Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

12. Điều nào quan trọng hơn

20 Tháng Hai 201100:00(Xem: 11339)
12. Điều nào quan trọng hơn

SỐNG THIỀN
Nguyên Minh

CHƯƠNG I: CUỘC SỐNG NHIỆM MẦU

Điều nào quan trọng hơn

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta làm một công việc này và đôi khi chúng ta phải làm một công việc khác. Chúng ta đạt được những kết quả khác nhau từ những công việc khác nhau của mình.

Thường thì chúng ta đánh giá tầm quan trọng của mỗi một công việc bằng vào kết quả mà chúng ta đạt được, nhìn thấy được. Việc trồng rau được xem như không quan trọng bằng việc biên soạn một quyển sách chẳng hạn.

Tuy nhiên, nếu chúng ta nhìn vấn đề dưới một sự tỉnh thức, sáng suốt, chúng ta có thể sẽ nhận thấy khác hơn. Mỗi một công việc mà chúng ta làm đều là một phần trong cuộc sống, và điều quan trọng là ở chỗ chúng ta thực hiện công việc đó như thế nào chứ không phải ở chỗ chúng ta làm ra được gì. Khi một công việc được thực hiện với sự tỉnh thức, thời gian làm công việc đó là một phần trong cuộc sống của chúng ta. Ngược lại, nếu chúng ta đánh mất sự tỉnh thức, thời gian làm việc đó sẽ không phải là thời gian chúng ta thực sự được sống. Vì thế, cho dù là bạn đang trồng rau hay quét rác, nếu bạn duy trì được chánh niệm thì đó đều là những thời giangiá trịvô cùng quan trọng trong cuộc sống, cũng không kém gì thời gian mà một khoa học gia bỏ ra để nghiên cứu vũ trụ. Ở đây, tôi hoàn toàn không đề cập đến giá trị của công việc đối với người khác, tôi muốn nói đến phần giá trị đối với chính bản thân bạn. Chính phần giá trị này mới là những gì bạn thật sự có được trong cuộc sống.

Hiểu theo cách này, bạn sẽ thấy những giây phút thanh thản ngồi bên một tách trà chưa hẳn đã là hoang phí. Nếu bạn thực sự sống trong giây phút đó, nó cũng có giá trị quý giá không kém những lúc bạn thực hiện một công việc to tát, quan trọng.

Nhìn rộng ra xã hội, chúng ta cũng sẽ không thấy rằng một người phu quét đườngkém quan trọng hơn một ông giám đốc công ty, cho dù phần đóng góp cho xã hội của mỗi người tất nhiên là đều có chỗ khác nhau. Vấn đề là ở chỗ, mỗi người có thực sự sống đúng nghĩa trong phần công việc của mình hay không.

Như tôi đã nói, đôi khi chúng ta phải thay đổi làm những công việc khác nhau trong cuộc sống. Thật không may là không phải lúc nào chúng ta cũng có thể chủ động lựa chọn. Tuy nhiên, nếu chúng ta duy trì được chánh niệm, thì dù chúng ta làm bất cứ loại công việc nào cũng đều quan trọng như nhau đối với chúng ta. Hơn thế nữa, còn có những tương quan tế nhị về mặt tinh thầnchúng ta chỉ có thể tự mình nhận ra trong cuộc sống. Những giây phút uống trà hoặc tưới cây, trồng hoa... bao giờ cũng có những tác động tích cực nhất định đến công việc biên khảo hay giảng dạy của tôi. Ai có thể cho rằng những thời gian ấy là vô ích?

Thời đại mới đã có quá nhiều những thay đổi mới. Khi mà trong tay chúng ta có đầy đủ những phương tiện thông tin liên lạc hiện đại cũng như mọi thứ cần thiết để hỗ trợ cho việc làm, chúng ta hầu như có rất ít lý do để dừng nghỉ. Ngày xưa, tôi có thể phải mất một buổi hoặc một ngày lùng sục trong thư viện để tìm đọc về một vấn đề cần biết. Ngày nay, chỉ cần vài cái nhắp chuột trước máy tính tôi đã có đầy đủ những thông tin mình cần. Vì thế, tôi không phải mất trọn một buổi hoặc một ngày, mà chỉ cần một vài tiếng đồng hồ đã có thể đạt được hiệu quả tương tự.

Vấn đề là ở chỗ, khoảng thời gian tiết kiệm được nhờ vào phương tiện hiện đại đã được tôi sử dụng như thế nào? Nếu tôi làm một con toán chính xácchấp nhận bỏ ra một vài giờ trong khoảng thời gian đó để khôi phục năng lực tinh thần, tôi vẫn còn có lợi hơn trước đây rất nhiều. Nhưng thường thì đa số trong chúng ta không làm thế. Chúng ta liên tục thúc đẩy tốc độ công việc của mình, nhanh và nhanh hơn, nhiều và nhiều hơn nữa. Chúng ta không có cả thời gian để nhìn lại chính mình. Và vì thế, trong thực tế là những phương tiện hiện đại làm cho chúng ta mệt mỏi, căng thẳng hơn nhiều so với trước đây. Điều này thật dễ hiểu. Chúng ta đang phải làm việc với tốc độ của máy tính, tốc độ của phương tiện hiện đại, thay vì là tốc độ của con người như trước đây.

Bạn có thể sẽ phản đối ở điểm này. Vâng, đồng ý là tôi phải làm việc nhanh hơn do sức ép từ những phương tiện hiện đại, nhưng tôi làm ra được nhiều hơn, hiệu quả công việc cao hơn rất, rất nhiều lần.

Ở đây, chúng ta hãy thử nói về một vài hệ quả của việc làm ra được nhiều hơn. Mặc dù trước mắt chúng ta thấy rõ đây là một điều có lợi không cần tranh cãi. Nhưng bạn có biết sự dư thừa sản phẩm hiện nay cũng là một trong các vấn đề làm đau đầu các nhà kinh tế hay chăng? Và hệ quả tất yếu của nó là tỷ lệ thất nghiệp đang ngày càng gia tăng một cách đáng báo động ở hầu hết các quốc gia tiên tiến. Con người đang giành giật với nhau quyền sống, với sự hỗ trợ của những phương tiện kỹ thuật mới. Có thể có những người sống tốt hơn, đầy đủ hơn về vật chất, và để trả giá, có hàng ngàn, hàng triệu người khác trên thế giới sẽ không biết làm gì để sống vào ngày mai...

Chúng ta không thể phủ nhận những tiện nghiđời sống hiện đại mang đến cho con người. Chúng ta đi lại dễ dàng hơn, liên lạc thông tin dễ dàng hơn, nhà ở thoải mái hơn, mua sắm được nhiều đồ dùng hơn... Rất nhiều điểm hơn so với trước đây. Nhưng trong đó cũng phải kể ra là chúng ta có ít thời gian cho bản thângia đình, con cái hơn; chúng ta hối hả hơn, ít thanh thản hơn; chi tiêu nhiều hơn nên cũng bắt buộc phải làm ra nhiều tiền hơn... Và căn nhà chúng ta trở nên chật hẹp hơn so với nhu cầu, cho dù nó chiếm một diện tích lớn hơn. Tổng hợp tất cả những cái hơn đó lại, chúng ta thấy ra một điều là cuộc sống của chúng ta ngày càng căng thẳng hơn.

Ngày nay, chúng ta di chuyển rất nhanh bằng những phương tiện hiện đại, từ chiếc xe gắn máy 100 phân khối, cho đến xe buýt, xe hơi, và thậm chí đến cả máy bay... Điều rõ ràngchúng ta rút ngắn được rất nhiều lần thời gian cần thiết để di chuyển, đi lại. Nhưng điều nghịch lý cũng rõ ràng không kém là chúng ta có rất ít thời gian để di chuyển, hầu như bao giờ cũng ít hơn thời gian thật sự cần thiết. Chúng ta luôn phải phóng xe thật nhanh trên đường, hối hả đến mức đôi khi vượt cả đèn đỏ; chúng ta chen lấn nhau lên và xuống xe buýt, dù chỉ để nhanh hơn được vài phút đồng hồ; chúng ta rời khỏi xe hơi và đi như ma đuổi đến văn phòng, có khi vừa đi vừa chào hỏi một người quen mà không có cả thời gian để dừng lại trao đổi vài ba câu thân mật...

Vấn đề đặt ra là, liệu chúng ta có giữ nổi được một tâm hồn thanh thản trong bối cảnh như thế hay chăng? Trừ khi chúng ta thật sự thay đổi cách nghĩ, cách sống... bằng không thì tôi cho rằng điều đó là rất khó khăn.

Đã đến lúc chúng ta cần phải dừng lại đôi chút và đặt ra cho mình câu hỏi: “Thật ra thì tất cả những gì ta đang làm đây, cuộc sống hối hả của ta đây, là để nhắm đến điều gì?”

Cách đây không lâu, tôi có người bác trong họ vừa qua đời. Ông ta cả một đời bận rộn, làm ra được rất nhiều. Khi từ trần để lại cho con cái cả một sản nghiệp kếch sù, trong đó bao gồm cả hàng chục lô đất nền nhà trong thành phố mà giá cả đã tăng vọt lên hàng trăm lần so với giá mua. Mặc dù vậy, từ khi tôi có trí khôn, tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông có được một ngày thanh thản thật sự. Công việc đòi hỏi ông phải thức khuya, dậy sớm, và bữa cơm trưa nào sớm nhất thường cũng là vào khoảng một giờ chiều... Những đóng góp của ông cho cuộc đời, cho gia đình, con cái... là không có gì để bàn cãi. Nhưng liệu bản thân ông ta đã từng được sống hay chưa? Tôi nghĩ giá như ông làm ra ít hơn đôi chút, có lẽ gia đình, con cái cũng chưa đến mức nghèo túng, nhưng bản thân ông hẳn đã có được đôi chút thời gian sống thật sự.

Mỗi chúng ta đều nên xét lại ở điểm này. Quan điểm “tri túc” mặc dù đã khá cũ kỹ nhưng đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị đúng đắn của nó. Nếu mỗi người chúng ta không có một điểm dừng tương đối, một giới hạn vật chất tương đối... chúng ta sẽ mãi mãi bị cuốn trôi đi trong dòng xoáy của cuộc sống hiện đại này.

Dù là bạn đang làm gì, cũng nên nghĩ đến việc quân bình các nhu cầu vật chấttinh thần trong cuộc sống của mình. Và phương pháp tốt nhất để bạn đạt đến điều đó chính là thực hành sống tỉnh thức.

Sống tỉnh thức, chúng ta chắc chắn sẽ không bị cuốn trôi đi theo nhịp sống hối hả. Chúng ta luôn biết được những nhu cầu thực sự của mình để đáp ứng mà không bị hành hạ chỉ bởi sự tham lam. Và quan trọng hơn hết, chúng ta giữ được cuộc sống thật sự của mình ngay trong bất cứ công việc nào mà chúng ta đang làm.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 18421)
Truyền thuyết “Niêm hoa vi tiếu” không biết có từ lúc nào, chỉ thấy ghi chép thành văn vào đời Tống (960-1127) trong “Tông môn tạp lục” mục “Nhơn thiên nhãn”...
(Xem: 19897)
"Đây là con đường duy nhất để thanh lọc tâm, chấm dứt lo âu, phiền muộn, tiêu diệt thân bệnh và tâm bệnh, đạt thánh đạochứng ngộ Niết Bàn. Đó là Tứ Niệm Xứ".
(Xem: 19584)
Để diệt trừ cái khổ, người ta phải nhận ra bản chất nội tại của vấn đề khổ. Mà để được vậy, trước hết người ta phải cần có một cái tâm an tịnh...
(Xem: 33477)
Những lúc vô sự, người góp nhặt thường dạo chơi trong các vườn Thiền cổ kim đông tây. Tiêu biểu là các vườn Thiền Trung Hoa, Việt Nam, Nhật Bản và Hoa Kỳ.
(Xem: 34600)
Không thể có một bậc Giác Ngộ chứng nhập Niết Bàn mà chưa hiểu về mình và chưa thấy rõ gốc cội khổ đau của mình.
(Xem: 54593)
Muốn thực sự tiếp xúc với thực tại, cho dù đó bất cứ là gì, chúng ta phải biết cách dừng lại trong kinh nghiệm của mình, lâu đủ để nó thấm sâu vào và lắng đọng xuống...
(Xem: 37812)
Thực hành thiền trong Đạo Phật rốt ráo là để Thực Nghiệm sự thật VÔ NGÃđức Phật đã giác ngộ (khám phá). Đó cũng là để chứng thực KHÔNG TÁNH của vạn pháp.
(Xem: 21196)
Do bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung mãn, thưa Hiền giả, khi Như Lai nhập Niết-bàn, Diệu pháp được tồn tại lâu dài.
(Xem: 17949)
Đức Phật khám phá ra rằng một tâm hạnh phúc nhất là tâm không bị dính mắc. Đây là một niềm hạnh phúc rất sâu sắc, khác hẳn với những gì chúng ta vẫn thường biết.
(Xem: 63758)
Đàn Kinh được các môn đệ của Huệ Năng nhìn nhận đã chứa đựng giáo lý tinh nhất của Thầy mình, và giáo lý được lưu truyền trong hàng đệ tử như là một di sản tinh thần...
(Xem: 17441)
Thiền giữ vai trò rất quan trọng trong đạo Phật. "Ngay cơ sở của Phật giáo, tất cả đều là kết quả của sự khảo sát về Thiền, và nhờ có tư duy về Thiền mà Phật giáo mới được thể nghiệm hóa...
(Xem: 49753)
Khi ta phát triển định tâm, ta sẽ có thể giữ những chướng ngại tạm thời ở một bên. Khi những chướng ngại được khắc phục, tâm ta trở nên rõ ràng trong sáng.
(Xem: 16908)
Thiền có nghĩa là tỉnh thức: thấy biết rõ ràng những gì anh đang làm, những gì anh đang suy nghĩ, những gì anh đang cảm thọ; biết rõ mà không lựa chọn...
(Xem: 16420)
Bất kì ai cũng có khả năng giác ngộ nếu có khát vọng. Khát vọng hướng về mẫu số chung “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”, khát vọng đó là minh sư vĩ đại nhất của chính mình.
(Xem: 14518)
Thiền tông, nói mây, nói cuội, nói chuyện nghịch đời… chẳng qua đối duyên khai ngộ, để phá cho được cái dòng vọng tưởng tương tục của người, hy vọng ngay đó người nhận ra “chân”...
(Xem: 22532)
Nhờ thiền sư Munindra tận tâm hướng dẫn chu đáo từng bước một nên bà tiến bộ rất nhanh chóng. Đi từ cấp thiền cổ điển đến tiến bộ trong chánh niệm (progress insight).
(Xem: 57079)
Tập sách Thiền và Bát-nhã này là phần trích Luận Năm và Luận Sáu, trong bộ Thiền luận, tập hạ, của D. T. Suzuki. Tập này gồm các thiên luận về Hoa nghiêm và Bát-nhã.
(Xem: 13890)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, vì càng cầu toàn con càng khổ đau thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống. Chỉ cần vừa đủ trầm tĩnh sáng suốt...
(Xem: 29062)
Đức Phật dạy rằng hạnh phúcvấn đề thiết thực hiện tại, không phải là những ước mơ đẹp đẽ cho tương lai, hay những kỷ niệm êm đềm trong quá khứ.
(Xem: 33373)
Thầy bảo: “Chuyện vi tiếu nếu nghe mà không thấy thì cứ để vậy rồi một ngày kia sẽ thấy, tự khám phá mới hay chứ giải thích thì còn hứng thú gì.
(Xem: 38439)
Sở dĩ chúng ta mãi trôi lăn trong luân hồi sinh tử, phiền não khổ đau là vì thân tâm luôn hướng ngoại tìm cầu đối tượng của lòng tham muốn. Được thì vui mừng, thích thú...
(Xem: 31285)
Nếu không có cái ta ảo tưởng xen vào thì pháp vốn vận hành rất hoàn hảo, tự nhiên, và tánh biết cũng biết pháp một cách hoàn hảo, tự nhiên, vì đặc tánh của tâm chính là biết pháp.
(Xem: 13943)
Thực tế, thì căn bản của sự thực thiền của các hành giả chân chánh là khám phá ra những hành động nào đem lại khổ đau hoặc hạnh phúc. Sau đó, tránh các hành động gây nghiệp...
(Xem: 14656)
Thực hành phát triển Định Tuệ sẽ xa dần các tà kiến và các thiên chấp; sẽ sống với nhân cách tự-do-tinh-thần; cởi bỏ gánh nặng nô lệ thị phi, tập tục.
(Xem: 14321)
“Phản văn văn tự tánh” là “quay cái nghe nghe tự tánh”. Tự tánhthực thể đang nghe đang thấy đang biết, đồng thời đang tự biết tự thấy…
(Xem: 12679)
Hành thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạogiác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
(Xem: 14866)
Tôi có một số kinh nghiệm vững chắc về định, tĩnh, và quán tưởng. Điều đó thúc đẩy tôi đến với Thiền Minh Sát. Các tu sĩ ở đây khuyến khích tôi xuất gia.
(Xem: 19235)
Nếu thấy tất cả con người, muôn vật đều hư giả, tạm bợ thì không còn tham sân nữa. Mình không thật, có ai chửi mình cũng không giận. Cái tôi không thật, lời chửi thật được sao...
(Xem: 13854)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
(Xem: 12704)
Thế giới, với người ngộ đạo, đã được lộn trái trở lại: sanh tử lộn ngược thành Niết Bàn. Đời sốngý nghĩakhông tịch. Đời sống là sự biểu hiện của tính sáng.
(Xem: 30472)
Thiền Quán là tri nhận Giác Thức thành Giác Trí. Giác Thức và Giác Trí được quán tưởng theo thời gian. Khi Tưởng Tri thì Thức và Trí luôn nối tiếp nhau làm cho ta có tư tưởng...
(Xem: 11874)
Cuộc cách mạng thực tập Thiền Chánh Niệm bắt đầu bằng một động tác giản dị là chú ý đến hơi thở, cảm thọ trong thân và tâm, nhưng rõ ràng là có thể đi rất xa.
(Xem: 30743)
Sự giác ngộ đem lại lợi ích thực sự ngay trong kiếp sống này. Khi đề cập đến Pháp hành ta nhất thiết phải tìm hiểu qui trình tu tập hợp lý và hợp với giáo huấn của Đức Phật.
(Xem: 29444)
“Chẳng có ai cả” là một tuyển tập những lời dạy ngắn gọn, cô đọng và thâm sâu nhất của Ajahn Chah, vị thiền sư lỗi lạc nhất thế kỷ của Thái Lan về pháp môn Thiền Minh Sát.
(Xem: 30665)
Thiện tri thức! Tâm lượng quảng đại, biến mãn khắp pháp giới, về dụng thì mỗi mỗi phân minh, ứng dụng ra thì biết được tất cả là một, một là tất cả... Thích Nữ Trí Hải dịch
(Xem: 31278)
Bên ngoài xa lìa các tướng gọi là “thiền”, bên trong không loạn gọi là “định”. Bên ngoài nếu như tuy có tướng, song bên trong bổn tính vẫn không loạn, thì đó là cái tự tịnh tự định bổn nguyên.
(Xem: 37159)
Thiện tri thức, khi chưa ngộ thì Phật tức chúng sanh, lúc một niệm khai ngộ, chúng sanh tức Phật. Nên biết vạn pháp đều ở nơi tự tâm...
(Xem: 32315)
Này chư Thiện tri thức, cái trí Bồ Đề Bát Nhã, người thế gian vốn tự có, nhưng bởi tâm mê, nên chẳng tự ngộ được... Minh Trực Thiền Sư Việt dịch
(Xem: 23737)
Quyển "THIỀN QUÁN - Tiếng Chuông Vượt Thời Gian" là một chuyên đề đặc biệt giới thiệu về truyền thống tu tập thiền Tứ Niệm Xứ của đức Phật dưới sự hướng dẫn của thiền sư U Ba Khin.
(Xem: 12254)
Thực tập chánh niệm có thể ảnh hưởng tích cực đến nhiều hoạt động của hạch hạnh nhân, khu vực có kích thước bằng hạt đậu nằm ở trung tâm não bộ...
(Xem: 14248)
Thiền Tiệm Ngộpháp hành từ tập trung trí và thức gom vào một đề mục duy nhất, hoặc dùng một đối tượng đặt ra do tư tưởng định trước.
(Xem: 14117)
Khi chấp nhận thực hành thiền, chúng ta phải có niềm tin sâu sắc vào khả năng của tâm chúng ta ngay từ lúc khởi đầu, và phải duy trì niềm tin ấy...
(Xem: 34021)
Nếu tâm chúng ta dịu dàng, nhân ái, hiểu biết, và có sự đồng cảm đối với tha nhân, chúng ta sẽ tu tập tâm từ đến người khác không mấy khó khăn.
(Xem: 27775)
Đức Phật bảo rằng cần có mười lăm đức tính để tự hoàn thiện, để có thể sinh lòng từ bi đối với mọi người quanh ta hay rộng hơn cho đến tất cả nhân loại...
(Xem: 12479)
Không biết tự bao giờ, Trà trở thành thân quen trong nếp sống Thiền gia Phật Giáo Bắc Truyền, rồi trà thành một phần văn hóa của Phật Giáo...
(Xem: 28693)
Sách này đặt tên "Kiến Tánh Thành Phật", nghĩa là sao? Bởi muốn cho người ngưỡng mộ tên này, cần nhận được lý thật của nó. Như kinh nói: "Vì muốn cho chúng sanh khai, thị, ngộ, nhập tri kiến Phật".
(Xem: 29419)
Những bài kinh Phật không có bài nào là không hay. Có miệt mài trên những trang kinh xưa mới cảm được sự vang động của suối nguồn trí tuệ.
(Xem: 12461)
Vị trí cực kỳ quan trọng của Lục Tổ Huệ Năng đối với sự hình thành và phát triển của Thiền tông Trung Quốc đã khiến các đệ tử Phật môn luôn nhắc về ông...
(Xem: 29285)
Trong sách này Ngài Sayadaw diễn tả đầy đủ phương pháp quán niệmgiải thích với đầy đủ chi tiết đường lối suy tư về lý vô ngã có thể dẫn đến mức độ thành tựu Niết Bàn.
(Xem: 28073)
Vào năm 1986-1987 Hòa Thượng giảng Kinh Nguyên Thủy; đối chiếu Kinh Pali (dịch ra Việt Ngữ) và A Hàm tại Thường Chiếu giúp cho Thiền sinh thấy rõ nguồn mạch Phật Pháp từ Nguyên Thủy đến Đại ThừaThiền Tông.
(Xem: 25731)
Con đường thiền tậpchánh niệm tỉnh giác, chứng nghiệm vào thực tại sống động. Khi tâm an định, hành giả có sự trầm tĩnh sáng suốt thích nghi với mọi hoàn cảnh thuận nghịch...
(Xem: 26085)
Cuốn Ba Thiền Sư ghi lại cuộc đời của Ikkyu Sojun (1394-1481), Hakuin Ekaku (1686-1768), và Ryokan Taigu (1758-1831). Mỗi vị Sư đều hiển lộ Thiền Tông trong cách riêng.
(Xem: 22317)
Với người đã mở mắt đạo thì ngay nơi “sắc” hiện tiền đó mà thấy suốt không chướng ngại, không ngăn che, nên mặc dù Sắc có đó vẫn như không, không một chút dấu vết mê mờ...
(Xem: 33197)
Thiền Tông nhấn mạnh vào mặt kinh nghiệm cá nhân, nhắm đưa từng con người chúng ta giáp mặt trực tiếp với chân lý trong ngay chính hoàn cảnh hiện tiền của chúng ta.
(Xem: 31847)
Các pháp thế gian đều kỵ chấp trước, chỗ qui kính của Thích tử không ai bằng Phật mà có khi vẫn phải quở. Bởi có ta mà không kia, do ta mà không do kia vậy.
(Xem: 39634)
Quả thật, chân lý thiền vốn ở ngay nơi người, ngay trong tự tâm chúng ta đây thôi. Vậy ai có tâm thì chắc chắc có thiền, không nghi ngờ gì nữa.
(Xem: 22496)
Bắt đầu bằng cách bỏ qua một bên tất cả những mối quan tâm ở bên ngoài, và quay vào quán sát nội tâm cho đến khi ta biết tâm trong sáng hay ô nhiễm, yên tĩnh hay tán loạn như thế nào.
(Xem: 34530)
Đây là phần thứ 2 trong 3 phần chính của cuốn Zen no Rekishi (Lịch Sử Thiền) do giáo sư Ibuki Atsushi soạn, xuất bản lần đầu tiên năm 2001 tại Tôkyô.
(Xem: 27400)
Thật ra chân lý nó không nằm ở bên đúng hay bên sai, mà nó vượt lên trên tất cả đối đãi, chấp trước về hiện hữu của Nhị Nguyên. Chân lý là điểm đến, còn hướng đến chân lý có nhiều con đường dẫn đến khác nhau.
(Xem: 28438)
Trong tiếng Phạn (Sanskrit), từ "Thiền" có ngữ nguyên là dhyâna. Người Trung Hoa đã dịch theo âm thành "Thiền na". Ý nghĩa "trầm tư mặc tưởng" của nó từ xưa trong sách vở Phật giáo lại được biểu âm bằng hai chữ yoga (du già).
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant