Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mạn đàm về chuông- một loại pháp khí của Phật giáo

10 Tháng Mười 201000:00(Xem: 14297)
Mạn đàm về chuông- một loại pháp khí của Phật giáo

Chuông, tiếng Phạn gọi là ghanta, ở Trung Quốc dịch là chung, khánh, là pháp khí dùng để gõ thông báo giờ giấc làm Phật sự và để tập hợp mọi người trong chùa.

Chuông chùa khởi nguồn từ ấn Độ, gọi là ghanta, khi truyền vào Trung Quốc mới gọi là chung. ở Trung Quốc thời Hoàng đế đã có thợ đúc chuông, vốn là nhạc khí để tế tự, yến hưởng, như ở thời Tây Chu có loại “biên chung”(1). Sau khi Phật giáo truyền nhập vào Trung Quốc thì chuông mới trở thành pháp khí hành lễ trong chùa. Khi triệu tập mọi người, ở ấn Độ thường gõ chuông làm bằng gỗ. Còn Trung Quốc thì thay bằng chuông đồng. Trong Tăng Nhất A Hàm Kinh, quyển 24 nói rằng: A Nan đi lên giảng đường, tay cầm ghanta và nói: Ta nay gõ trống của Như Lai, từ nay về sau các đệ tử của Như Lai nên tập trung đầy đủ. Bấy giờ, ông lại đọc kệ rằng:

Hàng phục ma lựcblank

Trừ kết vô hữu dư.

Lộ địa kích ghanta

Tỳ khưu văn đương tập.

Chư dục văn pháp nhân,

Độ lưu sinh tử hải,

Văn thử diệu hưởng âm,

Tận đương văn tập thử.

(Có nghĩa là:

Hàng phục bọn ma quái

Trừ sạch không còn gì.

Mặt đất gõ ghanta

Tỳ khiêu nghe nên đến.

Những người muốn nghe pháp,

Để qua biển sinh tử,

Nghe thấy âm diệu kì,

Tất cả nên tập hợp).

Về nguồn gốc ghanta, sách Ngũ Phần Luật, quyển 18 ghi: “Thời Phật Đà, có một lần tăng đoàn làm lễ bố tát(2) chưa thể kịp thời tập hợp, bèn tới một nơi hoang vắng toạ thiền hành đạo. Khi đó Đức Phật bèn bảo rằng phải gõ ghanta, hoặc gõ trống, thổi ốc để tập hợp. Cũng sách đó lại viết: “Các vị tỳ khiêu không biết làm thế nào để dùng gỗ làm ghanta, vì thế bạch với Đức Phật. Đức Phật nói: trừ cây sơn và các loài cây độc ra, còn các loại cây gõ phát ra tiếng, đều có thể làm được”.

Đại Trí Độ Luận quyển 2 nói: “Đại Ca Diếp đến đỉnh núi Tu Di gõ chuông đồng”. Qua đó có thể thấy đời sau cũng dùng đồng tạo chuông. Theo Đại Tỳ Khiêu Tam Thiên Uy Nghi, quyển hạ thì có 5 việc cần gõ ghanta, đó là:

1. Khi hội họp thường kì.

2. Khi ăn sáng.

3. Lúc ăn tối.

4. Khi trở về cõi Niết Bàn.

5. Mọi chuyện vô thường.

Về chủng loại nhìn chung chuông gồm hai loại: phạn chunghoán chung.

1. Phạn chung còn gọi là đại chung, điếu chung, chàng chung, hồng chung, kình chung bồ lao, hoa kình, hoa chung, cự chung, v.v… Phần lớn làm bằng đồng xanh, rất ít làm bằng sắt. Thông thường chuông cao khoảng 150cm, đường kính 60cm. Phía trên có quai chuông khắc hình đầu rồng. Phần dưới là hình hai toà sen đối nhau, gọi là bát diệp. Từ toà liên hoa trở xuống gọi là thảo gian. Mép viền dưới gọi là câu trảo. ở trên có hai phần là ao chứa và núm vú. Núm vú có hình nhỏ nhô lên, bọc vòng quanh, lại liên kết với chàng toà (toà hoa sen) tạo ra góc giao thoa, gọi là cà sa, lại gọi là lục đạo. Ngoài ra, bên cạnh núm tay quai có một lỗ hình tròn, thông với bên trong. Loại chuông này treo ở lầu chuông. Vì nó báo thời gian toạ thiền sớm tối nên được gọi là định chung. Nó còn báo cho mọi người đến tăng đường nên gọi là nhập đường chung dùng để tập hợp đại chúng hay báo thời gian sớm tối. Nếu căn cứ vào âm thanh của nó còn được gọi là kình âmĐời sau hay khắc chữ trên mặt trơn nhẵn của chuông.

2. Hoán chung còn gọi là bán chung, tiểu chung, phần lớn đúc bằng đồng thau, cao khoảng từ 60-80cm, được treo trong góc của Phật đường. Vì nó được dùng để thông báo sự bắt đầu của công việc hội họp trong chùa nên cũng được gọi là Hành sự chung.

Về cách gõ chuông, sách Hành Sự sao chép: “Khi Phật còn tại thế, chỉ có cách gõ ba tiếng”. Sách Ngũ Phần Luật chép: “Gõ ba hồi”. Về cách gõ ba hồi, sách Tứ Phần Luật Sớ Sức Tông Kí viết: “Mới gõ thì thừa mà nhẹ, dần dần tăng lên dồn dập mà mạnh, đến khi sắp dừng thì gõ nhẹ rồi thôi, gõ đủ thế gọi là một hồi. Cứ gõ thế cho đủ ba lần gọi là ba hồi. Sau khi gõ xong ba hồi, lại gõ mạnh 3 tiếng hoặc gõ mạnh 2 tiếng hoặc gõ mạnh 1 tiếng để biểu thị tiếng chuông chấm dứt”.

Trung Quốc, cách gõ chuông tuỳ theo tông thái, tuỳ từng khu vực mà có sự khác nhau, nhưng thông thường lấy 3 tiếng để bắt đầu, rồi 2 tiếng liền nhau để kết thúc. Số lượng tiếng chuông cần gõ trong thông lệ là 18 tiếng, cũng có thể gõ 36 tiếng hoặc 108 tiếng. Trong đó có lí do của việc gõ 108 tiếng có thể là ứng với các con số 12 tháng, 24 tiết khí và 72 thời hậu. Cũng có sách giải thích là để trừ bỏ 108 loại phiền não, vậy nên chuông thờ Phật còn có tên gọi là bách bát chung. Trong các ngôi chùa của Thiền tông, chuông được treo ở thiền đường, tăng đường, trai đường nên có tên gọi là tăng đường chung, đường chung, trai chung; chuông được treo ở điện thờ Phật thì được gọi là điện chung. Sư tăngchức phận gõ chuông được gọi là chung đầu. Thế nhưng khi gõ chuông, cần giải thích trong kinh luận mà nghiệm chứng. Sau khi gõ chuông lễ Tam bảo rồi thì có nghi thức đứng nghiêm chỉnh khấn rằng: Con gõ tiếng chuông này, xin mời tăng chúng mười phương, hễ ai nghe thấy, xin đến hội họp, cùng hưởng lợi lạc. Lại xin rằng các chúng sinh chịu khổ sở, đều được yên lành.

Về cách tạo chuông: chuông có thể được làm bằng gỗ, đá hoặc đồng, nét khắc rất tinh xảo, và thường có minh văn. Ngay ở thời Lục Triều đã có gác chuông. Trên chuông cũng có khắc minh văn. Chẳng hạn như năm Thiên Hoà thứ 5 (566) đời Bắc Chu, vua Chu Vũ Đế soạn bài Đại Chu hị giáo chung minh; năm Lân Đức thứ 2(665) đời Đường, vua Đường Cao Tông soạn bài Đại Đường Hưng Thiện tự minh chung, Kinh đô Tây Minh tự minh chung.

Từ đời Bắc Chu trở về sau, việc chế tạo chuông chùa cũng còn rất nhiều phiền phức. Ngoài ra, ở quả chuông chùa Hàn San ở Tô Châu có khắc bài thơ Phong Kiều dạ bạc của nhà thơ Trương Kế đời Đường, cũng hết sức nổi tiếng. Lại nữa, theo sách Nhập Đường Cầu Pháp Tuần Lễ Hành Kí quyển 3 của sư tăng người Nhật tên là Viên Nhân cũng thấy viết: “ở núi Ngũ Đài có hang Gác Chuông, đó chính là nơi Văn Thù Bồ Tát thị hiệngác chuông vàng”.

Hàn Quốc xưa nay đều rất chú trọng nghệ thuật đúc chuông, như ở Tân La vào niên hiệu Huệ Cung Vương thứ 7 (tức năm 771) đúc chuông chùa Thái Đức, gần đây, chuông được treo ở lầu chuông bên ngoài Nam môn Khánh Châu. ở Nhật Bản, bao nhiêu chuông đưa từ Trung Quốc sang đều được xem nhưquốc bảo. Chẳng hạn như chuông ở Thần cung Phong Tiền Vũ Tá, thần Cung Lưu Cầu, chùa Phi Tiền Huệ Nhật, chùa Viên Thành gần bờ sông, v.v…

Nhìn chung, đối với việc tu đạo, chuông có ích lợi rất lớn. Tăng Nhất A Hàm Kinh nói nếu khi gõ chuông thì hết thảy một điều xấu xa, mọi nỗi phiền khổ đều bị ngăn chặn. Sách Sắc tu Bách Trượng Thanh Quy quyển 8, chương Pháp khí nói: “Đại chung là hiệu lệnh chốn tùng lâm. Buổi sớm gõ chuông giúp phá tan đêm dài; buổi chiều chuông ngân làm giác ngộ ngõ tối”. Truyền thuyết kể rằng nước Cổ Nguyệt Chi có chiến tranh với nước An Tức, người bị giết hại có đến 90 vạn. Vì lí do ác báo, những người này sau khi chết hoá thành con cá lớn nghìn đầu, kiếm đeo quanh thân. Hễ cứ chém, đầu lại mọc ra, vô cùng ghê sợ. Để chấm dứt nỗi khổ sở này, người ta phải thỉnh cầu các vị la hán thường xuyên gõ chuông để xua đuổi tà ác.

Chính vì chuông có nhiều công đức, lợi ích như vậy nên khi thỉnh chuông người ta thường tụng chung thanh kệ để cầu quốc thái dân an, mọi phiền não tiêu tan để được viên thành Phật đạo./.

---------------------------------

 

Khoan Xương(*) Người dịch: Ánh Hồng Viện Nghiên cứu Hán Nôm

*. Bài đăng trong Thế giới văn hoá tôn giáo, Số 1-2002 (Tiếng Trung). 1. Biên chung: tên một loại nhạc khí, gồm nhiều chuông đồng treo trên một thanh gỗ để ngang. (Theo Từ nguyên-Thương vụ ấn thư quán, xuất bản 1995). 2. Bố tát:một nghi thức của Phật giáo. Tăng ni xuất gia cứ nửa tháng một lần họp lại chuyên tụng giới, gọi là “thuyết giới”, cho là có thể tăng trưởng được thiện pháp (Theo Từ điển Nho Phật Đạo, Nxb. Văn học).

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 9574)
Quán Thế Âm có nghĩa là quán chiếu, suy xét, lắng nghe âm thanh của thế gian.
(Xem: 10291)
Trong kiếp sống nhân sinh ai cũng phải trãi qua những thăng trầm của cuộc sống để kinh nghiệm được những bài học vố giá của trường đời.
(Xem: 9458)
Tính viên mãn vốn sẵn là một chủ đề chính trong kinh Hoa Nghiêm. Sự viên mãn vốn sẵn có này biểu hiện khắp cả vũ trụ, trong thế giới vĩ mô và thế giới vi mô.
(Xem: 9625)
Nếu chúng ta có một trái tim tràn đầy tình thương yêu thì có phải sẽ mang lại bình an không? Một trái tim tràn đầy thương yêu mà ta đang nói tới có nghĩa là gì?
(Xem: 11271)
Dân gian ta có câu: “Dầu xây chin bậc Phù đồ, Không bằng làm phúc cứu cho môt người”.
(Xem: 9579)
Ni Sư Thubten Chodron thường chú trọng đến việc áp dụng những điều Phật dạy vào đời sống hằng ngày của chúng ta
(Xem: 10053)
Sự hiện hữu của ta bao gồm thân và tâm. Ta cần quan tâm đến cả hai, dầu thiền là một hoạt động của tâm, chứ không phải thân.
(Xem: 9314)
Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền (Theravāda), mùa an cư của chư Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âm lịchkết thúc vào ngày rằm tháng 9 âm lịch.
(Xem: 8936)
Sinh sống có chánh niệm là một trong các quan niệm của đạo Phật nói về thái độ cẩn trọngsáng suốt của người xuất gia trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
(Xem: 11242)
Hiện nay có rất nhiều người trên thế giới thực hành ăn chay. Có người ăn chay trường, có người ăn chay kỳ, có người ăn chay tùy thích…
(Xem: 11328)
Tâm kinh Bát-nhã có câu nói nổi tiếng đề cập phương pháp giải thoát khổ đau rất truyền thống của đạo Phật Nguyên thủy, được nhấn mạnh trong các bản kinh Nikàya.
(Xem: 9571)
Để có hạnh phúc cho mình, người ta quên bẵng đi những thiệt thòi, tổn hại và khổ đau của kẻ khác. Đến khi khổ đau, mất mát, thì oán trách, đổ lỗi cho tha nhân.
(Xem: 8217)
Nếu chúng ta biết cố gắng làm việc tốt và chuyển tâm xấu ác thành tâm tốt thì quả sẽ thay đổi theo chiều hướng tốt.
(Xem: 9524)
Chánh mạngphương kế sinh nhai chân chánh (còn gọi là phương tiện sống chân chánh). Trong Kinh DI GIÁO Đức Phật dạy các Tỳ kheo về Phương tiện thanh tịnh:
(Xem: 9761)
”Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ-tát do nhơn duyên gì mà tên là Quán Thế Âm?”.
(Xem: 9160)
Chắc hẳn quý vị đều nghĩ rằng sau khi đạt được Giác Ngộ thì Đức Phật nhất định phải có một cuộc sống thật thoải mái, có đúng thế hay chăng?
(Xem: 9683)
Đức Phật đã từng nói rằng: "Nầy các Tỳ Kheo, bất cứ ai muốn chăm sóc ta, người ấy phải muốn chăm sóc người bệnh"
(Xem: 9674)
Bái sám nhiều mà tội diệt phước sinh là không đúng về nhân quả.
(Xem: 8146)
Giáo pháp do Đức Phật dạy có rất nhiều nhưng trọng tâm vẫn là Bát Chánh đạo.
(Xem: 9074)
Từ khi trên quả đất này có sự sống, con người và muôn loài vật được tồn tại bằng luyến ái, tức là sự thương yêu,
(Xem: 22504)
Mặt trời hừng đông. Ngày mới lại đến. Buổi sáng bắt đầu cho một ngày mới của đời sống.
(Xem: 9349)
Thiền là một cách huấn luyện tâm, do đó, nếu chúng ta càng thực tập nhiều, càng thực tập đều đặn, chúng ta càng nhìn thấy sự tiến bộ của chúng ta.
(Xem: 17787)
Suy cho cùng, chính bạn chứ không phải ai khác là người chịu trách nhiệm cho việc bạn sử dụng số ngày còn lại của mình trong cuộc đời này ra sao.
(Xem: 10113)
Đức Phật dạy: “Nhứt thiết duy tâm tạo” tất cả đều do tâm tạo, “...Duy ngã độc tôn” “cái ta” là tối cao và quan trọng nhất, quyết định tất cả,
(Xem: 10641)
Đức Phật nêu lên Sự Thật Cao Quý Thứ Nhất và gọi Sự Thật này là dukkha. Thuật ngữ dukkha trong tiếng Pa-li thường được dịch là "khổ đau" (suffering)
(Xem: 10853)
Phát Bồ-đề tâm là phát sanh một ý nguyện đạt đến giác ngộ để cứu thoát tất cả chúng sanh.
(Xem: 9722)
Khi chưa biết tu, thân ta có khi làm việc thiện lành tốt đẹp, có lúc ta làm việc xấu ác gây nhiều tội lỗi, miệng có khi nói lời ngọt ngào dễ thương, có lúc nói
(Xem: 9369)
Nếu chúng ta phản ứng mạnh mẽ với tiếng ồn, nghĩa là chúng ta dấn thân vào cuộc chiến mà chúng ta không thể nào dành được phần thắng.
(Xem: 10353)
Trong nhiều pháp thoại, Thế Tôn thường sử dụng các hình ảnh trực quan để minh họa cho những giáo huấn của Ngài.
(Xem: 9450)
Nói đến tình thương, theo thế tục, chúng ta liên tưởng đến đối tượng của tình thương với những điều kiện (như một sự trao đổi tương xứng).
(Xem: 10615)
Đạo Phật dứt khoát không bao giờ chấp nhận việc mê tín Thần quyền, nhứt là những vấn đề tin nhảm nhí, theo một niềm tin mù quáng, không được điều động bởi lý trí.
(Xem: 9642)
Theo sự chỉ dạy của Thế Tôn, người Phật tử cũng có quyền làm giàu để nâng cao sự sống ngoài việc lo tròn trách nhiệm, bổn phận đối với gia đìnhxã hội.
(Xem: 15410)
Khi đến chùa bạn hãy nhớ những điều dưới đây không được nghĩ tới và cũng không được cầu khẩn mong muốn thành hiện thực nhé, những điều này là không nên.
(Xem: 8530)
Một vị lãnh đạo đất nước muốn giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, có được cơm no áo ấm và sống an vui, hạnh phúc trên tinh thần vô ngã, vị tha phải là người có ...
(Xem: 11142)
Từ bisức mạnh thế nào, tới mức độ nào, và có thể chuyển hóa được thế gian hay nhân loại hay không
(Xem: 9278)
Người ta thường ngạc nhiên khi khám phá ra rằng thiền rất khó hành. Nhìn bề ngoài nó có vẻ là việc đơn giản, chỉ ngồi xuống chiếc gối nhỏ và theo dõi hơi thở.
(Xem: 8563)
Những ý niệm như vô ngại, đồng thời, đồng hiện, sẵn đủ, viên mãn… không chỉ có trong kinh Hoa Nghiêm mà có trong tất cả kinh điển, nhất là Đại thừa.
(Xem: 8798)
Thế giới loài vật cũng có sự sống sinh hoạt song hành với loài người nên cũng bị vô minh chi phối.
(Xem: 14585)
Chùa Khánh Anh - Paris Pháp Quốc
(Xem: 12713)
Tìm hiểu về quá trình tu tập của Sa-môn Cồ-đàm - nhất là khi từ bỏ vị thầy thứ hai (Uất-đầu-lam-phất) cùng hội chúng, Ngài đi đến Khổ hạnh lâm trải qua 6 năm khổ hạnh;
(Xem: 9630)
Có nhiều người thích trang sức bằng những viên ngọc quý. Tuy nhiên, viên ngọc đẹp đẽ, và to lớn nhất, là viên ngọc trong tâm.
(Xem: 9265)
Môi trường sống để tu học rất quan trọng cho tiến trình thành quả của người thực hành, nếu không nhận ra sự khác biệt trên giáo pháp Đức Thế Tôn dạy và...
(Xem: 9873)
Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật.
(Xem: 14727)
Khi chim còn sống trên đời Chim ăn kiến nhỏ thấy thời khó chi, Nhưng khi chim bị chết đi Kiến thời ăn nó có gì khó đâu.
(Xem: 9105)
Mỗi khi phải đương đầu với nghịch cảnh hoặc các thứ chướng ngại, thì quý vị nên xem đấy như là một món quà thấm đượm từ biĐạo Pháp mang tặng mình,
(Xem: 10540)
Chúng ta ai cũng biết sân hậnđau khổ vì nó áp lực chúng ta phải giải tỏa những mối đe dọa bằng mọi giá.
(Xem: 10494)
Đức Phật thường ví mình như một vị y sĩ, và Đạo Pháp là phương thuốc Ngài dùng để chữa bệnh.
(Xem: 9608)
"Tu là quá trình: quán chiếu nội tâm, làm triệt tiêu bản ngãchuyển hóa nghiệp lực của mình” đây là ba điều kiện tiên quyết, cốt yếu và tinh túy nhất, trong phận sự người tu.
(Xem: 9473)
Họa hay phước không phải do ngày tháng xấu, tốt tạo ra; họa hay phước là do nhân quả mà có
(Xem: 10334)
Tất cả mọi sự sống ở trên đời này từ khổ đau cho đến hạnh phúc của thế gian cũng đều từ cái ta mà ra.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant