Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cóc và Thiền

27 Tháng Ba 201100:00(Xem: 15462)
Cóc và Thiền

 

 Haiku là một loại thơ sáng tạo đặc biệt của Nhật Bản, không chỉ vì tính cách ngắn gọn, đi thẳng vào lòng người, mà còn vì hương vị đậm đà của Thiền thấm sâu trong đó. Trong những bài thơ haiku bất hủ để lại cho đời, có lẽ độc đáo nhất là bài thơ con cóc của Matsuo Basho.

 Một ngày mùa xuân, thi sĩ ngồi tĩnh tâm bên bờ nước trong vườn. Trời mưa nhè nhẹ, văng vẳng đâu đây tiếng chim bồ câu rung rúc vang vọng lại. Một cơn gió phất phơ thổi đến, làm bay lả tả vài cánh hoa anh đào rơi rụng xuống đất. Một ngày đẹp tuyệt vời vào cuối tháng ba, khiến ta như muốn nó kéo dài mãi mãi. Và thi sĩ ngồi đó, trầm mình trong thiền định, tận hưởng từng sát na của giây phút hiện tại trong sự giao hòa của cái hữu hạn và vô hạn, cái vô thường và hữu thường. Chợt có tiếng con cóc nhẩy ào vào trong ao làm khuấy động mặt nước, như khuấy động sự tĩnh lặng trong tâm ông, và thi sĩ đã buột miệng nói lên :

 Con cóc nhẩy vào

 Tiếng nước xôn xao!

 Và để hoàn thành bài thơ, Basho đã làm câu trên là:

 Ao xưa

 Và thế là, bài thơ bất hủ con cóc đã được ghi lại như sau:

 Ao xưa

 Con cóc nhẩy vào

 Tiếng nước xôn xao!

 Bài thơ này có gì mà nổi tiếng như vậy? Nếu so sánh với bài thơ “Con cóc trong hang” của Việt Nam, bài thơ này cũng có nhiều điểm tương tự. Nhưng trong khi bài thơ của Basho là một tuyệt tác lừng danh thế giới, thì bài thơ con cóc của Việt Nam lại biến thành một đề tài để châm biếm những người không biết làm thơ mà lại cứ cố nặn ra vần thơ.

 Con cóc trong hang

 Con cóc nhẩy ra

 Con cóc ngồi đó

 Con cóc nhẩy đi

 Sở dĩ bài thơ con cóc của Basho là một tuyệt tác, vì trong đó có nét thiền vị chan hòa, thấm thấu vào lòng người. Thiền là gì? Có lẽ ít ai định nghĩa được thiền là gì, bởi vì khi cố gắng định nghĩa là đã xa rời ý nghĩa của Thiền rồi. Vua Trần Nhân Tông, sơ tổ Trúc Lâm đã nói: “Ðối cảnh không tâm chớ hỏi Thiền.” Nhưng nếu theo sự kiến giải thông thường mà nói, thì Thiền lá Ðạo, là chân lý, mà Thiền cũng chính lá phương tiện, là pháp tu để đạt đến chân lý. Theo thiển ý, về phương tiện, thiền là phản chiếu lại nội tâm để nhận thức bản chất của sự hiện hữu của chính mình, và từ đó, có một cái nhìn đúng thực về tương quan của vạn pháp. Thiền là đi thẳngthâm nhập vào gốc rễ của mọi sự, và gốc rễ ấy không đâu khác hơn là Tâm của chúng ta. Và khi đã biết được gốc Tâm luôn luôn sáng suốt, không lặng và thường hằng, thiền là sống trong sự tỉnh giác, sáng suốt không lặng ấy, nhìn mọi sự trong thực tướng Như Như của chúng, và nhận biết được sự huyễn hóa của ngoại cảnh nên không còn thả ý chạy theo ngoại cảnh. Vì vậy, thiền giả nhìn con cóc nhẩy vào trong ao làm nước bắn tung tóe khuấy động sự tĩnh lặng trong vườn cây, nhưng đó chỉ là một hình ảnh chợt gợi lên rồi lặng xuống, tiếng nước chao động cũng chỉ thoáng qua rồi lặn đi, không có gì phải vướng mắc hay lưu luyến. Cái thấy nghe ngay lúc ấy và trong mọi lúc mới là cái chính, không phải là con cóc nhẩy vào trong ao. Nói một cách khác, thiền giả nghe tiếng động để rồi trở về với bản chất tánh nghe của mình, nhìn trần cảnh để rồi trở về bản chất tánh thấy của mình; bản chất tánh nghe, tánh thấy ấy không đâu khác hơn là ở trong sự sáng suốt không lặng bao trùm của Tâm. Lúc bấy giờ trong sự không rỗng trong sáng ấy, tâm thiền giả có khác gì mặt nước hồ trong, thấy chim nhạn bay qua nhưng không lưu lại bóng hình.

 Nhạn quá trường không

 Ảnh trầm hàn thủy

 Nhạn vô di tích chi ý

 Thủy vô lưu ảnh chi tâm.


 Dịch:

 Nhạn bay trên không trung

 Bóng chìm đáy nước lạnh

 Nhạn không ý để dấu

 Nước không tâm lưu bóng


Trích kinh Thủ Lăng Nghiêm:

Khi xưa, đức Như Lai bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông rồi hỏi ông A Nan rằng: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có nghe.”

Khi tiếng chuông hết ngân, Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ không nghe.”

Khi ấy, La Hầu La lại đánh một tiếng chuông nữa. Phật lại hỏi: “Nay ông có nghe chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có nghe.”

Phật lại hỏi ông A Nan: “Thế nào là ông có nghe, thế nào là ông không nghe?”

Ông A Nanđại chúng đều bạch Phật rằng: “Tiếng chuông nếu đánh lên thì được nghe, âm vang hết rồi thì là không nghe.”

Ðức Như Lai lại bảo La Hầu La đánh một tiếng chuông nữa và hỏi ông A Nan rằng: “Theo ông nay có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng.”

Giây lâu tiếng dứt, Phật lại hỏi: “Theo ông nay có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ không tiếng.”

Lát sau La Hầu La lại đánh một tiếng chuông. Phật lại hỏi ông A Nan: “Nay đối với ông có tiếng chăng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp: “Dạ có tiếng.”

Phật hỏi ông A Nan: “Thế nào mà ông gọi là có tiếng và thế nào là không tiếng?”

Ông A Nanđại chúng đều đáp rằng: “Tiếng chuông đánh lên thì gọi là có tiếng, lâu hết âm vang thì gọi là không tiếng.”

Phật bảo ông A Nanđại chúng: “Hôm nay các ông sao nói trái ngược lộn xộn như vậy?”

Ông A Nanđại chúng đều bạch Phật: “Sao Thế Tôn bảo chúng con nói trái ngược lộn xộn?”

Phật bảo: “Ông lẫn lộn tánh nghe nghe với tiếng chuông, sao không bảo là trái ngược lộn xộn? A Nan, nếu tiếng hết không còn âm thanh mà bảo là không nghe, thì tánh nghe đã diệt giống như cây khô, khi tiếng chuông lại đánh lên làm sao ông lại biết có tiếng được? Biết có biết không là do thanh trần hoặc không hoặc có, chứ tánh nghe kia há lại vì ông mà thành có thành không? Nếu thật tánh nghe nói là không có thì ai biết là không nghe?

Thế nên A Nan, tiếng trong cái nghe tự có sanh diệt, chẳng phải vì ông nghe tiếng sanh tiếng diệt mà khiến cho tánh nghe của ông thành có hay là không. Ông còn điên đảo lầm cho cái tiếng làm cái nghe, thì đâu có lạ gì mà không mê muội cho cái thường làm cái đoạn.

Bởi chúng sanh từ vô thủy đến nay theo các thứ sắc, thanh trần rong ruổi với vọng niệmlưu chuyển, chưa từng khai ngộ Bản Tánh Thanh Tịnh Diệu Thường, không biết đến cái thường mà chỉ theo các thứ sanh diệt, do đó mà đời đời bị tạp nhiễm phải lưu chuyển.” 

 Trở lại vấn đề con cóc, con cóc nhẩy vào ao hay con cóc trong hang nhẩy ra cũng chỉ là trần cảnh, trần cảnh đó chợt hiện ra trước mắt cũng là dịp để ta cảm nhận được tính thấy biết của mình, tính thấy biết ấy luôn luôn thường hằng, không thay đổi, không sanh diệt. Và sự thấy biết của giác quan cũng chỉ là diệu dụng của một Tự Tánh bao la không lặng tỏa ra. Biết được Tự Tánh ấy là đã thấy được Bộ Mặt Bản Lai của mình, bộ mặt bản lai vốn không có hình tướng, không có tên tuổi, không sanh không diệt, không được không mất, nhưng luôn luôn thường trú và còn được gọi với nhiều tên khác như là Chân Tâm, Phật tánh v.v.. Biết buông xả mọi ý niệm, kể cả ý niệm trừ vọng, cầu chân, mà chỉ an trú trong sự thanh thản tự nhiên, như nước lắng đọng trong suốt , hay như bầu trời không một gợn mây, Tự Tánh không lặng ấy sẽ tự hiển lộ, trong sáng và tròn đầy vô tận như ánh trăng rằm vằng vặc. Còn nếu còn ý niệm “năng” và “sở” của chủ thể và đối tượng, của cái ta và ngoài ta, thì vẫn ở trong vòng đối đãi phân biệt, và còn chưa thể cảm nhận được cái tự tánh bao la không biên giới trong ngoài vẫn thường hiện tiền bên ta như hình với bóng. Nếu lấy tâm đi tìm tâm, có khác nào đang cười trâu mà đi tìm trâu, bao giờ mới thấy được. Nói một cách khác, “buông tất cả để được tất cả”, khi biết buông tâm rồi sẽ thấy tâm, buông hết mọi ý niệm phân biệt, mọi tri kiến sẵn có để trở về với sự không lặng thênh thang tự nhiên, thì mới hiểu được câu nói của Lục Tổ Huệ Năng khi được Tổ Hoằng Nhẫn khai ngộ: “Ðâu ngờ tánh mình vẫn thanh tịnh xưa nay!”


 Chúng ta hãy ngộ nhập bài kệ bất hủ của Tổ Huyền Giác trong Chứng Ðạo Ca :

Tuyệt học vô vi nhàn đạo nhân

 Bất trừ vọng tưởng bất cầu chân

Vô minh thật tánh tức Phật tánh

 Huyễn hóa không thân tức Pháp thân.


 Dịch:

 Dứt học, chẳng làm, nhàn đạo nhân

 Không trừ vọng tưởng, chẳng cầu chân

 Thật tánh vô mình là Phật tánh

 Thân không huyễn hóaPháp thân.


 Hay như thiền sư Hương Hải mà ngâm rằng:

 Liễu liễu thời vô sở liễu

 Huyền huyền xứ diệc tu ha

 Ân cần vị xướng huyền trung khúc

 Không lý thiềm quang yết đắc ma?


 Dịch:

 Liễu, liễu, khi liễu không chỗ liễu

 Huyền, huyền, chỗ huyền cũng phải buông

 Ân cần hát khúc trong huyền ấy

 Ánh trăng giữa trời nắm được không?


 Và cảm nhận được bản chất tánh Không của chân tâm, vọng tâm:

 Suy chân chân vô tướng,

 Cùng vọng vọng vô hình

 Phản quán suy cùng tâm

 Tri tâm diệc giả danh


 Dịch:

 Xét chân, chân không tướng

 Tìm vọng, vọng không hình

 Quán lại tâm tìm xét

 Biết tâm cũng giả danh

 (Trích trong Hương Hải Thiền Sư Ngữ Lục)

 

 Trong những câu chuyện được truyền tụng lại, ta thường thấy những vị thiền sư ngộ đạo sống thật thoải mái, an nhiên tự tại, không vướng mắc nơi bất cứ cái gì, như người đã thấy mặt trăng nên không nhìn đến ngón tay chỉ mặt trăng nữa, đã qua đến bờ nên không còn phải ở trên bè qua sông... Tất cả mọi pháp môn tu tập đều chỉ là phương tiện, khi đã đạt tới cứu cánh rồi thì không còn chấp vào phương tiện nữa. Ðó là bởi vì họ đã đạt được sự vô ngã trong trí huệ Bát Nhã thấu suốt được tánh Không của vạn pháp. Tánh Không ấy không phải là cái Không đối đãi của có và không, nhưng là cái Chân Không Diệu Hữu, tuy không mà không phải không, bất động mà động, bởi từ trong bản chất không lặng ấy mà những dấy khởi phân biệt vọng lên, nên từ cái không sinh diệt mà khởi cái sinh diệt, từ cái vô niệm mà khởi lên ý niệm trùng trùng, từ chỗ không tâm mà lập ra có tâm, nhưng bản chất của chân tâmvọng tâm ấy là một không hai, như bản chất của sóng và nước là một. Do biết được bản chất của mọi hiện tượng nên họ sống trong dòng đời mà không bị cuốn trôi theo dòng đời, vượt thắng mọi hoàn cảnh, xem sanh tử như lật bàn tay. Còn chúng ta bị mây mù vô minh che lấp nên như người ở mê hồn trận không biết lối ra, lúc nào cũng quanh quẩn trong cái sướng khổ trước mắt của thân và tâm mình.


 Ðể kết thúc chuyện cóc nhái, chúng ta có thêm một chuyện ếch ngồi đáy giếng của Tây tạng do thiền sư Patrul Rinpoche kể lại.

Con ếch ngồi đáy giếng không biết gì hơn ngoài cái đáy giếng. Một hôm có một con ếch từ đại dương đến thăm nó. Eách ngồi đáy giếng hỏi:

- Mày từ đâu đến?

- Từ đại dương rộng lớn bao la. Con ếch kia trả lời.

- Lớn bằng chừng nào?

- Lớn vĩ đại.

- Có bằng một phần tư cái giếng của tao không?

- Lớn hơn.

- Lớn hơn? Mày nói có lớn bằng một nửa không?

- Không, lớn hơn nữa.

- Thế, có bằng cái giếng này không?

- Không thể so sánh được.

- Không thể nào được! Tao phải đi xem tận mắt mới được.

Hai con ếch cùng đi với nhau. Khi ếch ngồi đáy giếng thấy được đại dương rộng lớn, nó quá kinh ngạc đến nỗi đầu nó nổ tung ra.

Câu chuyện này có lẽ muốn ám chỉ chúng ta như những con ếch ngồi đáy giếng, chỉ quanh quẩn sống trong khuôn khổ chật hẹp của hình tướng hữu vi, đâu ngờ rằng vượt ra ngoài những hình tướng trước mắt còn có thực tại của tâm rộng lớn vô biên không thể nghĩ bàn, mà chúng ta không hề biết đến.

Có lẽ con ếch ngồi đáy giếng kia, nếu biết tận dụng những lúc ngồi đáy giếng mà xoay lại phản chiếu chính mình, sẽ không nổ tung ra mà còn hỏi lại con ếch đại dương được rằng:

- Mày biết biển cả rộng lớn, vũ trụ bao la, nhưng có biết chính mình là ai không?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2772)
Một người đàn ông ngã bệnh và tìm đến bác sĩ. Vị bác sĩ khám cho bệnh nhân này và sau đó viết cho anh ta một toa thuốc trên một mảnh giấy.
(Xem: 2543)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2238)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2669)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2543)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2375)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2679)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2454)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3271)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2333)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2425)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2557)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2478)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2557)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2229)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2593)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3064)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2659)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2727)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 3015)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2577)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2620)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4121)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2784)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3084)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3325)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2295)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2530)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2814)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3016)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2882)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2629)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2641)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3197)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2600)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2281)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2397)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2492)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2609)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2701)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2765)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3282)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2570)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2137)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2609)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2061)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2834)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2931)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2962)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2731)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant