Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tự Truyện Của Tôn Giả Longchen Rabjam[1]

02 Tháng Hai 202417:53(Xem: 348)
Tự Truyện Của Tôn Giả Longchen Rabjam[1]
Tự Truyện Của Tôn Giả Longchen Rabjam[1]

Từ Lịch Sử Tràng Bảo Châu
Pema Jyana 

kiepsau

 Ta sinh ra tại thung lũng thượng Dra ở Yoru, là con trai của Lobpon Tenpa Sung và Droza Sonam Gyen. Từ thuở nhỏ, Ta đã có niềm tin lớn lao, lòng bi mẫn và sự thông tuệ. Có những dấu hiệu rằng Namdru Remati đã cung cấp sự bảo vệcực kỳ mật thiết; Bà thậm chí được thấy trong hình tướng vật lýVào khoảng năm bảy tuổi, Ta đã học cách đọc và đã học hỏi các thực hành nghi quỹ Phổ Ba (Kilaya), Tập Hội Thiện Thệ và Guru Rinpoche. Nhờ đó, khoảng năm lên chín, Ta đã có được chút hiểu biết.

Mười hai tuổi, Ta xuất gia làm một tu sĩ tập sự dưới sự chứng minh của Khenpo Samdrup Rinchen và Lobpon Kunga Ozer. Ta học hỏi Luật Tạng và đã giải thích Luật Tạngtừ năm mười bốn tuổi. Mười sáu tuổi, Ta thọ nhận quán đỉnh, sự hướng dẫn và chỉ dẫn từ Lobpon Tashi Rinchen về những chủ đề như Lamdre, Sáu Du Già, Sáu Pháp Của Hợi Mẫu (Varahi), truyền thống Thắng Lạc của Ngài Ghantapada và Mahacakra Vajrapani [Kim Cương Thủ]. Từ Lobpon Wang-ye[2], Ta thọ nhận chỉ dẫn về nhiều kiểu nghi quỹ Chân ngôn Bí mật. Từ Zalung Rinpoche, Ta thọ nhận chỉ dẫn về Zhang Tsalpa, những chỉ dẫn của Tôn giả Gotsangpa về con đường và nhiều giáo lý khác, bao gồm [những giáo lý] về Chod và Zhije.

Mười chín tuổi, Ta đến Sangphu, nơi Ta nghiên cứu thừa của những đặc tínhbao gồm những bộ luận của Ngài Di Lặc và Nhận thức Xác thực (pramāa). Trong sáu năm, Ta nghiên cứu tỉ mỉ với đạo sư vĩ đại – Labrangpa Chopal Gyaltsen và Pháp Xứng thứ nhì[3] cùng nhiều vị khác. Từ đạo sư vĩ đại Tsengonpa, Ta thọ nhận chỉ dẫn liên quan đến Bảy Bộ Luận về Nhận thức Xác thực, Tâm Kinh, nhiều trao truyền phụ liên quan đến Độ Mẫu Tara và v.v. Từ Lotsawa Lo-Ten[4], Ta thọ nhận nhiều trao truyền phụ, bao gồm năm Kinh điển sâu xa, chẳng hạn Kinh Định Vương và luận giải mở rộng về Tâm Kinh.

Thỉnh thoảng, Ta tiến hành các thực hành về chư Tôn tăng cường sự thông tuệ, chẳng hạn Acala, Diệu Âm và Prajñālokakṛtya[5]. Kết quả là, Ta trải qua một số dấu hiệu về sự thành tựu trong giấc mơ và đạt được chút hiểu biết liên quan đến kinh văn, lập luậnchỉ dẫn cốt tủy và thi ca. Sau đó, Ta lang thang qua nhiều địa điểm khác nhau, thọ nhận giáo lý về Kinh điểnMật điển và chỉ dẫn cốt tủy từ nhiều đạo sưkhác nhau và tôi luyện sự hiểu của bản thân nhờ nghiên cứu và quán chiếu.

Từ Lobpon Zhonnu Dondrup, Ta thọ nhận nhiều giáo lý về Tập Hội Ý Định Kinh, Diệu Huyễn Võng, Phần Tâm và v.v. Ta thọ nhận toàn bộ những trước tác của Thánh Long Thọbao gồm Những Đoạn Kệ Gốc Về Trung ĐạoNhập Trung Đạo và v.v. từ Lobpon Zhonnu Gyalpo. Từ Lobpon Zhonnu Dorje, Ta thọ nhận Nhập Bồ Tát HạnhTập Bồ Tát Học Luận (Śikāsamuccaya) và nhiều khẩu truyền khác nhau, bao gồm Sáu Hợp Nhất và Sáu Du Già từ truyền thống của Jowo Atisa. Từ một vị Khenpo, Ta thọ nhận thêm nhiều chỉ dẫn, chẳng hạn tuyển tập giáo lý của Trophu, tuyển tập giáo lý của Kharak, Đại Dương Nghi Quỹ, Trăm Pháp Phụ và những kinh văn Luật Tạng. Với đạo sư tôn quý – Pháp chủ Karmapa, Ta nghiên cứu Sáu Nhánh Du Già bao gồm sự tiêu trừ chướng cản, Sáu Du Già Của Naropa, Sự Giới Thiệu Trực Tiếp Về Ba Thân, Đấng Đại Bi Thắng Hải (Jinasāgara), Đấng Đại Bi theo Truyền thống Vua và v.v. Bên cạnh đó, Ta thọ nhận nhiều giáo lý về Sáu Nhánh Du Già, tiếp cận và thành tựu, và năng lượng-khí (Lung) từ Lobpon Wangtsul và đã thực hành chúng không theo trình tự đặc biệt.

Khi Ta dành năm tháng trong bóng tối trong hang đá ở Chokla, trong một giấc mơ sáng nọ, Ta thấy bản thân trong một thung lũng cát thấp với những ngọn đồi và thác nước nhỏ. Ta nghe thấy tiếng chũm chọe cùng bài ca và thấy một con ngựa được phủ những chiếc chuông trên lưng. Trên lưng ngựa là một cô gái mười sáu tuổi, mặc y phục từ lụa và đeo vàng và ngọc lam; khuôn mặt cô ấy được che bằng mạng vàng. Ta nắm lấy dây cương và nói, “Đức Bà tôn quý, xin hãy chăm sóc con!”. Lúc này, cô ấy cởi vương miện châu báu và đặt lên đầu Ta. Cô nói rằng, “Từ nay trở đi, Ta sẽ liên tục ban cho con gia trì và thành tựu”. Ngay khi cô ấy nói điều này, thân và tâm Ta đắm chìm trong định hỷ lạcsáng tỏ, vô quan niệm. Ta không tỉnh giấc trong thời gian dài. Thậm chí sau khi Ta thức dậy lúc bình minh, kinh nghiệm đã tiếp tụctrong ba ngày tròn.

Sau đó, tại Samye, vào mùa xuân, Ta hạnh ngộ đạo sư tôn quý [tức Tôn giả Kumaradza], vị đang sống tại vùng cao Yartokyam. Ngài nói, “Đêm qua, Ta nằm mơ thấy một con chim tuyệt diệu có nguồn gốc linh thiêng, điều ám chỉ đến con. Dường như một vị trì giữ dòng truyền thừa giáo lý này đã đến. Ta phải ban cho con toàn bộ những chỉ dẫn”. Ngài quá đỗi hoan hỷ.


Mùa xuân đó, chúng ta đã di chuyển từ thung lũng hoang vắng này đến thung lũng khác chín lần. Biến động liên tục mỗi lần thiết lập một căn cứ dẫn đến sự khó nhọc cực độ với thân và khẩu. Ta chống đỡtrong hai tháng chỉ với ba phần bột mì và hai mươi mốt viên thủy ngân. Bất cứ khi nào tuyết rơi, Ta cuộn mình bên trong bao tải, thứ vừa làm áo choàng vừa là nệm ngồi. Ta phát nguyện trải qua những khó khăn như vậy vì Giáo Pháp trong ba năm. Ta đã thiền định tại các ẩn thất ở những nơi như Chimphu, và thỉnh thoảng đến gặp đạo sư để làm sáng tỏ sự hiểu của mình về những chỉ dẫn và cúng dường sự hành trì của bản thân, điều làm Ngài hài lòng. Ta chẳng bám chấp vào những hình tướng của đời này và thoát khỏi cạm bẫy của việc duy trì hy vọng và sợ hãi về luân hồi và Niết BànÍt nhất, Ta đã bắt đầu trên con đường đến giải thoát nhờ tri kiến về bản tính căn bản của Đại Viên mãn và liên tục an trụ trong định. Đặc biệt, nhờ sự vận hành của nghiệp và nguyện quá khứ, Ta đến nơi nhập thất của Đấng Liên Hoa Tự Sinh, Ngũ Đài Sơn của chính Tây Tạng[6], nơi mà vì một vài đệ tử với nghiệp và phước báu cần thiết, Ta chiếu tỏa ánh sáng về con đường xuất sắc của Tinh Túy Kim Cương Tịnh Quang.

Ta có nguyện thiện lành về việc nỗ lực vì lợi lạc của chúng sinh khác bất kể ngày – đêm; Ta dâng những cúng dườnghoàn toàn chẳng bị sai lạc bởi ba phạm vi quan niệm, năm lần trước sự chứng minh của đạo sư tôn quý; và Ta duy trì truyền thống cúng dường đến chư Dũng Phụ và Không Hành Nữ vào ngày Mười và Tám mỗi tháng, như thế, khiến cho bất cứ thứ gì được trao vì niềm tin đều trở nên ý nghĩa. Bất cứ điều gì mà Ta làm, sự hiển bày đơn thuần của những hiện tượng và nhận thức hư huyễn, đều hòa hợp với Giáo Pháp cao quý. Như thế, để đảm bảo rằng những chỉ dẫn chân chính không bị rối loạn mà trở nên dễ hiểu và dễ đưa vào thực hành, Ta đã viết lại những chỉ dẫn cốt tủy trong nhiều bản văn. Đặc biệt, Ta đã sắp xếp những chỉ dẫn về Cực Tinh Túy Đạo Sư – Như Ý Bảo Châu (Lama Yangtik) trong một chuỗi ba mươi lăm giáo lý và niêm phong chúng bằng lời nguyện vì thế hệ tương lai.

Cầu mong những vị đi theo Ta trong tương lai sẽ quay lưng lại với những vấn đề của đời này, chịu trách nhiệm cho tương lai, đi theo một đạo sư tâm linh chân chính, thọ nhận những chỉ dẫn về Tinh Túy Tịnh Quang, và tự mình đưa những chỉ dẫn của Tâm Yếu Bí Mật vào thực hành ở những nơi hẻo lánh. Theo cách này, cầu mong họ vượt qua luân hồi và Niết Bàn trong chính đời đó và khi những dấu hiệu thọ kýkhởi lên, cầu mong họ làm việc càng nhiều càng tốt vì chúng sinh khác. Chịu đựng mọi kiểu vô ơn bạc nghĩa và mệt mỏi, cầu mong họ truyền bá những chỉ dẫn rộng khắp.

 

Nguồn Anh ngữ: https://www.lotsawahouse.org/tibetan-masters/longchen-rabjam/autobiography-from-jewel-rosary.

Adam Pearcey chuyển dịch Tạng-Anh năm 2024.

Pema Jyana chuyển dịch Việt ngữ.



[1] Tựa đề này được dịch giả thêm vào.

[2] Tức Ngài Wangchuk Yeshe.

[3] Trong những nguồn khác, Pháp Xứng thứ nhì được xác nhận là Ngài Zhonnu Rinchen.

[4] Tức Ngài Lodro Tenpa.

[5] Một hình tướng của Hợi Mẫu Kim Cương (Vajravarahi).

[6] Địa điểm của Đấng Liên Hoa Tự Sinh ám chỉ Samye Chimphu, nơi mà ở đây, Đức Longchenpa so sánh với Ngũ Đài Sơn, ngọn núi ở Trung Quốc liên hệ với Văn Thù Sư Lợi và Tôn giả Vô Cấu Hữu (Vimalamitra).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 22138)
Trong một số phương diện quan trọng, tiểu sử của Milarepa giống cuộc đời của đức Phật, mười hai biến cố chính của đời đức Phật tương đương với mười hai chương của cuộc đời Milarepa.
(Xem: 27568)
Tám mươi tư vị đại sư trong tác phẩm này là những vị tổ sư của phái Đại thủ ấn truyền thống, sống trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ 12.
(Xem: 37939)
Đối với người chết, không có gì quý báu hơn là tình cảm chân thật thành kính dành cho họ, và những lời nhắn nhủ khi họ đã trở nên bơ vơ một mình.
(Xem: 20731)
Phật giáo luôn xem vấn đề sống chết là điều quan trọng nhất cần phải được nhận hiểu một cách thấu đáo. Đây là điểm tương đồng giữa tất cả các tông phái khác nhau trong Phật giáo.
(Xem: 14558)
Mỗi gia đình hãy tạo ra một bầu không khí ân phúc linh thiêng thanh tịnh để mở rộng cửa đón nhận thần lực gia trì của chư Phật. Chúng ta có thể thắp đèn càng nhiều càng tốt.
(Xem: 19623)
Sở dĩ được gọi là Mật giáođa số những pháp môn đều được truyền khẩu (transmission orale) và đệ tử là người đã được lựa chọn, chấp nhận cũng như đã được vị Thầy đích thân truyền trao giáo pháp (initiation).
(Xem: 14495)
Mạn-đà-la (Sanskrit maṇḍala मंडलः "circle", "completion") đươc phiên âm từ chữ Phạn, chữ Anh hóa là mandala (phiên âm đọc là mahn-DAH-la) có nghĩa là vòng tròn hay sự tròn vẹn...
(Xem: 20992)
Cuốn sách này là một bản dịch của Ban Dịch Thuật Nalanda về tác phẩm Bản Văn Bảy Điểm Tu Tâm của Chekawa Yeshe Dorje, với một bình giảng căn cứ trên những giảng dạy miệng do Chošgyam Trungpa Rinpoche trình bày.
(Xem: 28710)
Guru (Đạo Sư) giống như một viên ngọc như ý ban tặng mọi phẩm tính của sự chứng ngộ, một người cha và bà mẹ dâng hiến tình thương của mình cho mọi chúng sinh...
(Xem: 27263)
Milarepa là Thánh St. Francis của Tây Tạng. Chúng ta không thể nhầm lẫn âm điệu của những ca khúc này với âm điệu của những ca khúc Fioretti...
(Xem: 22003)
Sự hiểu biết về sự vật hiện tượng thông thường đơn thuần chỉ là trí tuệ thế gian. Liệu loại trí tuệ này có thực sự giúp ta tiến bước trên con đường giác ngộ hay không...
(Xem: 21517)
Nếu bạn không suy nghĩ sự đau khổ của chu trình sinh tử, sự tan vỡ ảo tưởng với vòng sinh tử sẽ không sinh khởi.
(Xem: 26260)
Cái chết là một sự khởi đầu mới. Nó là con đường đưa ta đến buổi bình minh của những cơ hội mới để cho chúng ta hưởng được những thành quảchúng ta đã vun trồng...
(Xem: 21670)
Trong thế kỷ XX, phương Tây có hai người tìm hiểu đất nước Tây Tạng rất sâu sắc, đó là bà Alexandra David Néel và ông Anagarika Govinda.
(Xem: 23456)
Tác phẩm này như một chìa khóa mở ra con đường dẫn dắt những hành giả sơ căn đến với Pháp. Do đó, những ai quan tâm đến nó sẽ hưởng được những lợi ích lớn lao.
(Xem: 23258)
Chết là một phần tự nhiên của sự sống, mà tất cả chúng ta chắc chắn sẽ phải đương đầu không sớm thì muộn. Theo tôi thì có hai cách để xử với cái chết trong khi ta còn sống.
(Xem: 19871)
Những gì Ðức Phật đã khám phá ra trong lúc Ngài thiền định hơn 2500 năm về trước càng ngày càng rõ rệt qua những cuộc thí nghiệm và những sự học hỏi được từ thiên nhiên của khoa học.
(Xem: 22983)
Thấy chúng sinh phàm tình mãi trầm chìm trong phiền não, nhiễm ô, thiếu chính niệm và kiềm thúc thân tâm, Đức Như Lai từ bi trí tuệ đã khai thị rất nhiều phương cách...
(Xem: 21195)
Tâm giác ngộ còn được gọi là Bồ đề tâm (Bodhicitta). Trong tiếng Phạn, “citta” là tâm và “Bodhi” là giác ngộ. Bodhicitta có thể được dịch là tâm hiểu biết hoặc tâm chứa đầy hiểu biết.
(Xem: 20013)
Có rất nhiều loại cảm xúc khác nhau, và chúng đều là sự phóng chiếu của tâm. Các cảm xúc vốn không tách rời khỏi tâm, nhưng vì chúng ta chưa nhận được bản chất tâm...
(Xem: 15446)
Một điều tối quan trọng là mọi người cần biết học cách trân trọngtri ân; nếu không họ sẽ vẫn mãi khổ đau và tự gây áp lựccăng thẳng cho chính bản thân mình.
(Xem: 26117)
Tâm không có màu sắc hoặc hình tượng để nhận ra được nó, nhưng nó thì tuyệt đối trống rỗng và nhận biết sáng tỏ thấu suốt hoàn toàn. (= viên minh)- đó là tự tính của tâm bạn.
(Xem: 22590)
Nền tảng những lời dạy của Đức Phậtphật tính. Và cũng do phật tínhĐức Phật đã ban cho những lời giảng. Mọi chúng sinh đều có khả năng để hoàn thiệnđạt được giác ngộ.
(Xem: 22928)
Tái sinh và nghiệp là những vấn đề liên quan đến nhau gắn liền với mỗi cuộc đời. Mỗi khoảnh khắc là sự nối tiếp của khoảnh khắc trước đó...
(Xem: 30549)
Ở đây giáo sư tiến sĩ Alexander Berzin từng nghiên cứutu tập với những đạo sư Tây Tạng gần ba mươi năm tại Dharamsala, Ấn Độ, sẽ giảng giải việc thực hành bảy điều quán nguyện trong đời sống tu tập thực tiễn hằng ngày.
(Xem: 33260)
Ngài Sàntideva (Tịch Thiên, 691-743) viết luận này tại Học Viện Nalanda, Ấn Độ vào thế kỷ 8. Ngài diễn giảng đường tu hạnh Bồ Tát, hạnh Lục độ và tu mười đại hạnh của Phổ Hiền Bồ Tát.
(Xem: 35593)
Nói một cách tổng quát, nội dung bộ Nhập Bồ Tát Hạnh muốn chỉ rõ thứ lớp tu tập pháp môn Ðại thừa: Thế nào phát khởi Bồ Ðề tâm và tu tập Bồ Tát hạnh.
(Xem: 27121)
Qua sự huân tậpảnh hưởng của tam độc tham, sân, si, ác nghiệp đã hình thành, thiết lập những mối liên kết với tâm thức qua những khuynh hướng có mục tiêu.
(Xem: 17800)
Lòng bi mẫn thật sự của bạn sẽ tạo ra một bầu không khí yên bình cho người hấp hối nghĩ đến chiều hướng tâm linh cao cả và con đường tu tập của họ trong tương lai.
(Xem: 24418)
Hầu hết tranh Thangka đều có dạng hình chữ nhật. Tranh Thangka được dùng như một công cụ thuyết pháp, thể hiện cuộc đời của Đức Phật, các vị Lạt ma danh tiếng...
(Xem: 14665)
Khi những trực nhận nội tại mình trở nên rõ ràngthông suốt hơn thì sự tập trung tư tưởng sẽ giúp đỡ mình điều khiển tỉnh lực mình về hướng đi cần thiết.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant