃ.

Đi chung với sự chú tâm - ghi nhận là sự GIÁC TỈNH (Sampajañña: claire compréhension). Dĩ nhiên, khi có sự chú tâm thì trí não sẽ hiểu rõ những gì đang xảy ra bên trong và xung quanh ta. Công việc nầy, khoa học tâm thần (neuroscience) gọi là xử lý các dữ kiện (traitement des informations) là một nhiệm vụ quan trọng của tâm. Đây chính là yếu tố trí tuệ trong Phật Giáo; nó có 4 chi:

1) Hiểu biết rõ ràng về mụ̣c đích (Sâtthaka Sampajañña): trong đời sống có người không biết sống để làm gì? khi làm một việc gì đó, không biết làm để làm gì? Thiền cũng vậy, không biết với mục đích gì? Thấy người khác làm thì bắt chước vì thấy hay hay. Cho nên trong khi làm, nếu có một cái gì đó có vẻ thích thú hơn thì người đó chạy theo cái thích thú mới và cứ như thế tiếp tục cho đến hết cuộc đời. Mục đích của thiền rất rõ ràng là thiêu đốt phiền não, tiêu diệt THAM, SÂN, SI. Có môn phái thiền cho rằng thiền không nhằm mục đích gì cả. Thật ra, đó chỉ là một cách nói để cho thiền sinh đừng vọng móng, nếu không họ thiền để làm gì?

2) Hiểu biết rõ ràng những điều kiện (Sappâya Sampajañña) thích hợp về thời gian, không gianphương tiện để thực hiện mục đích trên. Một hành động, cử chỉ hay lời nói đều nhằm một mục đích nào đó, nếu khôngtrở thành vô ích. Trong thiền ta đã biết rõ mục đích, vậy thì bất cứ điều gì cần cho mục đích ấy hay cần cho sự liên tục của pháp hành thì cứ làm. Ngoài ra đều nên tránh. Đức Phật dạy rằng nếu điều kiện nơi chốn thuận tiện, thức ăn thích hợphành giả vẫn không thấy pháp thì tốt hơn nên rời bỏ nơi ấy. Ngược lại, nếu nơi chốn không tốt, thức ăn không thích hợphành giả hành thấy pháp thì nên tiếp tục ở lại kiên trì. Điều này có nghĩa là những điều kiện vật chất không đáng kể bằng những điều kiện tinh thần như giới đức, một vị thầy, một phương pháp thiền...

3) Hiểu biết rõ ràng về lãnh vực quán niệm (Gocara Sampajañña). Điều này có thể được hiểu là biết rõ lúc nào chúng ta đang ở trong thiền và lúc nào đã xuất thiền. Ở trong thiền có nghĩa là chúng ta không xa rời đề mục. Xuất thiền là chúng ta đã ra ngoài đề mục và ra ngoài mục đích. Nếu đề mục là thân và tâm, chúng ta đã ra khỏi thân tâm. Nếu mục đíchdiệt trừ phiền não, thì chúng ta đã ra khỏi mục đích này. Trên thực tế nếu hành TỨ NIỆM XỨ thì lúc nào chúng ta cũng có thể ở trong thiền được; vì những lãnh vực của thiền tứ niệm xứ bao gồm tất cả những sinh hoạt của đời sống. Càng luyện tập thì những lãnh vực của thiền càng ngày càng mở rộng để bao trùm tất cả mọi sinh hoạt. Đến khi thuần thục thì chúng ta có thể "sống thiền" liên tục, trừ lúc ngủ. Hành thiền Chỉ Tịnh thì không thể được như vậy; vì càng luyện tập thì lãnh vực của thiền càng chuyên sâu, đến độ phải đóng kín cả 5 cửa của giác quan để chỉ giữ một cửa ý. Do đó càng ngày càng phải xa lánh đời sống thế tục ồn ào để ẩn cư nơi chốn sơn lâm tĩnh mịch.

4) Hiểu biết rõ ràng về thực tại (Asammoha Sampajañña): hiểu rõ có đúng sự thật hay những gì mình thấy, mình cảm nhận chỉ là một ảo giác, ảo tưởng; tức là hiểu biết sự vật đúng như nó là như vậy, không thêm không bớt, không qua lăng kính ngã chấp, không theo nhãn quan tình cảm: Một cái nhìn "chánh kiến".

Sự Quân Bình Giữa Ngũ Căn

Tinh yếu sau cùng của thiền TỨ NIỆM XỨ là sự giữ quân bình giữa ngũ căn: TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH và TUỆ. Khi ngũ căn quân bình với nhau, thì niệm sẽ làm việc một cách tự nhiên không cố gắng, khi ấy tuệ sẽ phát.

Vào thời Đức Phật, có Đại Đức SONA KOLIVISA rất là tinh tấn, ngài cố gắng quá sức cả thân và tâm trong khi hành thiền nhưng vẫn không có kết quả. Ngày kia ngài có ý định từ bỏ cuộc sống phạm hạnh để trở về với gia đình. Đức Phật biết được ý định của ông, bèn xuất hiện dạy dỗ: "Có phải khi còn là cư sĩ, con rất giỏi về nhạc khí không? Con nghĩ thế nào, này SONA, khi cây đàn của con lên dây cao quá mức, con có thể đàn đúng âm điệu không? Và con nghĩ thế nào, này SONA, khi cây đàn của con lên dây thấp quá, con có thể đàn đúng âm điệu không?" - "Bạch Ngài, không" - "Cũng như thế ấy, này SONA, cố gắng quá mức làm cho thân tâm căng thẳng và không đủ cố gắng sẽ sinh ra dã dượi, lười biếng. Thấu hiểu sự quân bình của các căn, con sẽ thành đạt mục tiêu bằng cách kiên trìđều đặn tinh tấn". Theo lời chỉ dạy của Đức Phật, về sau Đại Đức SONA KOLIVISA đắc quả A La Hán (Vinaya text II, Anguttara 55).

TÍN là niềm tin của hành giả nơi Phật, Pháp, Tăng:

- Phật là sự giác ngộ, sự giải thoát.

Tin nơi Phật, hành giả tin rằng sự giác ngộgiải thoát là có thật và mục đích của hành thiền là đi đến sự giác ngộ để thấy rõ bản chất BẤT TỊNH, VÔ THƯỜNG, VÔ NGÃ của thân tâm này, đi đến sự giải thoát khỏi THAM, SÂN, SI. Vì là một cái gì còn ở ngoài tầm tay người hành thiền, nên họ chỉ phải tin. Đây không phải là một niềm tin mù quáng, vô căn cứ, mà nó được xác nhận bởi Đức Phậtvô số các thế hệ thiền sư chứng đắc.

- Pháp là con đường, là phương pháp dẫn tới sự giác ngộ.

Tin nơi Pháp, hành giả tin rằng phương pháp mình đang theo phù hợp với những giáo huấn của Đức Phật. Hành giả có thể kiểm chứng qua kinh điển do Đức Phật truyền lại rải rác trong Tam Tạng Pháp Bảo và đã được sao lục bởi các học giả Phật Giáo.

- Tăng là tập thể những người cùng hành đạo, bao gồm các vị thiền sư tu sĩcư sĩ. Tuệ Trung Thượng Sĩ, thầy của vua Trần Nhân Tông (Trúc Lâm đệ nhất tổ) là một cư sĩ. Goenka, một thiền sư hiện đại nổi tiếng, đệ tử của thiền sư U BA KHIN, cả hai đều là cư sĩ. Bà ACHAAN NAEB, thầy của vô số tăng ni phật tử Thái Lan và Việt Nam, là một cư sĩ đã chứng đắc.

Tin nơi Tăng, hành giả tin ở sự hiểu biếtkinh nghiệm của người thầy hướng dẫn mình, có thể giúp mình vượt qua những khó khăn trở ngại trên con đường tu tập. Đồng thời cũng tin tưởng nơi những bạn đạo đồng hành. Đôi khi những kinh nghiệm ngu dốt của họ lại là những ngu dốt của ta. Những trao đổi kinh nghiệm giữa các thiền sinh đôi khi hiệu quả hơn lời chỉ dạy của ông thầy (học thầy không tày học bạn).

TÍN ngoài ra còn là một niềm tin nơi khả năng của chính mình có thể đi hết con đường còn lại từ đây cho tới khi nhắm mắt. Con đường dù còn dài, con đường dù còn nhiều chông gai, sức ta còn, hơi ta chưa cạn, ta còn có thể cải thiện thân tâm này. Cũng như sự tích một nhà sư bị cọp vồ trong lúc đang hành thiền TỨ NIỆM XỨ. Mỗi một cú ngoạm xé của cọp vào da thịt của ngài là một lần để ngài tiếp tục hành thọ quán niệm xứ, cho đến khi thành đạo quả trước giây phút trút hơi thở cuối cùng trong miệng cọp.

Bốn yếu tố TÍN, TẤN, NIỆM, TUỆ (giác tỉnh) đã được đề cập tới, bây giờ xin đề cập đến yếu tố ĐỊNH.

Yếu tố ĐỊNH rất quan trọng để phân biệt hai loại thiền: Chỉ Tịnh (Samatha) và Tuệ Quán (Vipassanâ):

- Mục tiêu của thiền Chỉ Tịnh là đi đến TOÀN ĐỊNH (= An Chỉ Định: Apana Samâdhi), rồi từ đó có thể tiến đạt đến các tầng thiền sắc giớivô sắc giới, hoặc có thể phát triển các loại thần thông. Khi tâm ở trong trạng thái toàn định, nó cũng ngăn ngừa được các ác pháp THAM SÂN không cho sinh khởi. Nhưng khi ra khỏi trạng thái này, tâm vẫn bị ô nhiễm như cũ.

- Trước khi đến Toàn Định, tâm phải trải qua trạng thái CẬN ĐỊNH (Upacara Samâdhi). Cận Định là một trạng thái tâm an trụ khá vững chắc, mặc dù không sâu mạnh bằng tâm Toàn Định nhưng cũng có khả năng ngăn giữ những ô nhiễm ở bên ngoài tâm. Tâm Cận Định có thể an trụ trên đối tượng trong một thời gian khá lâu. Gọi là Cận Định bởi vì nó xảy ra trước tâm Toàn Định và chỉ có một đối tượng duy nhất không thay đổi, tùy theo hành giả đã chọn lựa trước hoặc do vị thầy đã ấn định trước khi vào thiền.

- Thiền Tuệ Quán không dùng hai loại ĐỊNH này, mà chỉ sử dụng CHẬP ĐỊNH (hay còn gọi là SÁT NA ĐỊNH: Khanika Samâdhi). Chập Định cũng có khả năng ngăn giữ những ô nhiễm ở ngoài tâm và cũng có khả năng an trụ trên đối tượng một cách lâu dài, nhưng khác một điều là đối tượng ở đây có thể thay đổi tùy theo tâm bắt được đối tượng nào trong 4 đối tượng THÂN, THỌ, TÂM, PHÁP, ở giây phút hiện tại. Mục tiêu của thiền Tuệ Quán là thiêu đốt tận gốc phiền não, chí đến những phiền não ngủ ngầm trong tiềm thức. Một điều khác nữa, là khi một phiền não nào đã bị thiêu đốt thì nó bị triệt tiêu vĩnh viễn trong tâm, cũng giống như một khoảng nào đó của tâm được thắp sáng thì không có một bóng tối chen vào nữa. Theo một số thiền sư, CẬN ĐỊNH và CHẬP ĐỊNH có hiệu quả ngang nhau. Rất tiếc môn Thần Kinh Thần học (neurothéologie, môn khoa học mới, nghiên cứu những căn bản khoa học của các khả năng tâm linh) chưa đủ phát triển để kiểm nhận điều này, khiến cho một số thiền gia hoang mang, không biết mình có hành đúng phương pháp Thiền Tuệ không? Riêng tôi thiển nghĩ trong các mức độ Định, có một mức độ ngưỡng cửa (seuil) không nên vượt qua. Nếu vượt qua, tâm sẽ nhập thẳng vào TOÀN ĐỊNH, lúc đó tâm sẽ mất khả năng linh hoạt quan sát (tuệ) và hành giả rơi vào loại thiền Chỉ Tịnh. Đức Phật và những thiền sư chứng đắc cả hai loại thiền, nắm giữ bí quyết về điểm giao thoa giữa 2 phương pháp. Từ điểm này có thể tách ra để đi vào một trong 2 phương pháp CHỈ TỊNH hay TUỆ QUÁN. Trong Tạng Kinh, có những bài kinh Đức Phật nói về Thiền Chỉ Tịnh, có lẽ để giảng dạy các tỳ khưu đã chứng đắc, giúp các ngài gìn giữ sức khỏe, bảo tồn sinh khí mỗi khi đau yếu. Có những bài nói về thiền Tuệ Quán để giảng dạy cho tất cả những ai chưa chứng đắc. Điều này cần phải được nghiên cứu thêm.

Kết Luận

Tinh yếu của thiền trước hết là cố gắng thiết lập sự chú tâm ghi nhận trên một đề mục căn bản tùy theo phương pháp thiền trong chủ đích tiêu diệt tận gốc phiền não. Khi hội đủ 3 yếu tố cố gắng, ghi nhậngiác tỉnh thì ta gọi là có chánh niệm, một trong tám chi của Bát Chánh Đạo. Mỗi phương pháp có một đề mục căn bản:

- phương pháp Mahasi lấy sự Phồng Xẹp của bụng,
- phương pháp Goenka lấy Cảm Thọ,
- phương pháp Achaan Naeb lấy Tứ Oai Nghi,
- phương pháp Shwe-Oo-Min và
phương pháp của Thiền Tông lấy Tâm,
- phương pháp Zen lấy tư thế Ngồi (Zazen)...

Sau đó, duy trì sự liên tục của chánh niệm trên 4 đối tượng THÂN THỌ TÂM PHÁP, tùy theo đối tượng nào xuất hiện rõ ràng nhất trong giây phút hiện tại.

Cuối cùng, giữ trạng thái quân bình giữa 5 yếu tố TÍN, TẤN, NIỆM, ĐỊNH, TUỆ, để cho niệm làm việc một cách tự nhiên. Chánh niệm quan sát thân tâm, sự tác động giữa thân và tâm, giữa thân tâm với môi trường bên ngoài một cách khách quan cho đến khi phát hiện những sự thật. Những sự thật này chính là những tuệ giác. Theo kinh sách Nguyên Thủy, hành giả phải trải qua 16 cái tuệ mới có thể bước vào giòng thánh (Nhập Lưu) tương ứng với 7 giai đoạn thanh lọc của sách "Thanh Tịnh Đạo" (Visuddhimagga, Buddhaghosa). Lúc đó, vị này đã thanh lọc được 3 kiết sử (ô nhiễm): thân kiến, hoài nghigiới cấm thủ, và chỉ còn tái sinh lại 7 kiếp để hoàn thành công việc thanh lọc những kiết sử còn lại. Vị này chắc chắn không tái sinh vào 4 khổ cảnh và có thể tái sinh vào một cõi thiên giới hữu học nếu hội đủ những phước báu hữu lậu.

Phương pháp là như thế. Bây giờ chỉ còn chờ đợi sự chín muồi của Ba La Mật (công đức tu tập tích lũy từ muôn kiếp trước).

Nên nhớ rằng sự giải thoát tùy thuộc 3 điều kiện:

- hạnh nguyện giải thoát;
- sự quyết tâmkiên trì thực hiện hạnh nguyện này;
- đầy đủ Ba La Mật.

Nếu chúng ta cảm thấy công đức chưa đầy đủ, thì cố gắng tiếp tục bồi đắp thêm. Chỉ có thế thôi.

TUỆ THIỆN, 2003 

sửa chữa 27/05/2013

Nguồn: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 44)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Dịch giả Phạn-Hán: ngài Bát Lạt Mật Đế (?-?), dịch giả Hán Việt: Hòa thượng Thích Duy Lực (1923-2000)) là kinh thuộc hệ thượng thừa,
(Xem: 107)
Đức Phật dạy chúng ta nhìn bất cứ điều gì xuất hiện trước mắt cũng phải nhận biết rằng: sự vật không trường tồn.
(Xem: 342)
Người theo Đạo Phật thường tin rằng, có vô lượng Bồ tát thị hiện trong nhiều hình tướngchủng tộc, trong nhiều không gianthời gian khác nhau
(Xem: 553)
Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng tamột đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm
(Xem: 727)
Nói một cách đơn giản: mọi khía cạnh của thiền đều tốt.
(Xem: 730)
Hãy để hơi thở trôi chảy nhẹ nhàng. Hãy để tâm trí được thoải mái. Đừng ép nén hơi thở hoặc cố gắng đưa tâm vào trạng thái định.
(Xem: 767)
Có ba phương pháp thiền chính giúp đưa chúng ta trở về với tinh túy của tâm và thân một cách cân bằng, giúp tâm thoát khỏi...
(Xem: 889)
Phật dạy chúng ta tu thiền định cốt để buông xả các niệm tạp loạn, tâm lặng lẽ thanh tịnh.
(Xem: 861)
Cơ sở của thiền định Phật giáo là sự quan sát chính xác, từng khoảnh khắc về bất cứ điều gì phát sinh trong kinh nghiệm của chúng ta.
(Xem: 992)
Khi thực hành thiền, chúng ta đã được trao các phương pháp để đối trị các triền cái (tham dục, sân hận, hôn trầm thụy miên, trạo cử hối quáhoài nghi).
(Xem: 778)
Để dập tắt ngọn lửa mà chúng ta đang phải chịu đựng, cần phải có dòng nước mát của thiền tập.
(Xem: 1107)
Theo giáo thuyết Thiền tông, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và...
(Xem: 1318)
Từ xưa, Phật giáo Trung Hoa cho hệ thống những người chuyên tâm tọa thiềnThiền tông bao gồm cả hai hệ thống Thiên ThaiTam Luận
(Xem: 1058)
Ở đâu có pháp, ở đó có nhân. Thế giới chúng ta trải nghiệm đến từ tâm, là nhân của nó. Nếu tâm tốt, thế giới sẽ tốt đẹp. Nếu tâm xấu, thế giới sẽ xấu.
(Xem: 1338)
Học giả Sarah Shaw giải thích tại sao chánh niệm phải kết hợp với đạo đức, từ bitrí tuệ - trong Phật giáo và trong cuộc sống.
(Xem: 1194)
Đây là bài cuối cùng trong số ba bài viết về chủ đề được thảo luận trong Hội nghị chuyên đề về “Cảm thọ” (Thọ, Vedanā)...
(Xem: 1143)
Để đánh giá cao thái độ khác biệt trong tư tưởng Phật giáo sơ thời đối với những cảm thọ dễ chịu, bản tường thuật về hành trình giác ngộ của chính Đức Phật đưa ra những chỉ dẫn hữu ích.
(Xem: 1365)
Chánh niệm cho phép chúng ta nhìn thấy ba khía cạnh này của thực tại: vô thường, không toại nguyện (khổ) và chẳng-phải-ta (vô ngã).
(Xem: 1653)
Đức Phật đã dạy các vị Tỳ kheo thực hành thiền như sau, “ Này các Tỷ kheo, các ông nên thực tập để luôn luôn sống trong chánh niệm và tỉnh giác.
(Xem: 1460)
Tại sao chúng ta thiền? Khi được hỏi, những người tu thiền sẽ đưa ra nhiều lý do khác nhau cho việc tu tập thiền.
(Xem: 1574)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 2463)
Ngồi Thiền, ngồi tới lúc trong không có thân tâm, ngoài không có thế giới, xa gần đều trống rỗng thì mới đạt đến chỗ không có ngã-tướng,
(Xem: 1994)
Khi chúng ta thực hành chánh niệm mỗi ngày, chúng ta mở ra những điều tuyệt vời của đời sống, điều ấy cho phép chữa lành thế giớinuôi dưỡng chính chúng ta
(Xem: 3096)
Giả dụ như, có vị nói: Chánh niệmtỉnh thức trong giây phút hiện tại! Nếu lập ngôn như vậy, thì chánh niệm đồng nghĩa với tỉnh thức còn gì?
(Xem: 2284)
Phần lớn hành giả tưởng mình hành Thiền Vipassanā nhưng trên thực tế họ đang hành thiền Định
(Xem: 1796)
Thiền Minh Sát hay còn gọi là thiền Minh Sát Tuệ, tiếng Pāli là Vipassanā, có nghĩa là “Nhìn thấy mọi thứ như nó đang thực sự là”.
(Xem: 2650)
Lúc mới bước chân vào việc hành thiền, bạn chưa thấy rõ các chuyển biến của thân và tâm.
(Xem: 2239)
Trước nhất muốn xác định cách tu tập của dòng thiền Trúc Lâm, thì chúng ta ngược dòng lịch sử để dẫn chứng.
(Xem: 2609)
Thực hành thiền nó giúp đánh thức niềm tin của chúng ta, khôn ngoan và từ bi vốn cần và chúng ta sẵn có.
(Xem: 12334)
“Nói Thiền tông Việt Nam là nói Phật giáo Việt Nam. Và những bậc cao Tăng làm sáng cho Phật giáo, làm lợi ích cho dân tộc từ thế kỷ thứ 6 mãi đến nay đều là các Thiền sư.”
(Xem: 3015)
Hành thiền không dễ. Nó đòi hỏi thời giannghị lực. Nó cũng đòi hỏi sự kiên định, kỷ luật và đam mê.
(Xem: 6762)
Bài này sẽ khảo sát một số khái niệm về các hiện tướng của tâm, dựa theo lời dạy của Đức Phật và chư Tổ sư
(Xem: 4363)
Bài này dịch từ bài viết năm 2005 nhan đề “Two Styles of Insight Meditation” của Đại sư Bodhi, người đã dịch hầu hết Kinh Tạng Pali sang tiếng Anh.
(Xem: 2620)
Tôi muốn nhấn mạnh rằng Thiền, không phải là việc chúng ta chỉ làm khi rảnh rỗi, trái lại Thiền tối cần cho cuộc sống hạnh phúc, an lành của chúng ta.
(Xem: 3279)
Hôm nay đề tài mà tôi muốn nói với các bạn là tỉnh giác hay hiểu biết sáng suốt trong khi ăn.
(Xem: 2590)
Sách thuộc loại song ngữ Việt- Anh gồm 95 bài thi kệ thiền, dịch Việt bởi Thiền sư Thích Thanh Từ, Giáo sư Lê Mạnh Thát và nhà nghiên cứu Trần Đình Sơn. Tác giả dịch sang Anh ngữ với lời ghi chú nơi mỗi bài. Sách đã được phát hành hạn chế tại Việt Namrộng rãi trên mạng Amazon.
(Xem: 3116)
Nếu như đi bộ là một môn thể dục không tốn tiền và lúc nào cũng có thể tập được thì thiền là một pháp tu không mất thời gian và lúc nào cũng có thể thực tập được.
(Xem: 2907)
Thiền Định nuôi dưỡng năng lượng để phòng ngừa dịch bệnh, giúp cho bạn có một đời sống Thân khỏe, Tâm an, Trí sáng.
(Xem: 3574)
Chánh niệm đã trở nên phổ biến trên thế giới trong những năm gần đây, nhưng ở Nhật Bản nó đã ăn sâu vào văn hoá hàng thế kỷ.
(Xem: 3770)
Không đoạn tận sáu pháp, này các Tỷ-kheo, không có thể chứng ngộ các pháp thượng nhân tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh.
(Xem: 3238)
Thiền Minh Sát có thể được xem như tiến trình phát triển một số tâm sở tích cực cho đến khi chúng đủ sức mạnh để hoàn toàn liên tục chế ngự tâm.
(Xem: 3080)
Dĩ nhiên chẳng ai muốn đau khổmọi người đều cố gắng tìm kiếm hạnh phúc.
(Xem: 4354)
Đây là bài thuyết pháp đầu tiên của Bồ Đề Đạt Ma tại Trung Hoa. Ngài thuyết giảng ngay tại triều đình của Lương Võ Đế có sự hiện diện của nhà vua và
(Xem: 6068)
Pháp thiền này không cửa để vào, nhưng vẫn lấy tam học (giới, định, huệ) để lìa tam độc (tham, sân, si).
(Xem: 5400)
Quá trình hóa giải sự hoang mang bối rối dựa trên việc làm cho tâm chúng ta ổn định và thêm sức mạnh cho tâm. Chúng ta thực hiện việc này bằng cách thực hành thiền.
(Xem: 5641)
Thực hành thiền đánh thức niềm tin của chúng ta rằng trí tuệtừ bichúng ta cần đã có sẵn trong chúng ta rồi.
(Xem: 3164)
Khi còn ở tuổi thiếu niên, tôi là kẻ luôn băn khoăn thao thức. Cuộc đời hình như chẳng có ý nghĩa gì đối với tôi.
(Xem: 5272)
Theo truyền thống sách vở, hình như gắn liền với Thiền là trà, chớ không phải cà phê.
(Xem: 2356)
Chánh niệm là một năng khiếu giúp chúng ta tạo một không gian giữa những cảm xúc / cảm thọ và sự phản hồi của mình.
(Xem: 2342)
Ngày mới đến với đạo, tôi không có trí để đọc học hay tham cứu các loại kinh luận bình thường, vì vậy tôi chỉ biết nương vào pháp Biết vọng không theo....
(Xem: 2654)
Trong khi thực hành thiền quán, hành giả thường hay vướng vào năm chướng ngại, mà thuật ngữ Phật học gọi là ngũ triền cái.
(Xem: 2480)
Sử dụng tư tưởng như một đề mục chánh niệm là một điều quan trọng. Nếu chúng ta không ý thức được tư tưởng của mình khi chúng vừa mới khởi lên
(Xem: 3354)
Stress : có nghĩa là sự dồn nén, cưỡng ép trên cả hai mặt sinh lýtâm lý, một trạng thái căn thẳng thần kinh, gây ra lo âu, sợ sệt và sau cùng là sự suy nhược cơ thể.
(Xem: 5079)
“Chánh niệm là tỉnh giác, tu tập bằng cách đặc biệt duy trì chú tâm: mục đích tập trung vào hiện tiền và không phán đoán.”
(Xem: 4917)
Thực tập thiền địnhchánh niệm không những giúp ích cho sức khoẻ chung trong cuộc sống cá nhân mà còn giúp cho cả bác sĩ và bệnh nhân trong việc chữa trị bệnh được hiệu quả hơn.
(Xem: 3988)
Khi còn là một chú tiểu mới mười sáu tuổi, Thầy tôi đã dạy tôi cách đóng cửa với sự chú tâm một trăm phần trăm.
(Xem: 5005)
Từ trước đến nay, trên sách báo, tạp chí, trong nhiều băng giảng, cho đến chư vị thiền sư, nhà nghiên cứu đó đây, ai cũng nói đến chánh niệm, và lại nói nhiều cách khác nhau.
(Xem: 4753)
Sự khác biệt là nhờ thiền mà bạn học hỏi về bản chất của tâm mình, thay vì thế giới giác quan của dục vọngtham ái.
(Xem: 4543)
Những năm gần đây, danh từ “chánh niệm” được xuất hiện tràn ngập khắp sách vở, báo chí, học thuyết, các khóa học...
(Xem: 3938)
Thiền là đường lối để thực hiện sự buông bỏ. Khi hành thiền, ta buông bỏ thế giới phức tạp bên ngoài, để có thể vươn đến thế giới an nhiên bên trong.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant