Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

29 Tháng Tám 202019:32(Xem: 6978)
Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Đọc Thơ Phật Của Thi Sĩ Tâm Tấn

Viết về tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” của thi sĩ Tâm Tấn

 

Huỳnh Kim Quang

Tu nhà năm mấy tuổi đầu

Lẽ huyền chưa đạt thâm sâu Bến Bờ

Chừ nương cảnh chợ sống hờ

Thử xem nhẫn nhục còn chờ những chi?

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.”

(Tâm Tấn, Đêm Huyền)

 

Mấy câu thơ ở trên đã diễn bày được trọn vẹn cuộc đời của một người nữ cư sĩ tu tại gia “nương cảnh chợ sống hờ,” nhưng kiến giảitâm nguyện thì hướng tới cảnh giới bất nhị “Niết Bàn-Địa Ngục bất ly.” 

Đó là một đoạn của bài thơ Đêm Huyền trong tuyển tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương,” đã được xuất bản tại Hoa Kỳ vào năm 2004, của nữ sĩ Tâm Tấn, đã qua đời vào ngày 13 tháng 7 năm 2020 tại thành phố Nha Trang, Việt Nam, thượng thọ 100 tuổi. 

Tuyển tập thơ này tôi đã đọc từ sau khi nó được phổ biến tại Hoa Kỳ do người con trai của nữ sĩ Tâm Tấn là nhà văn Vĩnh Hảo thực hiện. Bây giờ nhân cụ ra đi về cõi Phật, nhà văn Vĩnh Hảo tặng cho tôi để đọc lại và cũng để tưởng niệm công đức của nữ Sĩ Tâm Tấn đối với nền văn học nước nhà nói chung và nền văn học Phật Giáo Việt Nam nói riêng. 

Thú thật, lần này đọc lại tập thơ tôi rất đỗi ngạc nhiênthú vị vì chất thơ thấm đẫm hương vị văn chương và chất Phật cao thâm siêu thoát trong thơ của bà.

Nói nào ngay, xét ra tôi cũng rất có duyên với gia đình nữ sĩ Tâm Tấn. Tôi biết bà từ những năm sau 1975, chính xác là năm 1976. Nhưng bà thuộc thế hệ tiền bối nên chỉ biết mà không thân cận. Ngược lại tôi quen thân với nhiều người con của bà, như thi sĩ Phù Du Vĩnh Hiền, nhà văn Vĩnh Hảo, nhà văn Vĩnh Hữu, Vĩnh Hiếu và Vĩnh Bình. 

Trong bài thơ Đêm Huyền vừa trích, có mấy câu đáng suy gẫm:

 

Niết BànĐịa Ngục bất ly

Ngoài-trong cánh cửa có gì đâu xa:

Mở thương cảnh loạn Ta Bà

Khép Tâm tịnh lại ấy là Chơn Không.

 

Thi sĩ Tâm Tấn đưa ra một hình ảnh rất đời thường để nói đến lý bất nhị của Niết BànĐịa Ngục: trong và ngoài cánh cửa. Đọc câu sau chúng ta sẽ thấy đó là cánh cửa tâm. Đúng vậy, Niết Bàn hay Địa Ngục cũng từ tâm mà ra. 

Điều khá lý thú khác ở đây là thi sĩ đưa ra thí dụ về việc mở tâm và khép tâm. Mở tâm thì bước vào cõi Ta Bà khổ đau. Khép tâm thì thể nhập Chơn Không tịnh lạc. Đây là một ẩn dụ rất sâu xa cho thấy thi sĩ Tâm Tấn là người Phật tửtu tập. Mở tâm tức là hướng tâm ra ngoài, là vọng động chạy theo trần cảnh. Khép tâm tức là xoay tâm vào bên trong nội quán để thể nhập Chơn Không. 

Thi sĩ Tâm Tấn kết thúc bài thơ Đêm Huyền với mấy câu thấm đẫm chất Phật:

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

Trăng nương gió lật trang Thơ

Đèn khuya bấc lụn trầm tư đêm huyền.

 

Triết lý nhị đế dung thông của nhà Phật nằm gọn trong câu “Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.” Sống trong cõi tục đế, tức cõi thế gian phàm tục, nhưng lòng thì không bao giờ quên đại nguyện chứng nhập vào cõi xuất thế của Chân Đế, Chân Như

Hai câu cuối chuyên chở chất liệu văn chương làm say mê người đọc. Ở đây thi sĩ mô tả cảnh đêm trăng huyền diệu mà bà đang thưởng lãm. Chính tâm cảnh ngắm trăng thơ mộng đó đã như chất liệu kỳ diệu cho thơ trào ra. Thi sĩ đã sử dụng một ẩn dụ đầy sáng tạo “Trăng nương gió lật trang Thơ” để miêu tả cảm trạng xúc cảnh sanh tình gây cảm hứng cho hồn thơ tuôn chảy. Câu sau cùng là một câu thơ có họa và nhạc. Họa là ngọn đèn mà cái bấc đã cháy gần cạn nên ánh sáng còn yếu ớt huyền ảo. Nhạc là qua khung cảnh một người ngồi trước ngọn đèn leo lét nhìn bên ngoài ánh trăng như ảo như mộng, có thể nghe được sự tĩnh lặng sâu lắng trong khung cảnh này.

Trong bài thơ “Quán Thế Âm Tịnh Thánh,” thi sĩ Tâm Tấn đã thổ lộ tâm tư của bà với Bồ Tát:

 

Con từ bao kiếp Vô minh,

Vãng lai vấp ngã Tử Sinh đôi bờ.

Đò thiêng lỡ chuyến bơ vơ,

Xôn xao nghiệp Ái gánh hờ Trần Duyên.

 

Đó là lời bộc bạch chân thật của một người Phật tử tại gia đối trước Bồ Tát Quán Thế Âm. Trong đoạn thơ trên, chúng ta thấy thi sĩ Tâm Tấn trong cõi sâu xa của tâm thức dường như không thể quên ước nguyện từ vô lượng kiếp muốn đáp chuyến đò từ bờ bên này sinh tử luân hồi sang bên kia bờ giải thoát niết bàn. Có lẽ vì thế, đối với bà, nghiệp trần duyên của kiếp này chỉ là “gánh hờ” chứ không phải là sự nghiệp trường cửucứu cánh mà bà nhắm tới. Nhưng nói thế không có nghĩa bà không sống hết mình với vai trò của một người vợ một người mẹ. Nhà văn Vĩnh Hảo đã viết về người Mẹ của ông trong Đôi Lời Vào Tập của tập thơ Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương như sau.

“Người mẹ thi sĩ của chúng tôi đẹp, hiền lành, nhân ái, quả cảm, tận tụy một đời chăm sóc chồng con; vất vả trăm chiều sinh và dưỡng bầy trẻ 14 đứa… Cuộc đời Mẹ, từ những con chữ trên trang giấy cho đến những hạt gạo, miếng vải, mồ hôi nước mắt, lời ru giọng hát, tiếng khen thưởng con ngoan, hay tiếng la trách con hư… đều toát lên cái ý vị phong nhiêu diệu vợi của thơ, và của tình.”

Từ bối cảnh tâm thức thấm nhuận Phật Pháp như thế, nên hơn 50 bài thơ trong tuyển tập “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương” không bài nào, không câu nào không bàng bạc giáo lý Phật Đà.

Trong tập thơ nêu bật mấy chủ đề quan trọng mà thi sĩ Tâm Tấn hay nói đến, gồm Lễ Vu Lan với tình mẫu tử và hiếu đạo, tinh thần yêu chuộng hòa bình vì đó là bản chất của đạo từ bi của nhà Phật, các sự kiện liên quan đến lịch sử của đất nước và Phật Giáo Việt Nam từ năm 1963 đến năm 1975.

Trong bài Cảm Niệm Vu Lan 2, thi sĩ Tâm Tấn tưởng niệm ân đức của bậc sinh thành, với lời thơ chí thành tha thiết.

 

Ba mươi năm sau… đầu con sương giá,

Ngồi thương cha nhớ mẹ tuổi hoàng hôn:

Bờ âm dương lấp biển với che nguồn,

Con chỉ thấy núi xa mây trắng hiện…

 

Hai tách trà thơm dâng vào cõi huyễn,

Dĩa trầu cau nồng thắm cũng hư vô!

Những giấc chiêm bao ôm mẹ mơ hồ

Những giọt lệ mừng cha tàn ảo ảnh…

Vén trí phàm phu phút giây nhập thánh,

Tâm là hoa xin hướng cội kỳ hoa.

Kinh Vu Lan ấm phủ mẹ Hồn cha,

Con quỳ lạy minh châu kim trượng chuyển

Ân Đại Hiếu Kiền-Liên muôn kiếp hiển…

Xin mẹ cha mau thoát khỏi luân hồi,

Chín phẩm sen vàng ân phước vào ngôi,

Con hồi hướng với tâm lành trọn kiếp.

 

Trong tình mẫu tử thiêng liêng, thi sĩ Tâm Tấn đã bày tỏ nỗi đau của người mẹ mất con trong bài Khóc Con.

 

Ai nỡ cướp con tôi măng sữa,

Chôn vùi sâu, cách cửa âm dương!

Nơi đây hơi Mẹ ấm giường,

Sao con nằm chốn gió sương mưa dầm?

Dưới huyệt trũng, nắng dầm thiêu đốt

Héo thân con, đau buốt lòng Me!

Mưa Đông rồi tiếp nắng Hè

Đất vun cỏ đắp khôn che ấm tình…

 

Là người Phật tử phụng thừa lời dạy từ bitrí tuệ của Đức Phật có nghĩa là không chủ trương, không hậu thuẫn cho bất cứ cuộc chém giết tương tàn nào đối với muôn vạn sinh linh. Điều đó cũng có nghĩa là người Phật tử luôn luôn sống với suy nghĩ, lời nói và hành động hàm chứa tinh thần hòa bình và nỗ lực kiến tạo cuộc sống hòa bình cho mình và cho tha nhân. Thi sĩ Tâm Tấn là mẫu người Phật tử như thế. Trong bài thơ “Lời Cầu Nguyện Hòa Bình,” thi sĩ Tâm Tấn bày tỏ ước mơ đất nước hòa bình sau bao nhiêu năm chiến tranh.

 

Thắp nến Diêm Phù xin châm lửa Tuệ

Trầm hương dâng, xin ngát Pháp Hoa tâm

Đàn con thơ thống thiết vọng hồng ân

Lễ Thành Đạo xin chuyển vần Xe Pháp.

Lạy Từ Phụ! quê hương con đổ nát

Vì Tham Kiêu đã khoác lốt cuồng chinh

Hai mươi năm thây chất bởi vô minh

Tưởng Tiên Dược đem Trường Sinh Bất Tử:

Chủ nghĩa này trưng chiêu bài, đưa nhủ!

Ý thức kia “Đời nguyên tử” khoe trao!

Năm tiếp năm vết Đạn xoáy Bom cào,

Ngày tiếp tháng Núi Sông gào “Độc Dược”!

Lạy Từ Phụ! xin ban niềm mộng ước

Bóng Thanh Bình làm linh dược hồi sinh.

 

Thi sĩ Tâm Tấn là người thân cận với chư tôn túc lãnh đạo Phật Giáo Việt Nam từ thập niên 1950, khi bà được Cố Hòa Thượng Thích Trí Quang mời cộng tác cho báo Liên Hoa tại Huế. Rồi sau đó bà cộng tác với báo Bát Nhã của Cố Hòa Thượng Thích Trí Thủ. Vì vậy cuộc đời của thi sĩ gắn liền với vận mệnh của Phật Giáo Việt Nam từ đó về sau. Trong biến cố nhà Ngô đàn áp Phật Giáo vào năm 1963, thi sĩ Tâm Tấn đã là một trong những nhân chứng sống. Trong bài thơ Ác Mộng viết vào ngày 16 tháng 8 năm 1963, nghĩa là 4 ngày trước khi chính quyền Ngô Đình Diệm tổng tấn công vào chùa chiền trên toàn quốc, bà đã ghi chú ở cuối bài thơ rằng, “Vừa khóc vừa làm trong đêm 16/08/1963.”

 

Bạn ơi, bạn ơi! núi vun mây hận

Đất phương này sấm động náo tâm tư.

Vừng Từ Vân khuất lấp bởi sương mù,

Hoa Tinh Tấn dập vùi trong bão chướng.

Kinh ngạc sững sờ hồn không định hướng

Ngẩng nhìn cao tìm dấu vết Từ Vân.

Bắc Đẩu tinh phương chiếu rạng tinh thần

Vầng nguyệt từ bi biến mờ đâu cả!

 

Trong bài Áo Vàng Bất Diệt, thi sĩ kể tình hình Phật Giáo vận động cho tự dobình đẳng tôn giáo năm 1963 như sau.

 

Phật Giáo Tăng Ni, tín đồ tranh đấu

Thiết tha đòi Năm Nguyện Vọng thuần từ.

Nạn độc tài vận nước lúc suy hư,

Giáo Kỳ trưng lên, Giáo Kỳ triệt hạ!

Nhìn Thầy tuyệt thực, nắng sương đỏi lả,

Rồi nghe tin Thượng Tọa tự thiêu mình

Và  Sa Di, Đại Đức tiếp hy sinh

Lửa Tử Đạo bừng bừng trong ánh mắt.

 

Khép tập thơ lại. Lòng tôi dâng lên niềm cảm thán và kỳ thú. Cảm thán vì đọc được những bài thơ chứa chan tình đời nghĩa đạo. Kỳ thú vì không ngờ một người “chưa từng cặp sách đến trường” – như nhà văn Vĩnh Hảo đã viết trong lời đầu tập thơ – mà có thể có được kiến vănchữ nghĩa bác lãm và uyên thâm như thế. Đây quả thật là một sự hiếm có. Tôi tự giải thích cho chính mình với hai nhân duyên. Thứ nhất là nỗ lực phi thường của chính thi sĩ Tâm Tấn trong việc tự học trong đời này. Thứ hai là bà vốn có một thiên tư trí tuệ đặc dị mà không phải ai cũng có, nếu không muốn nói là bà mang chủng tử trí tuệ từ nhiều kiếp trước đến đời này. Điều này làm cho tôi rõ lý do tại sao thi sĩ đã nhiều lần nhắc đến ước nguyện trở về cố hương Chân Như trong trong tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.” 

 

Giấc khuya đầy đọng triền miên

Nửa thương Tục Đế, nửa nguyền Chân Như.

 

Xin kính cảm ơn thi sĩ Tâm Tấn. Nhân tuần chung thất của bà, xin cầu nguyện bà sớm hoàn thành ước nguyện.

 Tap tho CUOI DOI LOC NHUNG TINH SUONG

Bìa tập thơ “Cuối Đời Lọc Những Tinh Sương.”

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 6229)
Đoàn Tăng Lữ hằng ngày đi khất thực Thân dị hình khác biệt với thế gian Y áo vàng thanh thoát ánh đạo vàng Ôm bình bát chẳng màng đi chân đất .
(Xem: 5277)
Ta đứng giữa rừng thu hắt hiu, Sợi thu vàng vọt rớt trong chiều, Hoàng hôn phủ gót chân hoang dã, Nghe nàng thu chết giữa cô liêu
(Xem: 10169)
Đến đi rồi cũng một kiếp người Danh vọng bao giờ được thảnh thơi Tiền bạc như cục xà bông trượt Vừa nắm được rồi lại tuột rơi .
(Xem: 6481)
Đời xuất sĩ hoà mình trong cuộc sống Đi vào đời mang hạt giống tuệ bi Dẫu biết rằng thế cuộc lắm thị phi Bao tâm huyết không bao giờ thay đổi .
(Xem: 8473)
Chuyên tâm tu Phật Sống thật lòng ta Niệm chánh bỏ tà Là con đường sáng .
(Xem: 5911)
Nghiệp lực đeo nhau suốt cõi đời, Đau thương khổ ải biết nào lơi. Gieo nhân muôn thuở đang rình rập, Gặt quả ngàn năm chẳng thoát vơi.
(Xem: 6109)
Thiền Tịnh Mật tuỳ duyên ta tu đạo Đừng khen chê hay dở lẫn thấp cao Căn cơ ta thích hợp pháp môn nào Cứ mạnh tiến cho dù ai chỉ trích .
(Xem: 6876)
Bây giờ con mới hiểu ra Tu hành trước nhất thoát qua mê lầm Tụng kinh, gỏ mõ, thỉnh chuông Pháp thực tập để tâm buông niệm tà
(Xem: 5377)
Chuông chùa vang tiếng gọi Thức tỉnh khách đường xa Bao tháng ngày say đắm Chẳng nhớ lại lòng ta
(Xem: 6944)
Dòng đời biến chuyển luôn luôn Từng giây từng phút vui buồn trong ta Từ ngày học Phật hiểu ra Cuộc đời như giấc mộng qua sáng nầy
(Xem: 5916)
Sanh tử tử sanh chẳng chút ngừng Tiếp diễn muôn đời mãi không ngưng Nhìn dòng nước chảy luôn bất tận Cùng gió mây trời bổng nhẹ tưng
(Xem: 6749)
Bao la độ lượng giữa đời nầy Chất chứa khoan dung bỏ dở hay. Rác thối phân dơ đều ngậm trọn, Thây ươn gỗ mục vẫn ôm đầy.
(Xem: 6483)
Tháng tám lại về nhớ Mạ thương, Ân sâu trời bể ánh vầng dương. Gia nương hưng thịnh ngầm khoe ngọc, Dòng tộc phồn vinh lặng tỏa hương.
(Xem: 6583)
Vào năm 2003 khi thảo Vạn Hữu Trường Ca được nửa chừng, bèn nghĩ có lẽ dừng lại để sau này sẽ tiếp để đi vào Việt Nam Thi Sử Hùng Ca trước
(Xem: 5277)
Nơi vùng tịnh xá Kỳ Hoàn Gió trời nhẹ thổi, mây ngàn êm trôi Gốc cây cổ thụ trên đồi Sa Môn bốn vị cùng ngồi chuyện chơi
(Xem: 5670)
Chánh nhân Phật Tánh bây giờ Ở đây hiển hiện chẳng chờ ai cho Ta không ham muốn chức to Chỉ mong buông bỏ đắn đo đời mình
(Xem: 4906)
Biển ô nhiễm dân tôi tìm đất sống Thảm cảnh này quặn thắt tận tim gan Phá môi trường đến cả sự bình an Bao khốn khổ bao cảnh đời đói khát
(Xem: 4816)
Quê hương muôn đời mãi nhớ thương Tiền nhân dựng nước đổ máu xương Ơn nước đời đời xin đáp trả Tình người sâu đậm đẹp ngàn phương
(Xem: 5607)
Niết Bàn chẳng có ở cõi trên Đừng cầu van vái mãi mong lên Mò trăng dưới nước thêm mệt xác Tuỳ duyên mà sống đạo còn hơn
(Xem: 8351)
Gặp nhau thoáng chốc lại ra đi, Vương vấn trần gian thấm ướt mi !!! Khổ cực dựng xây gia tộc bởi, Sướng vui bồi đắp cháu con vì.
(Xem: 5597)
Chập chờn nhạn trắng khắp vườn cây, Giọt nắng đong đưa gió rũ mây. Thấm đọng đầu cành bầy bướm lượn, Ngập tràn trước ngõ đám hoa lay.
(Xem: 5522)
Cuộc đời bèo dạt mây trôi Trước đây trưởng giả đêm rồi trắng tay Đồng tiền ta kiếm bằng tay Bằng sức lao động chẳng ai phàn nàn
(Xem: 5474)
Sáu nẻo xuống lên là chi nhỉ Bốn loài sinh tử tựa chiêm bao Xa xưa như mới hôm nào Ngày mai mờ mịt cớ sao đón chờ
(Xem: 7522)
Đã biết khổ thì đừng gây thù oán Lấy từ bi xoá bỏ hận thù kia Nếu mai đây cuộc sống có chia lìa Ta vẫn nở nụ cười như Đức Phật
(Xem: 6195)
Nghiệp thì luôn có cả hai Nghiệp lành nghiệp dữ ở ngay tâm mình Tự ta chuyển nghiệp cho mình Nghe theo lời Phật an bình hôm nay
(Xem: 5160)
Vũ trụ xoay vần đêm sáng Đời người sanh tử mãi luôn Trăm sông chảy về biển cả Ai đi chẳng nhớ về nguồn ?
(Xem: 6240)
Tôi chết từng khoảnh khắc Từng sát-na hồi sinh. Tôi xác thân tứ đại Tôi linh hồn điêu linh!
(Xem: 6065)
Mục Kiền Liên vốn xuất thân Con ông trưởng giả vô ngần giàu sang Ông cha tu rất đàng hoàng Nổi danh đạo đức xóm làng biết tên
(Xem: 7521)
Pháp Phật bao trùm khắp đâu đây Cho ta thông suốt bản tâm nầy Cầu xin khấn mãi càng xa Phật Một ngọn gió lùa cũng tiêu mây
(Xem: 9932)
Đã trót sinh ra giữa cuộc đời, Ân tình sâu nặng chẳng nào lơi. Sinh thành dưỡng dục ơn trời đất, Cất giấu trong tim mọi khắc thời.
(Xem: 6997)
Hai tay trắng khẽ buông xuôi Thở dài hối hận, ôi thôi muộn màng! Mây mờ che phủ trăng vàng Thiết Sơn gió vẳng cung đàn hư không!
(Xem: 13258)
Thuở xưa ở dãy Tuyết Sơn Có chim oanh vũ dễ thương, hiền hòa Vì cha mẹ bị mù lòa Một mình chim phải bay ra khu rừng Kiếm tìm trái chín thơm lừng Mang về cung kính cúng dường mẹ cha.
(Xem: 5489)
Thu về bên chiếc lá, Non xanh khóm cúc vàng, Rộn rã hội mùa sang. Cha Mẹ là tất cả.
(Xem: 6548)
Tử sanh nghĩ cũng vô cùng Cớ sao lại cứ lạnh lùng khó thương Bao người lỡ bước lầm đường Một lời pháp thí tận tường tánh an
(Xem: 6474)
Vài hàng kính gửi Mẹ yêu Mỗi khi con nói Mẹ chiều Mẹ nghe Mẹ là người bạn cận kề, Suối nguồn tình Mẹ không hề cạn vơi.
(Xem: 5198)
Ra đi sống đời viễn xứ Hướng về đất nước quê hương Núi sông biển hồ mây nước Tình người nhiều nỗi nhớ thương
(Xem: 12200)
Mẹ muốn đi lễ Phật Con xin được cỏng Mẹ. Cõng Mẹ là cõng Phật Có phước đức vô lượng Bởi Mẹ sanh ra con Nuôi con bao khó nhọc.
(Xem: 6135)
Nơi núi cao bạn bè lui tới, Để hàn huyên rồi cũng chia phôi, Chiều tà bóng dục liên hồi, Cửa kia đã đóng đứng ngồi lại trông
(Xem: 6300)
Tháng Bảy Mùa Vu Lan. Bóng Mẹ trong hồn con lãng tử chưa về. Đêm qua say đọc thơ vô kể Vần điệu cài bóng hạc trời quê!
(Xem: 5733)
Cung dưỡng mẹ cha hiếu đạo hiền Phật đâu ngồi ở cảnh chùa riêng Bông hoa trái ngọt xin cầu phước Lạc lối lầm đường lẽ đương nhiên
(Xem: 6147)
Chúc mừng Khánh thọ “Sư Ông” Con xin cung kính đôi dòng thanh lương Từ ngày cách biệt quê hương Sư Ông theo trọn con đường “Như Lai”
(Xem: 5771)
Vu Lan nhớ mẹ bao giờ Dù bao cách biệt hai bờ đại dương Mẹ là bài hát quê hương Là đôi vai nhỏ chín thương sớm chiều
(Xem: 5688)
Sống cho đẹp mặt đẹp đời Đẹp duyên đẹp đạo khắp trời yêu thương Sống sao cho nhẹ vấn vương Cho tan nát cả bức tường vô minh
(Xem: 6087)
Tháng bảy Vu Lan nhớ Mẹ thương, Phòng không vắng vẻ dáng quanh tường. Lay mình trở giấc là thao thức, Ngẫm kỷ trần gian vốn chẳng thường.
(Xem: 6008)
Vu Lan thắng hội đến năm nay, Khấn nguyện song thân phút tỏ bày. Ngoài cửa gió đưa rung mái lá, Bên chùa hương tỏa lẫn chân mây.
(Xem: 5451)
Trăm năm nước biển mưa nguồn Ngàn năm học Phật vui buồn tự soi Cuộc đời cũng vậy mà thôi Ba ngàn thế giới đến rồi lại qua
(Xem: 5221)
Đời thi sĩ không buộc ràng nghi lễ Sống hoà mình với vũ trụ bao la Thương cây rừng cùng gió núi trăng ngà Chỉ biết đủ với am tranh thiền thất
(Xem: 5366)
Khua môi múa mép chẳng ích gì Vào tai ra miệng có ra chi Tu Phật ta cần hành pháp Phật Lợi ích cho mình bất khả nghi
(Xem: 5382)
Pháp Phật luôn thường suy nghiệm Tư duy thiền tịnh không hai Cuộc đời thoáng qua như gió Phút giây chợt tỉnh tháng ngày
(Xem: 5212)
Nhạn trắng bay là trước cửa song, Vu lan thắng hội chạnh nao lòng. Bàn thờ quạnh quẽ khung hình nhớ. Gác nhỏ đìu hiu dáng Mẹ mong.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant