Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tháng Bảy mùa chay - Những cung bậc và nỗi niềm

25 Tháng Tám 201100:00(Xem: 10551)
Tháng Bảy mùa chay - Những cung bậc và nỗi niềm


blank

Ngày nay, ăn chay không còn là việc thọ thực dành riêng cho giới tu hànhtôn giáo mà đã phổ biến hơn với mọi thành phần xã hội. Vậy nên ẩm thực chay cũng được nâng lên và sáng tạo với đủ loại tên gọi, hình thức, phong cách khác nhau. Trong đó, có một thực tế là không ít các món chay được đặt tên hay làm theo nguyên mẫu những món mặn như đùi gà chay, thịt bò chay v.v… Từ đó vấn đề “chay giả mặn” trở thành đề tài nổi cộm cho nhiều luồng ý kiến khác nhau dẫn đến phản ứng bất đồng, thậm chí tranh cãi gay gắt giữa những người ăn chay. Dầu sách vở, tư liệu do các nhà nghiên cứu, các chuyên gia ẩm thực chay biên soạn từ lâu đã đề cập vấn đề nhạy cảm này một cách thấu đáo, trong đó có cả sự “giải trình” nguyên nhân của việc sản xuất hàng loạt những sản phẩm chay (giả mặn) của các công ty trong và ngoài nước nhưng xem ra đa phần chưa tiếp cận hết những nguồn thông tin này nên không ít người ăn chay vẫn tồn đọng vô vàn thành kiến, thắc mắc “vì sao” về những món chay.

Ẩm thực chay - quà tặng tinh khiết của thiên nhiên

Ăn chay đã có mặt từ lâu trong đời sống cư dân Việt Nam cũng như các dân tộc trên thế giới với nhiều mục đích tôn giáo, thực dưỡng, giữ gìn sức khỏe, bảo vệ môi sinh v.v… Hiện ngày càng nhiều người Việt và người nước ngoài sinh sống và làm việc tại nước ta ăn chay trường nhưng không vì lý do tôn giáo. Hiện tượng những nhà hàng chay, quán chay có tầm vóc nở rộ tại Việt Nam gần đây, nhất là các đô thị lớn, phục vụ mọi tầng lớp thực khách có nhu cầu tìm về nguồn ẩm thực chay thanh đạm đã minh chứng điều này.

Nổi bật về ẩm thực chay cho đa phần thực khách nước ngoài tại TP.HCM là dãy nhà hàng chay ở khu phố Tây (Phạm Ngũ Lão, Q.1) như nhà hàng An Lạc Chay, quán Bồ Đề… Đương nhiên món chay nơi đây cũng được cách tân, chế biến theo phong cách nước ngoài như hamburger (Mỹ), pizza (Ý) cùng với lẩu Thái Lan, lẩu Thượng Hải… Những món chay này đã đem đến nguồn ẩm thực mới lạ, ngon miệng cho thực khách qua hình thức bắt mắt cùng khẩu vị đa dạng. Tất cả đã đáp ứng được nhu cầu chủ yếu là dinh dưỡng và tinh khiết cho thực khách. Vì ăn chay, đối với họ đơn thuần chỉ là lối ăn bớt đi nguồn thực phẩm động vật, để chuyển sang tiêu dùng các nguyên liệu từ thiên nhiên nhưng vẫn đầy đủ chất bổ dưỡng rất tốt cho sức khỏe. Đặc biệt, món chay dạng này đã thu hút nhiều bạn trẻ Việt Nam quan tâm thưởng thức. Bởi loại hình ẩm thực này đã thực sự mang lại sự sinh độngtinh tế trong ẩm thực. Chính sự khéo tay và tài nghệ của đầu bếp đã biến việc ăn chay thành một nghệ thuật ẩm thực, làm hài lòng thực khách với nhiều hình thức thú vị cùng cách trình bày đẹp mắt.

Chế biến thực phẩm chay cũng chính là một sự sáng tạo. Vì muốn làm ra những món chay “y như thật” đòi hỏi người nấu phải đầy đủ kinh nghiệm cùng sự gia công thẩm mỹ khéo léo mới có thể làm ra những món ăn tinh tế, hoàn hảo cả hương vị lẫn hình dạng và màu sắc. Có tận mắt chứng kiến mới thấy hết được đôi bàn tay tài hoa người làm bếp. Họ đã bỏ công chăm chút từng món ăn nhằm đáp ứng mọi nhu cầu ăn uống của thực khách. Sự nỗ lực sáng tạo này đơn thuần chỉ là nghệ thuật nấu ăn, chủ yếu tạo sự đẹp mắt làm tăng hương sắc cho cuộc sống, phục vụ xã hội nói chung mà không hề có sự dính dáng đến tôn giáo ở đây.

Với thị hiếu ăn chay ở các nhóm này thì sự hiện diện của các thức chay (giả mặn) đã khiến cho họ thán phục cùng ngạc nhiên thú vị trước những tinh tế mới lạ của món ăn mà không thấy một… trở ngại nào. Vậy thì không vì bất cứ nguyên nhân gì khiến cho sự sáng tạo ấy bị thờ ơ, thậm chí bị phê phán hoặc phủ nhận với người luôn biết trân trọng thưởng thức món ngon, vẻ đẹp. Lẽ nào việc sáng tạo về hình thức các món ăn là việc làm có lỗi hay xúc phạm đối với người ăn chaymục đích tôn giáo? Phải chăng lỗi của các món chay đó là ở tên gọi “mặn” hay hình thức “mặn” vô tình làm khơi dậy cái “tưởng” trong thực khách? Trong khi điều đó cũng chính là mục tiêu của những người kinh doanh loại hình ẩm thực này, dù là ẩm thực chay.

Định dạng một món chay - dễ mà khó

Tên gọi và hình thức của nhiều món chay mới đang được định dạng. Gọi tên thế nào, hình thức ra sao, theo đạo hay theo đời v.v… vấn đề này tuy dễ mà khó, vì quan điểm của thực khách rất đa dạng và có không ít tranh biện cho việc này. Với những người ăn chay thực dưỡng, không tôn giáo thì không có gì phải bàn. Riêng những người ăn chay như một pháp tu thì tên gọi và hình thức món ăn cũng là điều quan trọng.

Và như thế thì lẽ nào ăn chay bỗng có “vấn đề” khi được kết hợp cùng nhu cầu luôn đồng hành với tâm từ bi, tiêu chí hàng đầu của mỗi người Phật tử? Có mâu thuẫn không khi lòng bi mẫn được phát nguyện rộng lớn đến muôn loài mà không “thương” nổi, không dung nạp nổi hình thái của món ăn (những vật vô tri) thì sao có thể trải rộng tình thương đối với vạn vật (hữu tình lẫn vô tình)? Khi nhân danh lòng từ của đạo Phật để đưa vấn đề tên gọi và hình thức của món ăn ra bàn cãi, tranh luận thậm chí chống trái nhau thì liệu có mâu thuẫn không?

Hay cứ phải là những cái tên như: cà ri Tứ đế, gỏi Thiền định, chè Ngũ uẩn… (như một số nơi đã làm) mới là đúng nghĩa của việc thọ trai, mới biểu hiện triệt để của lòng từ? Thế nhưng những cái tên ấy được sử dụng cho nhà hàng liệu có thu hút được mọi thực khách hay chỉ gây sự lạ lẫm hoặc “không xuôi tai” với người không tôn giáo đến với nhà hàng gieo thiện duyên với việc ăn chay. Những cách đặt tên món ăn gây tranh luận kiểu này nếu không khéo thì ngày càng trở nên bi hài, gây cái nhìn thiếu thiện cảm với số đông người ăn chaymục đích thực dưỡng mà không theo một tín ngưỡng nào.

Theo nhận định của các nhà nghiên cứu ẩm thực chay uy tín thì thực phẩm chay giả mặn (từ các công ty sản xuất thực phẩm chay) chủ yếu là để gây sự chú ý của người ăn, những người thường xuyên dùng món mặn, để họ dễ thích ứng trong bước chuyển ban đầu giúp họ bớt sát sinh (Tâm Diệu, Quan điểm người ăn chay).

Thiết nghĩ đừng vì quan niệm riêng trong nhu cầu ẩm thực cá nhân mà phê phán thị hiếu ăn chay của số đông. Nhiều người ăn chay trong xã hội đã là tín hiệu lành, dù chưa làm khơi dậy tâm từ bi để sống hiền thiện như Phật tử thì chí ít cũng giúp thân tâm họ nhẹ nhàng hơn, và có thể đó là duyên để cho họ đến với đạo. Nếu cho rằng vì tên gọi và hình thức của món chay (giả mặn) đem lại sự lợi bất cập hại, làm ảnh hưởng đến người mới bước vào đạo, như quan niệm của một số người, thì cũng vô tình chúng ta thiếu trợ dyên cho những người hướng đến làm quen với việc ăn chay.

Thực ra, tên gọi và hình thức món chay sẽ không là gì nếu ta không quá xem trọng nó. Mọi vật sẽ trở nên bình thường như những món quà hương vị của cuộc sống, đơn giảnvấn đề không nằm ở món ăn mà ở tính cách người cảm nhận. Người đơn giản thực sự thì ở đâu, lúc nào cũng thong dong nhẹ nhàng. Như vào quán chay, gọi hai món bún riêu cua và bún bò một cách dõng dạc mà không gợi suy nghĩ nhiều với người bán và cả người ăn dù hai món bún chay ấy có màu sắc và hương vị chẳng khác với bún bò và bún riêu cua mặn chính hiệu. Xét cho cùng thì đó chỉ là món ăn bình thường, thanh tịnh hay không thanh tịnh là do mình. Một chút “suy xét” để thấy sự việc không nằm ở hình dáng, tên gọi món ăn mà nằm từ chính tâm thức; một tâm lý nhạy cảm ưa liên tưởng, so sánh các món ăn.

Thọ thực với tâm bồ đề

Kinh A-hàm, Phật dạy: “Nghiệp bắt đầu từ sự tham muốn. Chúng sanh bị vô minh tăm tối làm cho sai lầm trong chỗ nhận thức, chỗ phán xét và đánh giá sự vật ở đời…”. Là Phật tử, dầu nhận thức của chúng ta chưa đạt đến chỗ kiến tánh để có thể tự tại, bình thản chấp nhận mọi hoàn cảnh nhưng lời Phật dạy nhắc nhở ta xem xét lại tự thân, điều chỉnh lại công phu tu tập của mình. Mục đích của ăn chay nhằm nuôi dưỡng và phát triển hạt giống từ bi. Thức ăn chỉ để nuôi dưỡng thân mạng, sự chay tịnh nuôi dưỡng tâm hồn. Nếu chỉ ăn chay suông mà không chuyển hóa ba nghiệp, thân khỏe mà tâm không an, thì sự ăn chay đó chưa đúng ý nghĩa ăn chay theo Phật giáo.

Thiết nghĩ dù là ăn chay với nguyên do nào, người Phật tử chân chính cũng không vì nhân danh đạo Phật mà quá khắt khe trong chuyện ăn uống. Vì thực khách có nhiều hạng với căn cơ khác biệt nhau. Cần ứng dụng tinh thần tùy duyên trong những trường hợp này. Tùy duyên chính là sự trở về với cái tâm đơn giản, ăn với một “cái biết” rất rõ: Ta đang ăn chay.

Ăn chay để hướng đến tịnh hóa, thanh lọc nội tâm của chính mình. Điều này quan trọng hơn việc chú tâm vào bàn cãi về hình thức và tên gọi của món ăn. Bởi chay tịnh không nằm ở thị giácxuất phát từ tấm lòng, nhất là tấm lòng phải cởi mở để tùy nghi, đón nhận mọi “màu sắc” cuộc đời. Không vì cái tên, hình dáng món ăn làm ảnh hưởng, phân tâm chi phối vào đời sống tu học. Như đối với chư Tăng thì việc ngọ trai hàng ngày chỉ như một nhu cầu đơn giản, ăn để nuôi sống thân mạng, không có gì đáng bàn, đáng quan tâm. Đây chính là cánh cửa nhiệm mầu, mở ra một khung trời chay tịnh vượt lên mọi quan niệm, định kiến để được tùy duyên sống, tùy duyên dùng bữa. Vì “ích lợi gì một món ăn thanh bạch được dùng trong cái tâm thiếu yên tĩnh?”, một vị Tăng cho biết.

Vậy trạng thái tâm tưởng giữ vai trò đặc biệt, chúng giúp ta tránh được các định kiến “ăn chay thật”, “ăn chay giả” (món chay giả mặn) thuộc về quan niệm, tìm cầu so sánh vốn không mấy lợi ích. Nên đừng quá chú trọng nhiều vào hình thức bên ngoài, vì tự thân các món chay lúc nào cũng vốn dĩ thuần khiết và tinh sạch.

Tất nhiên, người Phật tử chân chính không phí phạm thời gian cho việc chế biến các món ăn chay theo cách giả mặn với hình thức và hương vị cầu kỳ. Tuy vậy, người Phật tử cũng không quá cứng nhắc dẫn đến định kiến và phê phán những người khác mới lần đầu tìm hiểu việc ăn chay hay đang có xu hướng tập ăn chay thích hình thức giả mặn hơn. Đó chính là từ bi, khoan dung và là một cách nâng đỡ, trợ duyên cho tinh thần ăn chay được hội nhập, xã hội hóa rộng rãi trong đời sống.

Pháp Đàm
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2531)
Vô ưu, Phạn ngữ Asoka, Hán ngữ phiên âm A du ca, A thúc ca, A thuật ca… dịch nghĩa là Vô ưu hoa, hoa không ưu tư phiền muộn.
(Xem: 2222)
Tu tâmtìm thấy bản tánh của tâm và sống thuần thục trong bản tánh của tâm.
(Xem: 2657)
Ajahn Lee Dhammadharo (1907–1961), là thiền sư theo truyền thống tu trong rừng của Phật giáo Thái Lan Nguyên thủy (Thai Forest Tradition).
(Xem: 2525)
“Xưa kia, ông Bạch Cư Dị hỏi Ô Sào thiền sư: ‘Thế nào là đại ý Phật Pháp?’ Ngài Ô Sào đáp: ‘Đừng làm các điều ác, vâng giữ các hạnh lành.’
(Xem: 2351)
Tu tập tâm linhhộ trì Chánh pháp là sự hướng nguyện của người học Phật và hành theo Phật và mục đích cuối cùngthành Phật.
(Xem: 2667)
Chúng ta nhiều khi đứng ở vào một tình thế khó xử, trước hai thái độ chủ trương bởi đạo Phật
(Xem: 2436)
Khi tôi viết về đề tài sống với cái đau, tôi không cần phải dùng đến trí tưởng tượng của mình.
(Xem: 3248)
Dưới hiên mưa vắng hồn khua nước Thả chiếc thuyền con ngược bến không
(Xem: 2321)
Trong kinh Tăng chi bộ (6.19, kinh Maraṇasati, HT.Thích Minh Châu dịch), Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 2411)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
(Xem: 2543)
Tánh nghe được giảng nhiều trong Kinh Lăng Nghiêm. Sau đây, chúng ta sẽ dùng vài đoạn Kinh Lăng Nghiêm để tìm hiểunhận biết tánh nghe.
(Xem: 2467)
Ngài trụ trì thiền viện Baan Taad nằm tại vùng nông thôn gần ngôi làng nơi ngài đã sinh ra và lớn lên.
(Xem: 2539)
Tội lỗi, ác nghiệp tồn tại ở trong tâm, không nằm ở ngoài thân nên tắm rửa chỉ trừ được bụi bẩn trên người mà thôi, không chuyển hóa được tâm ô uế.
(Xem: 2202)
"Một thời Đức Phật đến Uất-bệ-la, bên bờ sông Ni-liên-nhiên, ngồi dưới gốc cây A-đa-hòa-la Ni-câu-loại vào lúc mới thành đạo.
(Xem: 2579)
Trong Tăng Chi Bộ 6.19, Kinh Maraṇasati, Đức Phật gọi các đệ tử của mình lại và nói với họ:
(Xem: 3047)
Sau khi Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, bài kinh Ngài dạy đầu tiên đó là bài kinh Vô Ngôn. Cốt lõi của bài kinhlòng biết ơn.
(Xem: 2649)
Dẫu có bao công đức, Như tôn kính chư Phật và thực hành bố thí, Tích lũy qua hàng ngàn kiếp sống, Một phút sân hận sẽ thiêu hủy tất cả.
(Xem: 2707)
Bất cứ thứ gì có hình sắc đều đem đến phiền não.
(Xem: 2990)
Trong kinh Trung A-hàm, kinh Trưởng lão thượng tôn buồn ngủ[1] đề cập đến một loại phiền não thường xuất hiện trong quá trình tu tập của bất kỳ ai, đó là phiền não buồn ngủ
(Xem: 2556)
Du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, từ những năm đầu công nguyên, Phật giáo đã được tín ngưỡng truyền thống của người Việt tiếp nhận,
(Xem: 2592)
Giới, Định, Tuệ (Pāli: Tisso Sikkhā) là Tam học, cũng gọi là Tam vô lậu học – một thuật ngữ vô cùng quan trọng
(Xem: 4098)
Giới, Định và Tuệ là ba môn tu học quan trọng trong Phật giáo. Ta thường hay nói “Nhân Giới sanh Định, nhân Định phát Tuệ”.
(Xem: 2774)
Cầu Pháp có nghĩa là tìm hiểuthực hành Chánh pháp. Hiểu đúng về lời Thế Tôn dạy, thấy rõ con đường tu từ phàm lên Thánh,
(Xem: 3065)
Trên thế gian này, không có bất kỳ sự tồn tại nào mang ý nghĩa độc lập mà có thể xuất hiện, muốn tồn tại được chính là nhờ vào các mối quan hệ hỗ tương tạo nên
(Xem: 3306)
Pháp Thủ Nhãn lấy Kinh Hoa Nghiêm làm bộ sườn của sự học hỏi gọi là Lý. Thực hành theo pháp 42 Thủ Nhãn của chú Đại Bi là Sự, là nền tảng của Thủ Nhãn.
(Xem: 2289)
Trong cuộc sống, khổ đau là điều mà con người không thể tránh được: khổ do tâm, khổ do thân và khổ do hoàn cảnh.
(Xem: 2500)
“Phật chủng tùng duyên khởi” – giống Phật do duyên sanh. Không phải chỉ có tạo “duyên” là được mà phải có chủng tử (hạt giống) đã gieo trong nhiều đời nhiều kiếp.
(Xem: 2803)
Trong gần 60 năm qua, tôi đã làm việc với rất nhiều nhà lãnh đạo của các chính phủ, công ty và các tổ chức khác nhau. Qua đó, tôi thấy xã hội của chúng ta đã phát triển và thay đổi như thế nào.
(Xem: 3000)
Mới vào đề chắc có người sẽ thắc mắc tại sao một người tu sao lại nói đến chữ Tình để làm gì? Xin quý vị hãy từ từ đọc vào nội dung sẽ hiểu.
(Xem: 2869)
Viên ngọc và hoa sen Phật tánh là cái không thể hư hoại, dầu trong lửa phiền não cháy mãi của thế gian sanh tử này.
(Xem: 2608)
Khi vào nhà đạo, làm con của Đức Phật thì như trăm sông hòa vào biển cả.
(Xem: 2634)
Trong kinh Tăng Chi Bộ[1] có chép: “Một hôm, có người Bà la môn đến gặp đức Phật, ông ta bạch rằng
(Xem: 3189)
Căn cứ vào lời Phật dạy căn bản trong Kinh Nam Truyền là vào các ngày mồng 1, 8, 14, 15, 23 và 30 là những ngày trai mà người Phật tử
(Xem: 2595)
Lòng Từ không chỉ là chất liệu cho sự hạnh phúc của bản thân mà nó còn là hạt giống cho sự hạnh phúc của toàn nhân loại.
(Xem: 2271)
Này thiện nam tử, ngươi trụ trong giải thoát tự tại chẳng thể nghĩ bàn của Bồ tát, thọ những hỷ lạc của tam muội Bồ tát,
(Xem: 2385)
Để bắt đầu, trước tiên, hãy điều chỉnh động lực của mình, bằng cách nghĩ rằng hôm nay, mình có mặt ở đây để lắng nghe giáo pháp cao cả,
(Xem: 2476)
Trong sự tu hành, danh lợi là những thứ chướng ngại không dễ vượt qua. Lợi thì thô, dễ thấy và còn có điểm dừng nhưng danh thì vi tế và vô hạn.
(Xem: 2596)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2687)
Theo Phật giáo, mặc dầu có nhiều quan điểm hạnh phúc khác nhau, nhưng tất cả không ngoài hai phạm trù: hạnh phúc từ kinh nghiệmcảm thọ giác quan trong cuộc sống
(Xem: 2744)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương II, phẩm Các Hi Vọng, đức Phật dạy: “Có hai hạng người này, này các tỳ kheo, khó tìm được ở đời. Thế nào là hai?
(Xem: 3266)
Tiếng chuông điểm dứt Bát Nhã Tâm Kinh như hoà vào không gian tĩnh lặng khiến làn gió thoảng qua cũng dịu dàng ngân theo lời kinh vi diệu “ … Sắc tức thị không. Không tức thị sắc …”
(Xem: 2556)
Khi nhìn thấy chư Tăng – Ni xếp chân ngồi thiền định, tôi (T.Sư Goenka) nhớ lại lời dạy của đức Phật.
(Xem: 2130)
“Bấy giờ đồng tử Thiện Tài cung kính đi nhiễu bên phải đại Bồ tát Di Lặc xong bèn thưa rằng: Cầu xin đại thánh mở cửa lầu gác cho con được vào.
(Xem: 2599)
Trong kinh Tăng Chi Bộ I, chương III, phẩm Lớn, bài kinh Sở Y Xứ, đức Phật có nói về quan điểm của ngoại đạo.
(Xem: 2052)
Trước đây không lâu tôi có đọc một quyển sách của một học giả Phật giáo lỗi lạc và tôi chú ý đến nhận định sau đây:
(Xem: 2817)
Đức Phật luôn luôn nhấn mạnh vào tầm quan trọng của cuộc sống bình ổn. Ngài luôn luôn hướng dẫn nhân loại, chúng sinh hướng đến sự hòa bình
(Xem: 2905)
Một câu hỏi có thể nêu lên: Đức Phật sau khi thành tựu Chánh đẳng Chánh giác, Ngài dạy bài Kinh nào đầu tiên?
(Xem: 2939)
Trong thế gian này hận thù không bao giờ làm chấm dứt hận thù, chỉ có không hận thù mới xoá tan hận thù. Đó là quy luật tự ngàn xưa. Kinh Pháp Cú 5
(Xem: 2714)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2509)
Tất cả chúng ta đều quen thuộc với khái niệm vô thường, nhưng giải thoát vô tướng là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant