Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chương 2: Hành Trình Về Thiền

19 Tháng Giêng 201100:00(Xem: 11466)
Chương 2: Hành Trình Về Thiền

Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay
BƯỚC SEN
NỮ TU VÀ CƯ SĨ PHẬT GIÁO
CUỘC SỐNG, TÌNH YÊU VÀ THIỀN ĐỊNH
Walking On Lotus Flowers: Buddhist Women Living, Loving and Meditating
Tác Giả: Martine Batchelor - Biên Tập Viên: Gill Farrer-Halls
Việt Dịch: Diệu Ngộ -Mỹ Thanh & Diệu Liên-Lý Thu Linh
Nhà xuất bản Phương Đông 2010

PHẦN I : THIỀN LỘ.

Chương 2
HÀNH TRÌNH VỀ THIỀN

Songgyong Sunim

Tôi may mắn được sống ở Hàn quốc trong 10 năm với tư cách là một nữ tu sĩ thiền Phật giáo, và ấn tượng sâu đậm nhất đối với tôi là được gặp gỡ Sư bà Songgyong Sunim,viện chủ của một trong những thiền viện chánh dành cho Ni giới ở Naewon Sa. Sư bà là một phụ nữ nhỏ nhắn, hơi khòm nhưng năng động một cách đáng phục ở tuổi 80. Khi Sư bà không hướng dẩn hành thiền ở thiền đường, thì lại bận rộn gom góp các quả đấu và làm những công việc lặt vặt trong thiền viện.

Cuộc Sống Nhọc Nhằn

Tôi sanh ngày 2 tháng 5 năm 1903, trong một ngôi làng gần thành phố Ch'ongju. Chúng tôi là những nông dân rất nghèo. Khi tôi được chín tuổi, thì mẹ tôi qua đời. Tôi có một anh, một chị và một đứa em gái năm tuổi. Cha chúng tôi quá đau khổ về cái chết của mẹ, đã không lo lắng cho chúng tôi được đầy đủ. Cuộc sống trở nên rất khó khăn và cuối cùng thì tệ đến nỗi tôi đã có ý định tìm cái chết. Nhưng khi vừa định kết liễu đời mình, tôi nghe một tiếng nói từ trên không vọng xuống: "Con có duyên lành với Phật pháp. Tại sao lại kết thúc mạng sống?" Tôi hiểu điều đó có nghĩa là tôi phải trở thành người tu. 

Vì thế năm 18 tuổi, tôi tìm đường đến một ni viện, gọi là Yongun Am, gần tu viện của Magok Sa. Đầu tiên tôi bị từ chối, không được nhận vào tu vì tôi quá nhỏ bé. Sau đó, sư bà Inu Sunim nói là dù tôi nhỏ thó, nhưng tôi nhìn cũng được. Thế rồi tôi được chấp nhận.

Năm sau các ni sư cạo tóc cho tôi và tôi được làm lễ thọ giới. Thầy của tôi tên là Myongdok Sunim. Bà đã đi rất nhiều từ ni viện này sang ni viện khác để thu thập kiến thức tu thiền. Sư phụ của bà lại là ni sư Inu Sunim, vị sư bà đã nhận tôi vào thiền viện. Ni sư Myongdok Sunim nhận lãnh việc dạy dổ tôi và tôi đã làm thị giả cho ni sư trong nhiều năm.

Cuộc sống của tôi rất cực nhọc. Tôi phải giặt đồ, sửa soạn bửa ăn, bửa cũi và thổi lửa. Đôi lúc tôi còn phải vào rừng chặt cũi, rồi vác về trên chiếc khung đựng cũi trên lưng. Tôi bàng hoàng vì không ngờ mình phải làm việc này, bởi vì trong làng, việc này thường dành cho cánh đàn ông. Một lần tôi nhớ mình đã nghĩ rằng đời sốngtu viện còn tệ hơn là cuộc sống nơi làng quê cũ, nên tôi chán ghét liệng cái khung đựng cũi trên lưng xuống. Và tôi ngồi xuống khóc. Vì tôi làm khung cũi hư, vị giáo thọ hỏi tôi chuyện gì đã xảy ra. Tôi trã lời: "Tôi đã chán lắm rồi coâng việc này! Tôi nhỏ con! Tôi lại là ni. Tại sao tôi phải làm việc đó?" Sau lần ấy, bà không bao giờ kêu tôi đi chặt cũi nữa.

Nhu Cầu Hành Thiền

Tôi đã ở lại Yongun Am cho đến năm tôi 33 tuổi. Lúc này Nhật đang chiếm đóng khắp đất nước, và đang gây khó khăn cho cộng đồng Phật giáo. Kết quả là Giáo hội Phật giáo đề nghị rằng để củng cố công tác giảng dạy, các vị đại thiền sư trong thời gian này cần đến trụ trì ở các thiền viện lớn. Do chính sách này, Thiền sư Mangong ở thiền viện Chonghye Sa gần Sudok Sa, được bổ nhiệm làm trù trì của Magok Sa trong ba năm.

Trong buổi thăm viếng đầu tiên, thiền sư Mangong đã khuyến khích các vị tu sĩ xây một thiền đường. Rồi Thiền sư bỗng nói: "Các vị là tu sĩ, sao lại lãng phí cuộc sống mà không chịu tu Thiền?" 

Khi nghe được câu này, tôi đaõ 32 tuổi. Tôi chưa bao giờ được nghe một câu hay như vậy. Thật là phi thường và điều này đã tác động mạnh đến tôi, khiến tôi quyết tâm tu thiền. Sau đấy, tôi thầm suy nghĩnhận ra rằng vai trò của tăng ni thật khác với những gì tôi đã được giáo huấn

Các bài thuyết pháp của Thiền sư Mangong luôn phù hợp với người nghe. Với các thiền sinh, Thiền sư nói về thiền định; với các đệ tử của kinh điển, thầy nói về Bát Nhã Tâm Kinh (Heart Sutra), thôi thúc các vị ấy nên hiểu rõ nghĩa của kinh cũng như khơi dậy nhiều ý nghĩa sâu xa hơn của kinh qua sự thực tập thiền.

Tôi nhận thấy mình cần tìm một ni viện gần chỗ lưu trú của Thiền sư ở Chonghye Sa, khoảng 100 ki-lô-mét (62 miles), đông bắc của Magok Sa. Khi biết được ý định nầy của ni sư, thầy tôi (ni sư Myongdok) đã từ chối không cho tôi đi. Tôi giải thích rằng tôi muốn học hỏi thêm về vai trò thật sự của một vị ni. Nhưng Ni sư, thầy tôi, phản bác lại rằng nếu tôi bỏ đi mới thật là không hành đúng vai trò ấy. Bà cũng chất vấn về khả năng hiểu biết Pháp của tôi, vì tôi chưa từng nghe qua bài thuyết pháp nào. Bà nói thêm, một người nên sống như đang sống - và không có gì hơn điều này nữa. Bà còn cố gắng ngăn chận không cho tôi rời viện, bằng cách giao cho tôi một chức vị quan trọng trong ni viện này, nhưng vô vọng. Không có gì có thể ngăn cản tôi lúc này và tôi đã van nài bà trong suốt bốn ngày.

Cuối cùng thì Ni sư tôi cũng xiêu lòng, nhưng nói rằng tôi có thể đi thăm cho biết thôi. Không cho tôi tiền hay chăn mền, bà giúp tôi sửa soạn hành lý, và dặn rằng, đi xem xong rồi sớm trở về

Cuộc Sống Hòa Đồng

Tu viện của Chonghye Sa giống như một thế giới khác. Khi nhìn thấy thiền đường, tôi có cảm giácđức Phật đang sống ở đấy. Tôi muốn ở lại thiền đường của một ni viện gần đó, Kyongsong Am, nhưng không có lương thực. Vào lúc ấy (1936), tăng ni phải cung ứng một "mal" (18 kí-lô / 40 lbs) gạo trong vòng một tháng, tính ra đến ba "mal" mỗi khóa tu thiền. Ở Kyongsong Am, phương thức trả tiền này vừa chấm dứt không lâu trước khi tôi đến.

Mặc dù tôi không gạo, không tiền, họ cho tôi việc làm, nấu những món ăn kèm trong nhà bếp, trong vòng một năm. Tôi chấp nhận để đổi lại tôi được quyền thực tập trong thiền đường với các vị ni khác. Trong thời gian này, tôi được nghe các bài thuyết pháp của Thiền Sư Mangong và ni sư Pophui, một vị trưởng lão ni đang làm cố vấn trưởng ở Kyongsong Am.

Cuối năm, Ni sư xuất hiện ở Kyongsong Am, nằn nì là bà không thể sống mà không có tôi, rằng tôi là người duy nhất có thể phục vụ bà một cách thích hợp. Bà nói nếu tôi không trở về, bà sẽ đến Kyongsong Am để sống với tôi. Tôi từ chối trở lại với đời sống của người tu sĩThiền Sư rõ ràng không chấp nhận. Ông thường nói, sống như thế sẽ đưa chúng tôi xuống địa ngục sau khi chết. Vì thế tôi đã khẩn cầu bà ở lại dựï một khóa tu thiền với tôi, và bà bằng lòng.

Thật kỳ lạ, cuộc sống hoà đồng ở Thiền đường đã hấp dẫn Ni sư. Bà nhận xét rằng sống như thế này thật là tiết kiệm và hữu ích. Vì từ đó bà tham thiền trong Thiền đường, rồi thọ thực chung với ni chúng, nên tôi không cần phải làm thị giả cho bà nữa. Tôi chỉ giúp bà giặt quần áo và làm những công việc lặt vặt. Ngồi thiền là một điều rất mới lạ đối với bà, nhưng bà phát khởi tín tâm vàø "lòng quyết tâm mạnh mẽ" để thực hành đã nẩy sinh. 

Năm sau, vào cuối khóa thiền mùa hạ, Ni sư lại xuất hiện. Lúc đó bà đang sống ở thiền đường Yunp'il Am, một ni viện gần Mungyong, miền đông bắc của Nam Hàn. Bà hỏi tôi có muốn cùng đến đó không. Tôi nhận lời, quá đỗi vui mừng với triển vọng có nhiều thời gian để ở bên bàø.

Cuộc Diện Kiến Kinh Hoàng

Tuy nhiên trước khi ra đi, tôi quyết định học thêm về "hwadu" (nghĩa đen là "thoại đầu", phần quan trọng của công án) từ lão sư Mangong. Tôi chưa bao giờ thực sự có cơ hội để tham vấn Sư, vì tôi luôn bận rộn trong nhà bếp. Mặc dù tôi đã nghe qua các bài thuyết pháp của Sư, đã thử thực hành những lời dạy của Sư, nhưng tôi thường bỏ cuộc sau một thời gian ngắn. Tôi cũng chưa thực tập một cách nghiêm túc một công án hwadu nào. Sư Mangong thường dạy các hwadus, "Vạn pháp trở về một. Một trở về đâu?", "Không!", hoặc "Cái gì đây?". Tôi nhận thức rằng nếu tôi thật sự muốn tham thiền, tôi phải có một hwadu (công án) của riêng mình.

Vì vậy, một ngày nọ tôi đến bái kiến Sư Mangong trong thư phòng của ngài. Sư đang ngồi một mình. Tôi cúi chào ba lần rồi thưa: "Con muốn có một hwadu. Xin Thầy dạy cho con một hwadu".

Sư đã thấy tôi vào, nhưng cũng chẳng ngước nhìn. Sư chỉ ngồi nhắm mắt. Tôi cảm thấy bối rối vô cùng, tự nghĩ không biết có phải Sư hành động như thế vì nghĩ tôi nhỏ con, không thể tu tập. Tôi cảm thấy buồn và bắt đầu nghĩ đến tất cả những khuyết điểm của mình.

Và rồi, sau 30 phút im lặng, tôi quyết định đi ra. Ngay lúc ấy, Sư bỗng mở lớn mắt, la lên: "Cô không có khả năng biết được đâu là đầu hay đuôi, thì làm gì biết được loại 'thoại đầu' nào mà nói?"

Tôi quá bất ngờ vì sự la lối này đến nỗi tôi cảm thấy nặng ngực, tim tôi đập như thể vừa bị một trái banh dội vào. Tôi chẳng biết làm gì nữa. Tôi cảm thấy đau khổ vì bị la thay vì được một hwadu, tôi bổ nhào ra cửa sau không dám hỏi thêm gì nữa.

Sau đó không lâu, tôi ra đi theo sư phụ tôi. Tôi rất vui được đi với bà, nhưng dường như có một khối gì động lại nơi ngực của tôi, từ sau cuộc diện kiến kinh hoàng với Sư Mangong. Tôi vẫn còn traøn ñaáy thất vọnglo âu vì không có được một hwadu.

Không bao lâu sau khi chúng tôi đến Yunp'il Am, thầy Ch'ongam, một vị đệ tử của Sư Mangong, từ Taesong Am, một tu viện lớn gần bên, nơi thầy đang giữ chức vụ cố vấn Thiền môn, đến thăm ni viện. Tôi xin thầy dạy tôi chút ít về hwadu để tôi có thể hành thiền tốt hơn. Thầy kêu lên: "Nếu cô đã không học được hwadu từ nơi Sư Mangong, thì cô còn học được từ ai nữa?"

Điều này còn làm tôi đau khổ hơn và tôi suy gẫm về sự kiện đây là lần thứ hai tôi bị khiển trách bởi một vị thầy có tiếng. Lần nữa tôi lại tràn đầy lo lắng, xấu hổ.

Sự Sáng Suốt Rõ Ràng

Vài ngày sau đó thiền bắt đầu. Ba mươi vị ni đã họp lại ở thiền đường, toàn là những thiền sinh cần mẫn. Chúng tôi quyết định bắt đầu với thời gian là 30 ngày tích cực tham thiền. Nhưng tôi không thể nghĩ đến việc thực tập đàng hoàng nữa, tôi chỉ cảm thấy một nỗi thất vọngxấu hổ cùng cực, nghĩ rằng mọi người có lẽ đang hỏi rằng tôi làm gì trong thời gian tham thiền này. Tôi phải pha trà vào buổi sáng, nhưng thời gian còn lại tôi ngồi thiền. Đôi lúc tôi cảm nhận những ý nghĩ đau buồn, đôi khi những nghi ngờ như "Tại sao tôi không thể thực tập như những người khác?" và "Tại sao các vị taêng luôn quở trách tôi, không ban cho tôi một hwadu?"

Trong suốt 21 ngày sau đó, cái tâm tự khiển trách này vẫn không thuyên giảm. Tôi không còn thiết ngủ nghỉ hay trò truyện với ai. Rồi tôi nhận thấy mình đang ở trong trạng thái sáng suốt rõ ràng. Ni chúng đều nghỉ ngơi lúc 11: 30 trong thiền đường ở chỗ riêng của họ, nhưng tôi lại vào phòng bên cạnh ngồi thiền suốt đêm. Dần dần, một trạng thái tâm tỉnh thức, sáng suốt phát sinh. Tất cả mọi vọng tưởng tan biến, chỉ còn lại một sự tĩnh lặng sáng suốt. Đôi khi câu hỏi, "Cái gì đây?" lại phát khởi trong tâm. Tất cả mọi dấu vết của phiền não biến mất, chỉ còn lại một tâm thức sáng suốt, thanh tịnh

Đột nhiên một ý nghĩ độc nhất xuyên qua tôi, lên đến tận đỉnh đầu. Ý nghĩ này mãnh liệt đến nỗi tôi buột miệng thốt lên "Từ lúc ban sơ đã không đầu, không đuôi, vậy thì đâu là đầu, đâu là đuôi?"

Không Chướng Ngại

Sau đó không lâu, thầy Ch'ongam lại đến Yunp'il Am. Tôi thưa với Thầy tâm tự trách đã được hóa giải trong tôi, đến độ tôi cảm thấy tôi có thể không màng đến các vị đại sư. Thầy giải thích đó là đại nghi trong tôi sắp bùng vỡ. Nó còn trên đà phát triển trước khi bùng vỡ, nhưng một khi nó đã xảy ra thì sự thực hành sẽ tiến triển một cách dễ dàng.

Hôm sau, Thầy dán trên tường của thiền đường một câu như sau: "Ngồi trên con thuyền sắt không đáy, vượt qua sông không chướng ngại."

Khi đọc câu này, bất giác tôi nhận ra rằng không có chướng ngại trong tâm thức tôi. Chỉ còn lại sự nghi hoặc, nhưng rồi nó cũng sẽ biến mất! Lần sau gặp lại, tôi trình bày với Thầy làm thế nào màø tôi đã hiểu được con thuyền sắt không đáy chính là tâm thức. Tôi cũng nói thêm là vì cơ bản, tâm thức không có chướng ngại, nó không bị trở ngại khi vượt qua bờ bên kia.

Thầy trả lời là lòng nghi hoặc của tôi giờ đã bị phá vỡ rồi, và sự thực tập của tôi đang tiến triển tốt đẹp. Dường như đây là lần đầu tiên Thầy gặp một vị ni với tâm không còn nghi hoặc, điều đóù thúc giục Thầy quay về Chonghye Sa để thực tập hết sức tinh tấn dưới sự chỉ dạy của lão sư Mangong. Hình như Thầy sợ bị một vị ni qua mặt trong sự thực tập.

Giờ tôi không còn bị các vọng tưởng chi phối; tâm tôi hoàn toàn sáng suốt, thanh tịnh và phát tín tâm rộng lớn. Tôi rất vui với niềm tin tràn đầy và không thể nghĩ đến điều gì khác ngoài vieäc hành thiền.

Trong khóa tu thiền mùa hè đó, một sự kiện trong tiền kiếp của tôi chợt xuất hiện. Tôi thấy trong một tiền kiếp tôi là một tăng sĩ tuấn tú, thông minh. Tôi cũng thấy một cô gái rất xinh đẹp được sinh ra từ cõi trời, rồi trở thành một vị ni. Tôi đã làm cho vị ni này phạm giới. Sau đó tôi chết đi ở tuổi 50, rồi tái sanh với thân thể nhỏ thó xấu xí, nhưng với một tâm thức trong sáng. Sau khi vị ni xinh đẹp từ trần, lại được tái sanh làm ni mà bây giờ là sư phụ của tôi.

Khi chung sống với sư phụ, tôi vẫn thường tự hỏi tại sao, bất kể hành vi của tôi, thầy tôi lúc thích tôi và lúc lại không ưa. Sau khi nhìn thấy điều này tôi hiểu rằng tại vì tôi đã làm bà ta phạm giới trong kiếp trước. Tôi không biết có nên coi trọng về ảo ảnh đã thấy hay không, tuy nhiên tôi cảm thấy rất sung sướng khi biết về nó.

Trên Đường Đi

Cũng gần bốn năm từ lúc tôi rời Yunp'il Am. Bây giờ tôi tin rằng nếu lúc ấy tôi ở lại thêm một năm nữa tôi có thể hoàn thành công tác (giác ngộ rốt ráo). Tuy nhiên, một bạn đạo đã thuyết phục tôi cùng chu du đây đó, và tôi quyết định đi chung. Người bạn này là Pongong Sunim. Cô này đi với tôi vì cô nghe nói về sự đốn ngộ của tôi và đề nghị cùng đi đến Đỉnh Odae sau mùa an cư. Tôi đồng ý một cách hăng hái, nghĩ rằng đấy là một chỗ tốt để thực tậphoàn thành công việc.

Trước khi đi, chúng tôi thực hiện một thời khóa tụng niệm đặc biệt. Trong vòng bảy ngày chúng tôi giữ yên lặng, rồi tụng niệm và đứng suốt ngày. Lúc kết thúc, một bé trai xuất hiện trước mặt tôi như trong mơ. Pongong Sunim không thấy đứa bé, riêng tôi hỏi đứa bé ấy từ đâu đến và tại sao lại đến đây. Đứa bé trả lời đến từ Đỉnh Odae, và rằng vị đại Lão Thiền sư Hanam sai cậu đến dẫn đường cho chúng tôi. Sự xuất hiện này rõ ràng là một dấu hiệu để củng cố lòng quyết tâm của chúng tôi.

Vì thế chúng tôi ra đi. Trên đường đi chúng tôi nhân tiện đó đến iếng Dãy núi Kim Cương (Diamond Mountains). Đây là lần đầu tiên tôi thấy những cảnh hùng vĩ đẹp đẻ như vậy. Ở động Podok, chúng tôi lại thực hiện trì niệm trong vòng bảy ngày, rồi là Nakasan Sa, và một nơi khác nữa, kéo dài đến l4 ngày. Vào cuối thời gian trì niệm này, Bố Tát Quán Thế Âm, với hình ảnh treo trên điện, đã hiện ra nói với tôi : "Nếu con thật sự muốn thực tập, tại sao lại luẩn quẩn vô ích ở đây? Mau đến ra mắt vị đại Lão Thiền sư! Tham vấn Pháp với ngài, rồi thực hành tinh tấn!"

Vì vậy chúng tôi tiếp tục đi đến thiền viện của Lão sư Hanam. Khi xuyên qua những vùng núi non quanh Đỉnh Odae, chúng tôi đến một ngôi chùa nhỏ. Vì trời đã tối, chúng tôi quyết định ngủ qua đêm. Ba vị tăng sĩ cư trú tại chùa rất ngạc nhiên khi thấy chúng tôi, vì họ chưa từng thấy các vị ni đi du hành chỉ để tiến sâu hơn trong sự tu tập. Vì chùa rất nhỏ hẹp, họ phải ngăn phòng chánh ra làm hai bằng tấm ngăn, rồi nhất quyết dành cho chúng tôi chỗ ấm nhất trên sàn để ngủ. Đây là vào tháng mười, tuyết đang rơi nhiều và chúng tôi còn đến 40 dặm (16km/ 10 miles) mới đến Sangwon Sa, thiền viện của Thiền Sư Hanam.

Các vị tăng sĩ khuyên chúng tôi nên đi theo đường đèo Sinsollyong, con đường mà họ nghĩ rằng sẽ không khó đi lắm. Sau khi dùng cơm, chúng tôi rời chùa rất sớm. Khi chúng tôi đang giữa đường lên núi, thình lình một thanh niên xuất hiện và muốn biết chúng tôi đang đi đâu. Nghe xong, anh ta khuyên chúng tôi nên ngủ lại một làng gần đó đêm nay, vì chúng tôi hãy còn rất xa đích đến.

Lạc Lối

Sáng hôm sau, chúng tôi lại lên đường. Đó là một ngày sáng trong tươi đẹp, nhưng đi một lúc chúng tôi không thể tìm thấy đúng đường vì tuyết rất nhiều. Chỉ còn vài ngày nữa là khoá tu thiền bắt đầu, vậy mà ở nơi đây chúng tôi không thể tiến tới hay thối lui - thật là gay go. Rồi chúng tôi nghe tiếng la của một người đàn ông: "Các vị làm gì ở đây? Nếu các vị đi lạc đường bây giờ thì các vị sẽ chết cóng mất!" Chúng tôi năn nỉ anh ta chỉ dùm đường và anh ta bảo chúng tôi nên chọn con đường chính giữa, mà chúng tôi cũng vừa nhận ra. Lạ một điều là hình như đó cũng là người mà chúng tôi đã gặp hôm trước. 

Cuối cùng, chúng tôi cũng đến được tu viện Sangwon Sa trong tình trạng ướt sũng. Khi diện kiến Thiền sư Hanam, ngài hết sức kinh hoàng khi nghe chúng tôi kể đã chọn con đường nào để đến tu viện. Hình như kể cả những người rành rọt về vùng đó, cũng phải chết cóng, nếu đi theo con đường chúng tôi đã đi. Chúng tôi kể có một thanh niên đã giúp đỡ chúng tôi như thế nài. Ngài bảo rằng đôi lúc Bồ Tát Văn Thù hiện thân để giúp những kẻ lạc lốilòng tin thành kính.

Sau cuộc gặp gỡ ấy, chúng tôi được biết có năm vị ni nữa cũng đến từ Yunp'il Am. Điều này làm cho chúng tôi vô cùng sung sướng vì nơi đây có đến 80 vị tăng.

Ngày hôm sau, sau bữa ăn sáng, bảy người chúng tôi đến đảnh lễ mọi người để gia nhập tăng đoàn. Các tăng sĩ rất ngạc nhiên khi thấy bảy vị ni - vì đêm trước chỉ có hai người - và họ đã từ chối không chấp nhận chúng tôi.

Chúng tôi đang bối rối, không biết phải làm gì sau đó. Thì Thiền sư Hanam đã ân cần cho chúng tôi biết về Chijang Am, một ni viện cách đấy 30 dặm (12km / 7.5 miles), nơi chúng tôi có thể sẽ được nhận vào khóa tu thiền. Vị ni trưởng của Chijang Am hóa ra là một bạn đạo. Bà chỉ sống với một người học trò ở đây, nên rất niềm nở tiếp nhận chúng tôi. Vào ngày đầu khoá, chúng tôi tắm rửa, cạo đầu và đi trở lại thiền viện để nghe Thiền sư Hanam thuyết giảng. Bài pháp đầu tiên về Kinh "Platform Sutra" và tôi cảm thấy mình có thể hiểu được tất cả những gì Thiền sư đã nói.

Thiền sư Hanam rất từ bi, giống như một người mẹ, khi ngài cố gắng làm cho chúng tôi hiểu nghĩa kinhnghiên cứu thêm. Ngài biết là tôi đã đến từ chỗ của Thiền sư Mangong và đang thực tập về "hwadu", nhưng tôi tham vấn ngài về điều ấy trong lần đầu gặp gở. Thật ra tôi cũng chưa bao giờ tham dự việc trao đổi pháp với ngài; mục đích của tôi ở đây chỉ đơn thuần là được học tập dưới sự hướng dẫn của ngaøi, cố gắng thực hành miên mật để giác ngộ và sau đó sẽ trở về gặp lại Thiền sư Mangong.

Người Giữ Chùa

Sau đó không lâu, một trưởng lão ni hỏi xem ai trong chúng tôi có thể trông coi dùm ngôi chùa nhỏ của bà ở tỉnh Kangnung. Không nhằm mùa an cư, nên tôi tình nguyện đi. Thức ăn ở đó rất tệ, vì vị lão ni ấy đã khoá kho chứa gạo trước khi đi, để lại cho tôi thức ăn sơ sài chỉ gồm khoai lang và bắp. Tôi không quen với những thức ăn này; hồi nào đến giờ tôi luôn có ít nhất chút cơm để ăn. Chẳng bao lâu tôi bắt đầu cảm thấy chóng mặt. Rồi cả thân thể tôi trở vàng vì bệnh vàng da.

Các vị ni tới thăm khuyên tôi nên trở lại Chijang Am, nhưng tôi thà chết chớ không muốn phận sự không tròn. Đến một lúc, da tôi trở nên rất vàng, và dù không cảm thấy đau đớn gì, nhưng tôi hòan toàn kiệt lực. Tôi chỉ có thể ăn các cọng moku mà một huynh đệ trẻ tuổi đã đến nấu giúp và năn nỉ tôi ăn. Ít nhất các cọng moku này cũng có vị ngọt mà tôi rất thích.

Rồi tôi đã mơ. Một cậu bé cỡ 14 tuổi xuất hiện trước mặt tôi với một cái bát bằng đồng sáng chói đựng đầy cơm nóng hỗi. Cậu đưa bát cơm cho tôi, nói răng chứng viêm da vì thiếu dinh dưỡng sẽ được chữa khỏi và tôi sẽ được bình phục. Tôi ăn hết bát cơm và trong vòng ba ngày khuôn mặt tôi có thần sắc trở lại và cơn đói cũng biến mất. Tôi cảm thấy bây giờ mình sẽ sống. Sau đó không lâu, vị laõ ni trở veà và tôi quay lại Chijang Am.

Về đến nơi tôi lại có một giấc mơ khác. Pongong Sunim và tôi đang đi trên một con đường khi chúng tôi gặp một đám trẻ đang đào đất. Khi tôi hỏi chúng đang làm gì, thì chúng trả lời rằng đang tìm đủ loại thuốc và cho chúng tôi mỗi người một ít. Khi vừa nuốt xong phần thuốc của mình, tôi ngửi được một mùi hương kỳ diệu, tâm thức tôi cảm thấy bình yên, rộng mở. Cảm giác thật là dễ chịu, khiến lòng của tôi thêm sức mạnh. Sau đó sức khoẻ và sự ăn uống của tôi hoàn toàn được phục hồi.

Ở Chijang Am, tôi tinh tấn thực hành thiền định. Tuy thế, tôi vẫn phải đảm trách bao nhiêu công việc khác, có lẻ đó là một sai lầm trong quá trình tu tập của tôi, ở thời điểm đó. Dù tôi tiếp tục quán sát câu thoại đầu "Trở về với bản tâm", nhưng vì đã có lần sự nghi ngờ của tôi được vỡ ngộ, tôi cảm thấy mình đã tìm ra được câu trả lời. Điều này có nghĩa laø sự nghi ngờ của tôi chưa đủ mạnh. Vì thế tôi tiếp tục quán sát câu thoại đầu, mà không đào sâu tận gốc rễ. Lý ra tôi phải tham vấn với Thiền sư Hanam về điều này, nhưng tôi nghĩ mình có thể chờ đợi để hỏi Thiền sư Mangong.

Ngôi Chùa Hoang

Ngày nọ một người bạn và tôi bị lạc đường khi đi hái cây cỏ dại trên triền núi gần Puktae. Cuối cùng khi chúng tôi trở về, Pongong Sunim lại nói đã chuẩn bị bữa ăn cho chúng tôi ở Puktae. Thế là chúng tôi đi đến đó, với ý định sẽ viếng Sangwon Sa vào ngày sau để xin lỗi về việc đã gây ra lo lắng cho họ. Đêm đã xuống khi chúng tôi đến và trời rất tối. Puktae chỉ là một ngôi chùa hoang, nhưng vì đang buồn lo về những gì đã xảy ra, chúng tôi không cảm thấy sợ nữa. Người bạn của tôi đi ngủ liền, nhưng tôi chỉ ngồi đó, không thể ngủ được vì xấu hổ.

Tôi không cảm giác gì - không đau đớn, không đói - chỉ là nỗi đau đáu vì đã làm cho người khác buồn lòng. Thế nhưng vào lúc nửa đêm, sự xấu hổ của tôi đã chuyển hoá thành một trạng thái sáng tõ, yên bình. Tâm tôi không có ý nghĩ nào, ngoài câu thoại đầu. Thình lình có một tiếng rít và đèn cầy tắt phụp. Bạn của tôi vẫn ngáy đều. Nếu hoảng loạn, tôi đã có thể chết ngay lúc ấy, nhưng tôi chỉ đứng dậy, đốt lại đèn và ngồi trở lại. Tôi nghĩ đến Thiền sư Naong, người đã sống ở nơi này trước đây rất lâu, nghĩ đến những khó khăn mà ông đã phải trải qua.

Ngày hôm sau, khi gặp Thiền sư Hanam, tôi thưa với ngài là tôi đã không ngủ được và đã ngồi thiền cả đêm. Thiền sư khen ngợi sự tinh tấn của tôi và nói rằng chúng tôi đã có thể ở lại Puktae cũng là nhờ đó. "Một vong linh đã thổi tắt đèn của cô", ông nói. "Vong linh đó ở đấy đã ba năm rồi. Chuyện là một ngày có tên trộm từ một làng dưới thung lũng đã lên đó để trộm gạo của nhà sư đang sống ở đó. Nhà sư đã thiệt mạng trong lúc chống cự tên trộm. Vì thế, ông đã trở thành một vong linh. Điều này có thể không xảy ra, nếu ông chết với tâm thanh tịnh". 

Thiền Sư Mangong Qua Đời

Vào khoảng thời gian đó, tôi đã nghe tin buồn về sự ra đi của Thiền sư Mangong. Tôi đã khóc rất nhiều. Thiền sư Mangong giống như một người cha cứng rắn, nghiêm khắc. Sư chỉ lắng nghe những lời giác ngộ, và luôn cố gắng giúp mọi người thấy được bản tâm chân thật của mình. Đôi lúc sư viết thư cho các thiền sinh còn đang tham dự trong khoá tu thiền. Một lần Thiền sư gửi cho tôi một lá thư tới Yunp'il Am, bảo tôi viết cho thầy biết những thắc mắc của tôi. Tôi đã viết : "Sau khi nấu sôi một hòn đá cho đến lúc nó mềm ra, tôi sẽ tặng nó cho vị cố vấn uyên thâm". Sư trả lời rằng sư chọn lấy hòn đá chưa nấu. 

Tôi không dự được đám tang hay buổi lễ cúng bốn mươi chín ngày của sư nhưng quyết định phải dự buổi lễ cúng một trăm ngày. Sau đó, Pophui Sunim, vị cố vấn cho các ni ở gần Kyongsong Am, khuyên tôi đừng trở lại Chijang Am. Ngoài ra, vị trụ trì của ni viện nhấn mạnh rằng điều quan trọng là trong khóa tu sắp tới, tôi phải sống hòa hợp với đông đảo ni chúng và phải đảm nhận các công việc khác nữa. Tôi bảo rằng tôi phải đi, vì không mang theo mền và túi nải thì trống không. Bà nói có thể nhắn người khác mang đồ dùng của tôi đến đây. Vì bà quá cương quyết, tôi không còn lựa chọn nào khác hơn làø ở lại Kyongsong Am mùa hè năm đó.

Thời Hạn Ba Năm

Ở Kyongsong Am tôi được giao ngay nhiệm vụ trông coi thực phẩm. Tuy nhiên, trước khi mãn thời hạn của nhiệm vụ này, tôi lại được cử làm người phụ bếp. Dường như họ không muốn tôi rời khỏi đây. Tôi cố gắng từ chối công việc này với lý do là tôi không biết quản lý tiền bạc, không biết đi mua bán, không biết giao tiếp. Họ bảo là sẽ có người giúp đỡ tôi, rồi tôi nghe một giọng nói bực bội: "Những người trẻ này, họ tưởng mình là ai chứ, cứ lang thang từ thiền đường này qua thiền đường khác mà không biết nhận lãnh một trách nhiệm nào hết. Không thể như vậy được!" Vì thế tôi nhận lãnh nhiệm vụ làm phụ bếp trong ba năm và thực tập trong Thiền đường khi nào tôi rảnh rang.

Một sáng sớm nọ tôi đang ngồi thiền thì cảm thấy như bị sét đánh và một mảnh của mặt trăng xâm nhập tôi. Tâm thức tôi thật sáng tỏ, còn thân tôi như thể đã bị cuốn đi xa. Tôi hét lên : "Tôi đã được giải thoát khỏi sanh tử!" Mọi người trong thiền đường giật mình, chắc họ tự hỏi không biết tôi đã mơ thấy gì. Vì thế tôi rời thiền đường, cười khúc khích một mình, rồi thiền hành lặng lẽ một lúc bên ngoài. 

Trước khi hết ba năm, tôi quyết định đi nơi khác. Tuy nhiên, vào đêm trước khi tôi định đảnh lễ Tam bảo trong chánh điện để ra đi, Thiền sư Mangong hiện ra trong giấc mơ của tôi. Sư bảo người chủ lễ gióng chuông gọi người phụ bếp. Để một vị thiền sư đã viên tịch phải trở về lo lắng cho mình, tôi cảm thấy mình đã không còn trách nhiệm. Tôi mặc áo tràng vào phòng đảnh lễ Sư. Nhìn Sư như người sống, khiến tôi không cảm thấy đó là một giấc mơ.

Khi tôi cúi xuống đảnh lễ, Sư bảo: "Tôi nghe nói cô định từ bỏ nhiệm vụ của mình".

"Vâng, con sẽ đi.", tôi trả lời yếu ớt.

Sư nói : "Cô phải hoàn thành nhiệm vụ đủ ba năm, chỉ có thế cô mới trọn vẹn trách nhiệm".

Nhưng tôi nài nỉ rằng tôi đã quyết định rồi, và sẽ rời khỏi đây vào ngày mai. Thế là sáng hôm sau tôi đến đảnh lễ ni chúng lần cuối.

Sau đó không lâu Kobong Sunim, vị thiền chủ mới của Chonghye Sa, bảo tôi đến gặp ông. Ông nói: "Cô đã phạm một sai lầm. Tăng đoàn nhờ tôi thuyết phụchoàn thành đủ ba năm trách nhiệm của mình. Nếu tăng đoàn đồng ý về việc gì, thì chắc chắnđức Phật cũng thuận theo điều đó. Tôi có nghe về kinh nghiệm của cô ở Yunp'il Am và tôi tin rằng nếu cô ở lại Kyongsong Am đủ ba năm, cô sẽ hoàn thành trách vụ của mình".

Tôi trả lời là đã quá đủ và sẽ đi.

Sau đó tôi có một giấc mơ gây ấn tượng rằng nếu tôi ở đủ ba năm ở Kyongsong Am, tôi sẽ hoàn tất mọi công đức cần thiết. Nhưng nếu tôi không làm tròn việc này, thì tôi sẽ không bao giờ có khả năng thuyết pháp. (Thật vậy, điều đó đã trở thành sự thật. Tôi không bao giờ có khả năng thuyết pháp.) Mặc kệ những giấc mơ này và lời nài nỉ của thầy Kobong Sunim, tôi rời bỏ nhiệm vụ

Pophui Sunim khuyên tôi nghỉ việc phụ bếp, mời tôi theo bà về ni viện mà bà phải trông coi ở Seoul. Tôi vui vẻ nhận lời.

Các vị ni ở đấy muốn tôi trở thành người hướng dẫn ở Thiền đường. Tôi cố gắng từ chối với lý do là tôi đã quá già và không biết điều hành. Nhưng họ khẩn hoãn : "Bà chắc chắn biết phải làm sao. Chúng tôi đều nghe qua những chứng nghiệm của bà ở Yunp'il Am." 

"Tôi hết biết nói sao.", tôi trả lời.

"Nếu bà hết biết nói sao, thì tôi sẽ nói dùm cho bà," một người vặn lại.

"Cứ làm đi!"

Vì vậy tôi đã làm người hướng dẫn ở Thiền đường trong mùa hè đó.

Chiên Tranh Hàn Quốc Và Sau Đó

Vào lúc rảnh rang, không có khóa tu, tôi nói với Phophui Sunim là tôi phải đi thăm thầy của tôi ở Magok Sa trong một thời gian ngắn. Dù tôi đi không hành lý, nhưng vì chiến tranh ở Hàn quốc bùng nổ, nên đến ba năm sau tôi mới rời nơi đó được. Người ta đe dọa sẽ giết các vị thầy, vì thế rất nhiều thầy cũng như các Phật tử, phải lánh nạn ở Magok Sa, vì nghe nói là tu viện này được các chư thiên bảo vệ. Và đúng là như vậy; chiến tranh hoàn toàn không ảnh hưởng đến chúng tôi.

Sau chiến tranh, Pongong Sunim đến Magok Sa, đề nghị tôi cùng bà đến tu học tại Tonghwa Sa, một tu viện gần thành phố Daegu, nơi mà Thiền sư Huyobong đang trú ngụ. Tôi ở đấy hai năm.

Tôi nhớ Sư có giảng một bài mà Sư nói : "Có một bục giảng ở trên trời cao. Vậy thì đức Phật phải đứng ở đâu?" Tôi đến đứng trước mặt Sư. Sư cười và nói rằng tôi đã hiểu.

Một lần khác, Sư Hyobong nhận được vài nắm lá trong một bao thư do Thiền sư Kyongbong gửi. Sư hỏi chúng tôi ý nghĩa của điều này. Tôi nói : "Thầy ấy đã sai khi nhặt nắm lá này."

Sư Hyobong rất từ bi, luôn luôn giúp đỡ mọi người nghiên cứu, học hỏi. Được học pháp với Sư, việc thực tập của tôi rất khả quan

Sau khi rời Tonghwa Sa, Pongong Sunim và tôi lang thang khắp nơi suốt ba năm, hành thiền nơi này nơi kia. Cuối cùng chúng tôi đến thành phố Namhae, nơi có một ngôi chùa đặc biệt dành cho các tăng ni tổ chức các buổi lễ tụng. Chúng tôi ở gần đó trong một am nhỏ do một nữ cư sĩ cất. Chúng tôi đến Namhae tụng kinh trong bảy ngày, rồi quay về am để thực tập thiền. Tôi ở đó ba năm, nhưng chỉ tụng các thời trong khóa đầu tiên thôi. 

Khi chiến tranh Hàn quốc gần kết thúc, tôi mới nhận người đệ tử đầu tiên. Một vị tăng đã dẫn người ấy đến chùa, rồi bảo hãy đảnh lễ vị ni nào mà bà ấy muốn nhận làm thầy. Bà ấy đảnh lễ tôi. Vì bà ấy đã quá già, tôi sợ bà ấy không thể học được kinh kệcần phải học thuộc lòng nhiều bài kinh. Vì vậy sau hai năm, tôi gửi bà ấy đến những thiền đường nơi có những vị ni sư giỏi về Thiền, như Pophui Sunim và Mansong Sunim. Bà ta đặc biệt thích Mansong Sunim.

Tôi không gặp đệ tử của mình trong một thời gian dài. Rồi một ngày nọ bà xuất hiệnthảo am. Bà nói rằng tôi đã ốm đi nhiều, quần áo thì quá lôi thôi, và khuyến khích tôi trở lại Taesong Am, ni viện của Mansong Sunim với bà. Mặc dù Pongong Sunim rất bực bội là tôi đã nghe lời học trò, nhưng thật ra lời đề nghị đó cũng là ý muốn của tôi. Vì vậy, tôi nhất định ra đi, Pongong Sunim hứa là sẽ theo chúng tôi sau.

Mansong Sunim lo lắng cho tôi chu đáo, cung cấp thuốc men để tôi bồi bổ, nên mặt tôi tròn trịa ra.

Một lần Sansong Sunim và tôi đi đến một bờ sông. Bà ấy hỏi: "Dòng sông chảy hay là gió thổi?"

Tôi trả lời : "Đấy là tâm của bàø động". Bà cười. Đây là lần duy nhấtchúng tôi trao đổi Pháp.

An Cư

Thế rồi chúng tôi cùng đến Naewon Sa để giúp cử hành một tang lễ đặc biệt. Mansong Sunim muốn tôi trở về với bà, nhưng các vị ni ở Naewon Sa xin tôi ở lại làm cố vấn cho họ. Khi đã ở hẳn đây, tôi có thể chăm sóc cho các vị ni trẻ đến học thiền. Cho đến lúc đó, vẫn còn là một phong tục khi các vị ni chỉ đến ở trong các khóa thiền, và trong những thời gian còn lại, nơi đây luôn vắng vẻ. Ni trưởng Suok Sunim xin tôi hãy coi ni viện này như nhà của mình, như thế sẽ khuyến khích ni chúng ở đây quanh năm.

Tôi rất thích sống ở Naewon Sa và trở nên hăng hái nhiều. Hai vị Trưởng lão: Sư Hyanggok và Sư Kyongbong, thường xuyên thăm viếng, khiến tôi thêm tinh tấn. Điều này rất hữu ích vì sự quyết tâm của tôi đã lung lay nhiều sau sự ra đi của Sư Mangong. Quán tưởng về câu thoại đầu, "Trở về với một", tôi đã hiểu là tất cả mọi thứ đều trở lại một và cái một đó lại trở về giữa tâm, chấm dứt ở đấy. Tuy vậy, sau khi nghe Sư Hyanggok giảng, tôi thích nghi với thoại đầu "Không!" và đã thực tập từ đó đến giờ.

Sư Kyongbong một lần viết như sau : " Kinh điển từ đâu đến? Đức Phật lấy các kinh này từ đâu ra?"

Tôi hỏi lại Sư: "Tại sao, thưa Lão Sư, tại sao ngài lại lo nghĩ đến các vọng tưởng đó?"

gật đầu, cười.

Dù Sư Kyongbong rất tử tế, tôi cũng không cảm thấy thích bàn luận với Sư về kinh nghiệm tu tập của mình. Có thể tại vì Sư đã quá già yếu, và thường lui ra ngay sau khi thuyết pháp

Sư Hyanggok, ngược lại, rất là mạnh mẽ và thô bạo - thật ra, khá đáng sợ. Tôi nhớ Sư đã một lần la chúng tôi: "Các vị ở đây đông đảo thế nầy, nhưng các vị đang làm gì? Ăn uống, chăm sóc bản thân, ngắm cảnh, chỉ tổn hao sự cúng dường của cư sĩ? Tại sao các vị cả ngày chỉ lo chơi? Tại sao các vị không lo tu?"

Thế rồi, Sư cho một bài pháp. Trước khi chấm dứt, Sư lại lớn tiếng: "Mười ngàn vị Văn Thù ở đây. Hãy tìm ra vị chân thật, nguyên thủy!" và đi như vũ bảo về phòng.

Tôi còn nguyên áo tràng, chạy theo Sư la to: "Vị Văn Thù chân thật, các vị Phật trong ba đời, các vị tổ trong dòng thiền, các vị thầy hiện tại, tất cả đều từ lỗ mũi tôi mà ra!"

Sư cười lớn và hỏi : "Lỗ mũi của cô đâu?"

Tôi trả lời :"Đầu tiên thì không có lỗ mũi, nhưng tôi không thể lên tiếng, nếu không nói về cái gì đó, tôi nói như thế này đấy."

Sư lại cười và nói : "Cô đã cố gắng tu tập tốt. Hãy hướng dẫn và giúp các vị ni trẻ thực tập tốt."

Sau cuộc đối đầu đó không lâu thì Sư qua đời. Sư đã ban cho chúng tôi bài pháp đó vì Sư biết mình sẽ không còn sống bao lâu nữa.

Tôi đã bước vào Thiền đường năm 32 tuổi và già đi theo thời gian. Khi còn trẻ, tôi ráo riết tu tập, chỉ dành chút thời gian để ăn. Nếu tôi đã hoàn thành đủ nhiệm vụ ba năm ở Kyongsong Am, chắc chắn rằng tôi đã được giác ngộ. Nhưng khi tôi lắng nghe các bài thuyết pháp của các vị đại sư, tôi nhận ra rằng có rất nhiều thứ tôi biết mà cũng có rất nhiều thứ tôi không biết.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18430)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19911)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19585)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33490)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34607)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54601)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37834)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21201)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17951)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63769)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17447)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49762)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16909)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16430)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14522)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22536)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57091)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13893)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29071)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33377)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38442)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31288)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13946)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14662)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12685)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14875)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13859)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12707)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30475)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11878)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30757)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29460)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30672)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31287)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37177)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32326)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23746)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12258)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14254)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14118)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34033)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27778)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12484)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28705)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29430)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12465)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29289)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28096)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25737)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26091)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22324)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33208)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31859)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39642)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22508)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34545)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27404)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28441)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant