Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thiền Giúp Chữa Lành Thân Tâm

07 Tháng Giêng 202416:36(Xem: 570)
Thiền Giúp Chữa Lành Thân Tâm
Thiền Giúp Chữa Lành Thân Tâm 

Thích Nữ
 Như Hiếu


Hạnh Phúc Trong Bóng Đêm

Thiền Phật giáo là chìa khóa giúp chúng ta có một đời sống khỏe mạnh, là một phương thuốc trị liệu giúp chữa lành thân và tâm, dứt trừ được mọi tham ưu ở đời, đồng thời thiền chính là con đường duy nhất dẫn đến giác ngộ và giải thoát.

Con người có xu hướng chạy theo những nhu cầu về vật chất, sống theo sự ham muốndục vọng của bản thânnên họ hiếm khi hoặc chẳng bao giờ tìm thấy những giây phút hạnh phúcan lạc trong tâm hồn. Ngược lại, tâm thức của họ phải đối diện với những lo lắng bất an, khổ đau. Vì sao? Bởi mọi người cho rằng hạnh phúc chỉ có thể khi họ đạt được cái này, cái kia… Vì nghĩ như thế tâm họ cứ vướng bận về quá khứ hoặc mơ tưởng đến tương lai mà quên vun bồi, nuôi dưỡng tâm hồn bằng những thiện pháp, đánh mất khả năng sống thảnh thơi và hạnh phúc trong giây phút hiện tại.

Ngày nay, các nhà nghiên cứu khoa học trên thế giới cho biết cứ mười người thì có đến tám người gặp căng thẳng trong cuộc sống và khó thư giãn cơ thể cũng như sự an tịnh tâm hồn. Điều này khiến họ có nguy cơ mắc bệnh tim, đột quỵ và đặc biệt là hội chứng trầm cảm, nếu như không có phương pháp điều trị thích hợp thì sẽ dẫn đến các bệnh mãn tính, trầm trọng khác và có thể dẫn đến tử vong.

Trong vô số các phương pháp nhằm giảm căng thẳnglo âu và sợ hãi, từ tập thể dục, yoga đến thiền định, thì thiền Chánh niệm đã trở thành lựa chọn tối ưu nhất không chỉ dành cho Phật giáo đồ mà còn cho tất cả mọi người trên thế giới. Thiền giúp tâm hồn trở nên thoải mái, nhẹ nhàng hơn sau những ngày làm việc mệt nhọc căng thẳng. Khi thực tập chánh niệm, mọi vết thương của thân và tâm đều có thể xoa dịugiảm thiểu bệnh tật.

Trong những ngày tập thiền tại thiền viện Shwe O Min (Myanmar), tôi có duyên gặp lại một vị cư sĩ người Malaysia. Tôi vô cùng ngạc nhiên khi biết ông vẫn khỏe mạnh và lan tỏa năng lượng bình anVị cư sĩ này đã kể lại cho tôi quá trình vượt thoát bệnh ung thư bằng phương pháp thiền. Ông tâm sự: “Khi biết mình bị ung thư, tôi đã sa sút tinh thầnthân thể ngày càng ốm yếu. Sau khi biết đến thiền, tôi có niềm tin mãnh liệt vào pháp thiền này nên đã tinh tấn tu tập. Dù cho những cơn đau cứ hành hạ thân xác, nhưng nhờ có chánh niệm, tôi quán chiếu sự đau ấy, rải tâm từ trong từng ý niệm.

Ngày qua ngày, tôi cứ thực hành thiền một cách miên mật. Cho đến một ngày nọ, đang hành thiền thì bỗng nhiên tôi cảm thấy trong người có chuyển biến một cách kỳ lạ. Cơ thể như có một cái gì đó nó đang vỡ ra làm cho tôi mệt mỏi vô cùng. Tôi đã vào phòng và ói liên tục trong vòng nửa tiếng đồng hồ. Kỳ lạ thay, từ đó tôi cảm thấy khỏe hơn, hàng ngày cứ tu tập hành thiền đều đặn và cũng chẳng để ý đến bệnh ung thư đó nữa”.

Tôi cảm nhận rất rõ về lợi ích của thiền trong việc xây dựng đời sống lành mạnh khi sống tại đất nước Myanmar. Tôi đã từng mất ngủ trong một thời gian khá dài, cơ thể mệt mỏi và đã dẫn đến tình trạng suy nhược thần kinh. Nhiều lúc bản thân bị áp lực về chương trình học tại Trường Đại họcQuốc tế Yangon (ITBMU), và những chuyện xung quanh cuộc sống.

Tôi đã sống trong sự phiền não và tự dày vò bản thân trong bốn bức tường cho nên bị mất ngủtrầm trọng, thậm chí phải dùng thuốc ngủ mới có thể ngủ được. Hầu như tôi chỉ ngủ được hai tiếng mỗi ngày. Đôi mắt tôi trở nên thâm sạm và nét mặt hiện lên vẻ suy tư mệt nhọc. Không thể bày tỏ, giải tỏa cùng ai nên tôi chỉ biết giấu kín trong lòng, sống trong sự lo lâu, chán nản, chỉ biết trách mình và trách người. Nhưng sau cùng, tôi hiểu được rằng nếu như bản thân không vượt qua được những chướng ngại ấy thì làm sao có thể thấu hiểu nỗi đau và chia sẻ cho người khác được. Tự bản thân không nỗ lực tu tập thì uổng phí cả tuổi xuân và lý tưởng cao đẹp của một người tu sĩ.

Dần dần, tôi được các thiền sư hướng dẫn cách hành thiền, quán niệm hơi thở và nhận rõ các vấn đề của bản thân. Từ đó, tôi không còn mất ngủ nữa và có thể đối diện với những khó khăn bằng một cái nhìn khách quan hơn. Bây giờ mọi thứ đã qua, tôi thực sự cảm ơn những nghịch cảnh, chướng duyên để cho tôi thấu hiểu và trưởng thành hơn, giúp tôi có một đời sống lành mạnhan lạc trong từng phút giây hiện tại.

Hơn nữa, thiền giúp chúng ta phát triển tâm từ và hướng tư tưởng yêu thương đến những người khác. Khi quán niệm tâm từ thì năng lượng yêu thương bản thân mình và người khác sẽ có công năng chuyển hóa tuyệt vờiví như từ ghét thành yêu, từ giận hờn thành thương mến, từ chiến tranh thành hòa bình…

Những ai thường xuyên tu tập thiền tâm từ có thể phát triển được khả năng tha thứ, kết nối với người khác. Khi thực hành pháp quán niệm tâm từ, tôi cũng dần hiểu người khác, không còn trách người phải như này, phải như thế kia để làm hài lòng cho cái tự ngã của mình. Tất cả mọi thứ đều do nghiệp của mình tạo ra từ quá khứ bây giờ phải trả, chứ không còn giận hờn, đổ lỗi cho người khác nữa.

Theo kinh Sāleyyaka và kinh Mettākathāchúng ta có thể tu tập thiền tâm từ như sau: “Mong cho tất cả chúng sanh đều sống trong hạnh phúcthoát khỏi mọi sự thù địchsân hận, sự lo lắng bất an, và mong cho tất cả chúng sanh duy trì được hạnh phúc cho chính bản thân mình”. Sự tu tập tâm từgiúp chúng ta tha thứ và quên đi những hành vi phạm tội chống lại một ai đó.

Theo kinh Mettānisamsa (AN 11.16), người tu tập tâm từ có được 11 lợi ích: 1. Ngủ an giấc, 2. Thức dậy an vui, 3. Không thấy những điềm chiêm bao xấu, 4. Được người khác yêu mến, 5. Được phi nhân yêu mến, 6. Được chư thiên bảo vệ, 7. Lửa, chất độc và gươm đao không thể hại người ấy, 8. Tâm người ấy có thể tập trung rất nhanh, 9. Sắc mặt người ấy luôn sáng sủa, 10. Chết với tâm thanh thản, 11. Nếu người ấy không đạt được các quả vị cao hơn, sẽ tái sanh vào cảnh giớicủa Phạm thiên.

Qua việc tu tập thiềnchúng ta có thể biến đổi các cảm xúc tiêu cực thành những cảm xúc tích cựcPháp hành thiền này thực sự góp phần làm cho chúng ta có một cuộc sống cao thượng và hài lònghơn. Nó thực sự làm giảm bớt sự trầm cảm, sợ hãilo lắng và sân giận, mang lại một thái độ sống lành mạnh. Như trong lời giới thiệu pháp thiền Nguyên thủy của Đức Phật, cố Hòa thượng Thích Minh Châu có nói rằng: “Hành thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục cao đẹp và hướng thượng nhất”.

Ở Myanmar, mọi người quan niệm rằng thiền có ý nghĩa thực tiễncần thiết, và rất gần gũi đối với mọi người. Tại các thiền viện mỗi năm có hàng ngàn người đến hành thiền. Đặc biệt, vào những ngày Tết (khoảng tháng Tư dương lịch), họ thường dành ra 5 ngày, 7 ngày, 10 ngày, 30 ngày hoặc hơn thế nữa để đến thiền viện tu tập nhằm ‘nạp thêm năng lượng’, khi trở về hòa nhập vào cuộc sống họ biết sống đẹp, sống tốt hơn. Cho nên, tuy điều kiện sống của họ không sung túc như các nước phát triển nhưng họ sống rất an lạc, nét mặt lúc nào cũng điềm tĩnh, an vui và thân thiện. Đó chính là nhờ vào sự nỗ lực thiền tập hằng ngày nên hạnh phúc và lan tỏa sự bình an đến mọi ngườixung quanh.

Thiền như một món ăn tinh thần không thể thiếu trong cuộc sống ở Myanmar. Thậm chí họ còn đưa thiền tập, hay những bài kinh Maṇgala Sutta vào chương trình dạy học, để huấn luyện trẻ em để hình thành nhân cách đạo đức tốt đẹp cho mai sau. Khi lớn lên, hoặc đến tuổi lấy vợ, cha mẹthường khuyến khích con cái đến các thiền viện tu tập gieo duyên trong vòng một đến hai tháng, hoặc nửa năm để biết cách làm chủ bản thân cũng như làm tròn bổn phận của một người chồng, người cha và có trách nhiệm với xã hội.

Phần lớn những khổ đau, những điều bất như ý xảy ra trong cuộc sống là do chúng ta dựa trênnhững phán đoán sai lầm (do vô minh), vì chúng ta thiếu hiểu biết và cũng không tìm tòi học hỏi để nhận rõ sự thật. Vì thế, một người không hiểu biết sự vận hành của thân tâm cũng như những sự vật quanh mình, sẽ cảm thấy cuộc sống rất đáng chán, bất an, nhất là dễ bị khủng hoảng tinh thầnkhi thất vọng hay đối mặt với những nỗi đau buồn.

Thiền tập giúp chúng ta hiểu được rằng, bài học của cuộc sống là học chấp nhận những gì chúng takhông thích ở bản thân, hay ở người khác, hoặc xã hội để có được sự kiên nhẫn và tinh thần khoan dung. Và rồi, chúng ta sẽ không quá chú trọng và không thấy khó chịu, an nhiên với những điều bất toàn trong cuộc sống.

Thích nữ Như Hiếu

(Du học tại ITBMU - Yangon - Myanmar)




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 19917)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19593)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33502)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34650)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54614)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37855)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21212)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17955)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63779)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17453)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49775)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16924)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16451)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14526)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22542)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57111)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13900)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29084)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33389)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38451)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31299)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13949)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14665)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14332)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12703)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14881)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19245)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13862)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12709)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30483)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11889)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30776)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29470)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30685)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31321)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37200)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32338)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23754)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12262)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14255)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14119)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34043)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27796)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12496)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28711)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29456)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12470)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29304)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28111)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25747)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26105)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22336)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33217)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31871)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39662)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22530)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34559)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27421)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28469)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
(Xem: 35367)
Cuốn sách này giới thiệu với độc giả cách thọ trì đúng đắn thiền Samatha-Vipassanā (Định-Tuệ) như đã được Đức Phật giảng dạy, tu tập chánh định và thấu suốt vào các pháp chân đế...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant